Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hẹn Gặp Ở Samarra

Hẹn gặp ở Samarra là tác phẩm đầu tay nổi tiếng nhất đạt đến vẻ đẹp kinh điển của một tác phẩm hiện thực. Mùa Giáng sinh năm 1930, trong giới quý tộc ở Gibbsville người ta chỉ tiệc tùng và khiêu vũ, các dàn nhạc chơi đến sáng và rượu tuôn chảy suốt đêm. Hạt nhân của nhóm quý tộc là cặp vợ chồng trẻ Julian và Caroline English, họ nổi bật đến mức cả người quenn cũng như người lạ đều lấy làm ganh tỵ với họ. Nhưng trong một giây phút bộc phát với việc hắt một ly rượu vào mặt một người khác, Julian đã phá vỡ trật tự của giới này rồi bắt đầu đoạn trượt dài dẫn đến việc tự huỷ hoại mình chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Hẹn gặp ở Samarra tái hiện một cách tài tình, sống động bi kịch cá nhân cũng như những mâu thuẩn cay đắng trong cuộc sống ở một tỉnh lẻ trong nửa đầu thế kỷ 20. Với tác phẩm này, John O’Hara đạt đến đỉnh cao trong bút pháp hiện thực châm biếm của một nhà văn lớn và đó là lý do tác phẩm này luôn có mặt trong danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất trong mọi thời đại. Được Time Magazine xếp vào danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất từ năm 1923 tới năm 2005. Được Modern Library xếp ở vị trí thứ 22 trong danh sách 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất của thế kỷ 20. Bộ phim cùng tên do Robert Benton đạo diễn sẽ được ra mắt vào 31 - 12 - 2010. “…Ôi trời ơi, mẹ biết làm gì với con đây?”, bà Walker kêu lên. “Mẹ đáng thương”, Caroline kêu lên, giang hai tay ôm lấy mẹ. Cô thương cho bà, biết bà không đau đớn gì lắm trong chuyện này. Sự cố này chỉ khuấy động nỗi đau của riêng bà. Bà là người lúc nào cũng sẵn sàng biểu thị nỗi buồn, khiến bà chủ động hơn trong khi chia sẻ nỗi đau với con gái. Ngay từ đầu Caroline đã cố gắng không nghĩ đến Julian, nhưng mà trời đất ơi, ngoài anh ra cô còn có thể nghĩ đến chuyện gì được nữa? Cô nhớ đêm hôm ấy, mẹ đi vào phòng cô và bảo bố chồng cô đang ở dưới nhà muốn gặp cô. Thỉnh thoảng khi nghĩ lại điều này, cô muốn nói, “Mình biết điều này. Ngay lúc đó mình đã biết là có chuyện”, nhưng rồi cô trở nên trung thực và tha thứ cho mình bởi vì cô chẳng có cảm nhận gì hết. Có một cái gì không ổn, cô biết, nhưng sự thực là cô đã định từ chối không gặp ông già. Cô biết chuyện này thế nào cũng liên quan đến Julian mà cô thì không muốn nghe gì về anh nữa. Nhưng trí khôn, không phải là bản năng của cô, nhắc nhở rằng, trong khi cô đang nằm trong chăn ấm nệm êm thì chắc ông già chồng sẽ là người cuối cùng trên đời vào lúc đêm hôm buốt giá thế này lại đến đây mà không có lý do gì chính đáng. Ông nói mình mang đến một tin xấu kinh khủng - câu này nghe như lời dạo đầu cho một câu chuyện “Đây là điều tức cười nhất mà bạn từng nghe” hoặc “Điều này sẽ giết bạn mất thôi”. Nhưng chẳng có điều gì mà bác sĩ English nói lại giống với một lời mào đầu hết. Ông là một người kín kẽ và nói ngay vào chuyện mà không chờ cô hỏi. “Ông Harley tìm thấy Julian trong xe hơi ở garage lúc ấy nó đã chết mặc dù ông ấy không biết là nó chết lúc mấy giờ. Chết vì khí carbon monoxide, chất khí độc thoát ra từ xe. Máy vẫn nổ”. Ngừng một lát, ông tiếp. “Caroline à, có vẻ như đây là một vụ tự sát. Con không nhận được lá thư tuyệt mệnh hoặc bất cứ cái gì như thế chứ?” “Lạy Chúa. Ba cho rằng con vẫn ở đây được khi biết những chuyện như thế sao?” “Ba không có ý ám chỉ được gì hết,” ông bố chồng nói. “Ba chỉ muốn xác định cho rõ thôi. Phó thanh tra sẽ hỏi những chuyện như vậy. Ba không thấy có cách nào chúng ta tránh được phán quyết rằng đó là vụ tử tự, nhưng ba sẽ cố. Ba biết mình có thể làm được gì.” Giọng ông vang lên như giọng một chính trị gia không muốn thừa nhận là mình không thể có một địa chỉ gửi thư mới. “Sao ba lại muốn thế? Tất nhiên là anh ấy tự tử rồi”. Caroline kêu lên. “Caroline con yêu,” bà Walker xen vào. “Đừng nói thế cho đến khi con biết chắc mọi chuyện. Thật kinh khủng khi nói như thế”. “Tại sao? Có chuyện gì kinh khủng nào? Ai nói thế? Trời đánh thánh vật các người đi. Nếu anh ta muốn chết thì đó là việc của anh ta, liên quan gì đến ai nào?” “Nó điên mất rồi,” bà mẹ thì thào. “Con yêu…” “Thôi đi đi. Là ông đấy. Ông, ông đâu có yêu thương gì anh ấy. Ông đã làm chuyện đó. Ông già vênh vang tự đắc kia”. “Ôi Caroline, sao con lại có thể nói ra những điều như thế?” “Anh ấy đang ở đâu? Nói đi, anh ấy đang ở đâu? Ông đã đưa anh ấy đi đâu? Ông biết là anh ấy chết à? làm sao ông biết được? Thôi đi, tôi không nghĩ là ông biết được khi nào thì một người chết.” “Nó là con trai ta, Caroline. Làm ơn nhớ cho điều đó. Đứa con trai duy nhất của ta”. “Phải, con trai duy nhất của ông. Nhưng anh ấy không bao giờ yêu quý ông. Tôi nghĩ ông biết điều đó, đúng không? Ông cao quý quá mà, đầy quyền lực và khó chịu làm sao khi chúng tôi đến nhà ông hôm Giáng sinh. Đừng nghĩ là anh ấy không nhận ra điều đó nhé. Ông đã khiến anh ấy tự vẫn chứ không phải tôi”. “Tôi nghĩ tôi phải về thôi, Ella. Nếu bà cần gì thì ghé qua nhà tôi nhé”. “Được thôi, Will”, bà Walker nói. “Tại sao ông lại nói với mẹ tôi trước. Lý ra ông phải thông báo với tôi trước chứ?” “Thôi nào con. Chúc ngủ ngon Will. Tôi không tiễn ông đâu”. “Có phải ông đến để đưa tôi tới anh ấy? Có chuyện gì nào? Anh ấy có bị cháy hay dập nát hết không?” “Làm ơn con yêu,” bà Walker nói “Will, ông có chờ… một phút không?” “Phải, tôi nghĩ thế. Tôi nghĩ thật là kinh khủng với nó khi nghe tin này”. “Này con yêu, nếu con muốn nhìn mặt Julian tối nay”, bà Walker nói. “Ồ chúa ơi, con nhớ ra rồi. Con không thể. Con đã hứa với anh ấy, con không gặp đâu”, Caroline nói. “Con đã hứa với nó! Cái gì vậy? Con đã nói cái gì vậy? Con biết là nó sẽ tự tử à?” Bây giờ thì bác sĩ là người nổi giận. “Không, không,không. Đừng kích động như thế chứ. Cứ khoác cái áo trên người ông, ông già…”. Trong miệng cô là một từ mà Julian hay dùng, nhưng cô đang làm cho mẹ mình bị sốc. Cô quay sang nhìn bà. “Chúng con đã hứa khi làm đám cưới. Chúng con đã hứa sẽ không nhìn mặt nhau nếu một trong hai người chết trước người kia. Nếu anh ấy là người chết trước, thì con, ôi mẹ biết đấy”. Cô bắt đầu khóc. “Đi đi, ông bác sĩ. Tôi không muốn gặp ông nữa. Mẹ ơi”…” *** Hẹn gặp ở Samarra là tác phẩm đầu tay nổi tiếng nhất của nhà văn John O'Hara, được đánh giá là đạt đến vẻ đẹp kinh điển của một tác phẩm hiện thực trong thế kỷ 20. Tên cuốn sách được trích dẫn từ một truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn W.Somerset Maugham.   Bản dịch tiếng Việt cuốn "Hẹn gặp ở Samarra" của nhà văn John O'hara do Youbooks thực hiện theo thỏa thuận liên kết xuất bản với Bank of America, N.A. Người dịch: Hồng Vân. Bối cảnh tiểu thuyết diễn ra vào mùa Giáng sinh năm 1930 ở Mỹ. Giới quý tộc ở Gibbsville đang say sưa trong tiệc tùng và khiêu vũ. Tâm điểm của nhóm quý tộc này là cặp vợ chồng trẻ, thành đạt Julian và Caroline English. Nhưng trong một giây phút bột phát vì say rượu và hoàn toàn không có lý do gì cả, Julian hắt nguyên một ly rượu vào mặt Harry Reilly giữa đám đông. Harry Reilly là nhân vật cộm cán trong giới quý tộc và là đối tác làm ăn rất quan trọng của anh. Hành động khiếm nhã này phá vỡ trật tự trong giới và dẫn Julian trượt dài theo con đường tự hủy hoại mình chỉ trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Những ngày tiếp theo, Julian lại sa vào những chuyện vô bổ vì tính cách của anh đưa đẩy. Trong một lần uống say, Julian lại ngang nhiên rủ rê một phụ nữ khêu gợi đi cùng anh trên xe riêng trước mặt vợ và bạn bè. Không may cho anh đó lại là bạn gái của một tay xã hội đen. Hẹn gặp ở Samarra tái hiện một cách tài tình, sống động bi kịch cá nhân cũng như những mâu thuẫn cay đắng trong cuộc sống tỉnh lẻ vào nửa đầu thế kỷ 20. Với tác phẩm này, John O’Hara đạt đến đỉnh cao trong bút pháp hiện thực châm biếm của một nhà văn lớn và đó là lý do tác phẩm này luôn có mặt trong danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất trong mọi thời đại. Nhà văn John O’Hara (1905-1970) là nhà văn xuất sắc của Mỹ. Ông nổi tiếng ngay từ tác phẩm đầu tay Hẹn gặp ở Samarra. Nhà văn này từng đoạt giải thưởng National Book Award với tiểu thuyết Ten North Frederick và là tác giả có nhiều truyện ngắn được đăng nhất trên tờ The New Yorker. Ông đã viết 14 tiểu thuyết cùng 400 truyện ngắn. Tờ New York Times nhận xét: "O’Hara chiếm giữ vị trí độc nhất trong nền văn học đương đại của Mỹ. Ông là nhà văn Mỹ duy nhất tái hiện xã hội Mỹ trong cái cách mà nó đã được thể hiện trong tác phẩm của Henry James về nước Mỹ, hay dưới ngòi bút của Proust về nước Pháp". Mời các bạn đón đọc Hẹn Gặp Ở Samarra của tác giả John O'Hara.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chiến Dịch Trái Tim - Amanda Quick
Trong giấc mơ hoang đường nhất, Venetia Milton cũng không ngờ được vị hôn phu của nàng lại ĐỘI MỒ SỐNG DẬY, phá hỏng một buổi sáng đẹp trời… Bởi đó là vị hôn phu nàng chỉ mới ranh mãnh "sắm" được sau một đêm hoan lạc. Anh chàng xuất thân dòng dõi mà nàng mượn danh để thuận lợi tiến vào xã hội London, hòng gây dựng sự nghiệp nhiếp ảnh gia thời thượng, chứ không hề có ý gắn bó lâu dài, đừng nói đến hôn nhân. Vị hôn phu mà cái chết đã được đăng khắp các mặt báo. Nhưng người đàn ông đó, vẫn sống điềm nhiên, lại sắp dõng dạc bước vào cuộc đời nàng. Và sau tất cả những hiểm nguy chàng mang theo, sau tất cả những bông đùa giễu cợt, những toan tính bí hiểm, chàng rắp tâm đánh cắp trái tim nàng một lần nữa, trọn vẹn… Là tác giả sách bán chạy theo bình chọn của New York Times, Amanda Quick sẽ dẫn dắt bạn qua một chuyến phiêu lưu tình ái đầy đam mê trong thời đại Victoria xưa. *** Nhận định “Một câu chuyện thú vị và sắc sảo về những bí mật… Với đối thoại dí dỏm, các nhân vật đa chiều, kết cấu truyện thông minh và trí khôi hài phong phú, Amada Quick muôn đời được yêu thích lại viết thêm một tác phẩm nổi bật.” - Booklist “Nếu bạn bắt đầu đọc một cuốn sách của Amanda Quick vào buổi xế chiều, thì chắc chắn bạn sẽ thức trắng cả đêm cùng nó.”- The Denver Post *** Mãi cuối triều đại Nữ hoàng Victoria…   BỘ XƯƠNG NGƯỜI nằm trên chiếc giường mạ vàng được chạm trổ tinh xảo đặt ngay chính giữa phòng luyện kim cổ xưa nay là hầm mộ của nhà giả kim.   Đống xương hai trăm năm tuổi vẫn còn được vấn trong mớ quần áo tơi tả chắc chắn từng có thời là những loại nhung gấm lụa là cao giá nhất. Bao tay và dép mềm được thêu viền chỉ vàng chỉ bạc bao lấy phần xương của hai bàn tay bàn chân, tạo nên vẻ ngoài rờn rợn của da của thịt.   “Tay thợ may của ông này hẳn là yêu ông ta lắm nhỉ,” Gabriel Jones lên tiếng.   “Cho dù có là một nhà giả kim thì khách hàng của anh ta vẫn được quyền có gu thời trang tinh tế chứ,” Caleb Jones nhận xét.   Gabriel liếc sang quần áo của cậu em họ rồi xem xét phục trang trên người mình. Quần âu và áo sơ mi vải lanh họ đang mặc phủ đầy bụi bẩn và cáu ghét nhưng cả quần áo lẫn đôi ủng của họ đều được làm thủ công, vừa vặn như in.   “Có vẻ như là nét biểu trưng của dòng họ nhỉ,” Gabriel bảo.   “Thêm một nét duyên cho huyền thoại dòng họ nhà Jones đây mà,” Caleb đồng tình. ... Mời các bạn đón đọc Chiến Dịch Trái Tim của tác giả Amanda Quick.
Cầu Ô Thước - Antoine Audouard
Năm 1945, Pierre Garnier tòng quân, gia nhập quân viễn chinh Pháp sang tham chiến ở Đông Dương. Giữa lúc đang hoang mang tột độ trước thực tế trần trụi của chiến tranh, cậu lạc bước vào tình yêu. Những mối tình mãnh liệt mà bất khả. Những niềm hạnh phúc không thể nào nắm giữ. Cho đến ngày thất trận. Nhiều năm sau, có một người con trai quyết định lần về quá khứ, tìm lại những con người cũ, những mong vén được bức màn bí ẩn về cha, một người cha vắng mặt. Nhưng khi sự thật ấy được phơi bày, liệu lòng anh đã yên? Cầu Ô Thước là một trang lịch sử bị tách rời, nơi thời gian ngưng đọng, nơi dựng lại cái không khí sôi sục của chiến tranh Đông Dương, nơi hiển hiện những nhân vật đã làm nên một phần thế kỷ XX. Nhưng hãy khoan nghĩ bạn đang đọc một cuốn sách lịch sử, bởi như tờ Le Figaro đã nói: "đây không phải một cuốn sách lịch sử, mà là một câu chuyện tình yêu." *** Tôi nhận được cuộc điện thoại vào lúc tối muộn. Một giọng nói lạ hoắc, xoe xóe hỏi xem có phải tôi tên là André Garnier, có đúng tôi là con trai của Pierre Garnier không và khi tôi đang lúng búng trả lời rằng đúng là tôi nhưng ai thế? ai vậy? thì giọng nói ấy tiếp tục: “Cha anh, ông Garnier sẽ tới nhà anh ngày mai. Lúc 10 giờ 30 được chứ?” Chắc chắn, chúng ta không sống trong một thế giới mà người cha là đoàn tàu và con cái là sân ga; chắc chắn người phụ nữ này không có thật, bà ta không xưng danh và tôi cũng chẳng hỏi. Thế nhưng, ngày hôm sau, có hai nhân viên cứu thương - một to con, một gầy nhẳng - gõ cửa nhà tôi rồi đưa một tờ giấy màu xanh cho tôi ký, cứ như là họ đi giao thư bảo đảm vậy. “Đúng 10 giờ 30 phải không nhỉ?” người gầy nhẳng ra vẻ thành thạo hỏi, rồi hai người đàn ông rời đi không để tôi kịp ngậm miệng lại. Bố và tôi cứ đứng trên lối nhỏ dẫn vào nhà, lạ lẫm với nhau. Ông hơi lắc lư người, hai bàn tay nắm chặt chiếc túi da du lịch. “Mẹ con có khỏe không?” cuối cùng ông cũng lên tiếng và tôi thấy lòng mình ngổn ngang những cảm xúc đầy mâu thuẫn mà nổi trội là một cơn giận dữ rất thường tình - tức giận vì đột nhiên tôi phải làm người cha chăm sóc ông trong khi ông chưa từng một ngày làm cha tôi. “Thế còn vợ con?” ông tiếp tục, với giọng niềm nở. “Tốt cả,” tôi nói nhỏ, không cố để ông nghe thấy. Ông đến chậm mất ba mươi năm so với ngày mẹ tôi mất, nhưng chỉ muộn có ba hôm so với ngày vợ tôi bỏ đi. Một chút cố gắng thôi là ông đã có thể đến kịp. ... Mời các bạn đón đọc Cầu Ô Thước của tác giả Antoine Audouard.
Người Vô Hình
Herbert George Well thôi học năm 14 tuổi để làm người trông coi cửa hàng, rồi thi đỗ đại học, và sau đó trở thành giáo viên. Sau một thời gian sống trong cảnh nghèo khổ, ông trở thành một nhà văn viễn tưởng nổi tiếng. Trong các tác phẩm của mình, H.G. Wells đã mô tả máy bay và tàu ngầm đi lại, trước khi người ta mơ hồ tin rằng những hành trình như vậy có thể thực hiện được. Là một con người đầy nghị lực H.G. Wells viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Phác thảo lịch sử (An Outline of History - 1920) và nhiều nghiên cứu về khoa học và chính trị. H.G. Wells đã phỏng vấn nhiều nhà lãnh tụ chính trị nổi tiếng và luôn có chính kiến về các sự kiện trên thế giới. Nhưng người ta lại nhớ đến một H. G. Wel1s tiểu thuyết gia hơn. Kẻ Vượt Thời Gian (The Time machine - 1895) và Người vô hình (The Inrrsible Man - 1897) đã trở nên rất gần gũi với công chúng và cũng được các nhà làm phim đặc biệt ưa thích. *** Trong đau đớn, khốn cùng, trong khoái cảm, và cái chết - Đó là đời sống mà nhà khoa học Griffin đã nếm trải khi trở thành một người vô hình. Ở Người vô hình, thiện và ác là những bện xoắn rất chặt vào nhau, ràng buộc, tựa nương vào nhau mà phát triển. Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực. Giết người sẽ dẫn đến giết người. Có lẽ đó là cái lý lẽ phù hợp với quy luật tự nhiên nhất, và nó chạy theo nhau, đẩy mãi, đẩy mãi đến tận cùng của xung đột. Cái chết của người vô hình là sự hóa giải cuối cùng. Tại sao cuộc đời người vô hình lại đi đến mức ấy? Người vô hình là một vật thể lạ giữa loài người. Và loài người từ xưa tới này vốn là sinh vật không chấp nhận sự khác biệt, hoặc hoảng sợ, hoặc ruồng rẫy, và trước sau gì sự hủy diệt cũng sẽ xảy ra. Là tham vọng hay thực chất chỉ là thanh trừng những gì không nằm trong hệ thống. *** Vào một ngày mùa đông đầu tháng hai, gió lạnh thổi từng cơn như cắt da, những đợt tuyết cuối cùng trong năm rơi xuống phủ lên mặt đất một màu trắng xóa. Từ ga xe lửa Bramblehurst, có một người khách lạ đi tới, mình mặc áo khoác đen, cầm một túi đen nhỏ trên tay mang găng dày, chân mang ủng. Ông ta quấn kín từ đầu đến chân, và một chiếc nón rộng vành che hết khuôn mặt chỉ chừa lại chóp mũi sáng bóng. Tuyết rơi phủ trên vai và lưng trông giống như ông ta đang mang một túi hành lý thật nặng. Ông ta bước vào quán trọ “Xe và Ngựa” như là một người sắp chết và ném cái túi xuống. - Lò sưởi! Làm ơn cho tôi thuê một phòng có lò sưởi! - Ông khách kêu lên. Ông ta dậm chân và lắc mình làm tuyết rơi đầy trong quán rượu và theo chân bà Hall, vợ chủ quán đi vào phòng khách mà không cần hỏi giá. Không nói lời nào, khách lạ ném hai đồng vàng sovereign lên bàn và đi vào phòng của ông. Giữa những ngày đông tháng giá, không có một bóng khách qua lại thì đây là một dịp may hiếm có cho bà Hall. Bà vội vàng đốt lò sưởi cháy đỏ lên và tự đi lo bữa ăn thậi xứng đáng cho ông khách. Khi thức ăn, nước uống đã được làm xong bà đem khăn, dĩa, ly vào dọn lên bàn. Mặc dù lửa trong lò sưởi đã cháy đượm, nhưng ông khách lạ vẫn còn để nguyên quần áo và nón, đứng nhìn đăm đăm ra cửa sổ xem tuyết rơi ngoài sân, lưng quay về phía bà và dường như ông ta đã hóa đá. Đôi tay đeo găng của ông chắp ra sau và có vẻ như ông ta đang mải mê suy nghĩ. Bà thấy tuyết trên vai ông khách đã tan thành nước và chảy ròng ròng xuống, làm ướt cả tấm thảm trải sàn nhà. Bà ngạc nhiên hỏi: - Thưa ông, ông cho phép tôi mang nón và áo khoác vào nhà bếp để hong khô chứ? Không hề ngoái lại người khách nói: - Không cần, bà cứ để mặc tôi. Bà chắc mình đã không nghe rõ câu trả lời, nên lặp lại câu hỏi. Ông ta quay đầu lại nhìn qua vai bà và nói: - Tôi thích để như vậy! - Ông ta nhấn mạnh từng lời với vẻ thật cương quyết. Bà để ý thấy ông khách mang một cặp kính to màu xanh đen, mớ tóc rậm và một hàm râu rậm rạp phủ đến tận cổ áo khoác che khuất cả gò má và khuôn mặt. - Được thôi, thưa ông. Nếu ông thích như vậy. Chỉ một chút nữa căn phòng sẽ ấm lên theo ý ông muốn. - Bà nói. Ông khách không trả lời, lại quay mặt đi nơi khác. Bà Hall cảm thấy không phải là lúc tiếp tục cuộc nói chuyện nên để mọi thứ lên bàn rồi lặng lẽ rời khỏi phòng. ... Mời các bạn đón đọc Người Vô Hình của tác giả Herbert George Wells & Nghiệp Khánh (dịch).
Bà Dalloway - Virginia Woolf
Bà Dalloway có thể coi là một trong những cuốn sách văn học tiêu biểu đầu thế kỉ 20 (được tờ Telegrap đánh giá là 100 cuốn tiểu thuyết nên đọc trong đời), khi mà người ta đã "chán" kiểu lãng mạn, mơ mộng của Jane Austen hay chị em nhà Bronte, thay vào đó là trào lưu tư tưởng về thuyết sinh tồn. Đầu thế kỉ 20 là thời gian biến động của thế giới nên văn học cũng chuyển biến theo như vậy, theo chiều hướng nặng nề và khắc khổ hơn. Người ta nghĩ rằng tư tưởng sinh tồn (coi cuộc sống vô nghĩa) sẽ chỉ là một trào lưu nhất thời trong thời kì đen tối nhưng thực chất đã ảnh hưởng đến một thế hệ lớn sau này và người ta nhận ra rằng, con người trong thời kì nào cũng tiềm tàng tư tưởng đó. *** Virginia Woolf (tên thời con gái Stephen) (sinh 25 tháng 1, 1882 - mất 28 tháng 3, 1941) là một tiểu thuyết gia và là một nhà văn tiểu luận người Anh, bà được coi là một trong những nhân vật văn học hiện đại lừng danh nhất thế kỉ 20. Trong suốt thời gian giữa chiến tranh, Woolf là một nhân vật có tầm ảnh hưởng của xã hội văn học London và là một thành viên của Bloomsbury Group.   Những tác phẩm nổi tiếng nhất của bà bao gồm: Đêm và ngày (Night and Day, 1919), Căn phòng của Jacob (Jacob’s Room, 1922), Bà Dalloway (Mrs.Dalloway, 1925), Đến ngọn hải đăng (To the Lighthouse, 1927), Orlando (1928), Một căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929), Những đợt sóng (The Waves, 1931), Ba đồng tiền vàng (Three Guineas, 1938). Trong các sáng tác của bà, tác phẩm luận văn Một căn phòng riêng (A Room of One’s Own, 1929) có một câu châm ngôn rất nổi tiếng:"a woman must have money and a room of her own if she is to write fiction" ("một người phụ nữ phải có tiền và một căn phòng riêng nếu cô ta phải viết tiểu thuyết". *** Bà Dalloway bảo bà sẽ tự đi mua hoa. Vì Lucy có công việc phù hợp với cô ta. Mấy cánh cửa sẽ được tháo khỏi bản lề, những người thợ của Rumpelmayer sẽ tới. Và sau đó, Clarissa Dalloway nghĩ, thật là một buổi sáng tuyệt vời – tươi tắn như thể được ban phát cho lũ trẻ con trên bờ biển. Thật hân hoan! Thật chìm đắm! Vì dường như đối với bà, khi những cái bản lề kêu rít lên, như lúc này bà có thể nghe, bà phải mở tung những khung cửa sổ kiểu Pháp và lao người vào bầu không khí thoáng đãng của Bourton. Trong lành biết bao, êm ả biết bao, dĩ nhiên là yên tĩnh hơn lúc này, bầu không khí sớm mai hồi ấy giống như tiếng vỗ của một làn sóng; nụ hôn của một làn sóng; lạnh và gắt, thế nhưng nghiêm trang (với một cô gái mười tám tuổi như bà thuở ấy),khi bà cảm thấy như đã từng cảm thấy lúc đứng đó ở khung cửa sổ mở, rằng một điều gì đó kinh khủng sắp xảy ra; khi nhìn những bụi hoa, những cây cối với làn khói ngoằn ngoèo lan tỏa và những con quạ đang vọt lên, sà xuống; đứng và nhìn cho tới khi Peter Walsh bảo: “Đang suy tư giữa đám rau củ hả? – Phải thế không? – “Tôi thích những người đàn ông hơn là những cây cải bắp” – Phải thế không? Hẳn ông ấy đã nói thế vào bữa điểm tâm của một sớm mai nào đó khi bà đã bước ra trước sân hiên – Peter Walsh. Một hôm nào đó, trong tháng Sáu hoặc tháng Bảy này, bà quên mất là tháng nào, ông ấy sẽ trở về từ Ấn Độ, vì những lá thư của ông ấy cực kỳ buồn nản; những câu nói của ông ấy chính là thứ làm cho người ta nhớ; đôi mắt, con dao nhíp, nụ cười, tính tình gắt gỏng của ông ấy, và khi hàng triệu thứ đã hoàn toàn biến mất, một vài câu nói như câu này về những cây cải bắp thật kỳ lạ biết bao! Bà hơi cứng người lại chút đỉnh trên vệ đuờng, chờ chiếc xe tải của Durtnall chạy qua. Một người phụ nữ quyến rũ, Scrope Purvis nghĩ về bà (ông ta biết bà như người ta biết về những người sống bên cạnh nhà mình ở Westminster); ở bà có cái dáng vẻ của một con chim, một nàng chim giẻ cùi, xanh lam, nhẹ nhàng, sôi nổi, dù bà đã quá năm mươi, và đã bạc trắng mái đầu từ khi ngã bệnh. Bà đứng đó, không hề nhìn thấy ông, chờ để băng qua đường, người thật thẳng. ... Mời các bạn đón đọc Bà Dalloway của tác giả Virginia Woolf.