Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Mùa Hè Tươi Đẹp - Cesare Pavese

Cesare Pavese (1908 - 1950) Nhà văn và Dịch giả rất quan trọng của nền văn học Ý trong thế kỷ XX Là tác giả Ý đoạt được nhiều giải thưởng văn học rất giá trị: 1938 tác phẩm “Người bạn” đoạt giải Salento, 1949 “Mùa hè tươi đẹp” đoạt giải Strega, tập truyện “Ánh trăng và đống lửa” được đánh giá là tác phẩm rất hay. Nhưng mặc dù đạt đỉnh cao trong văn học sự thất vọng về cuộc đời và tình yêu luôn mang cho ông cảm giác trống rỗng và cô đơn. Mệt nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn ngày 27 tháng 5 năm 1950 ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn tại thành phố Torino. Trên trang nhất của tập sách “Đối thoại với Leucò” đặt trên bàn đọc sách ban đêm, ông chỉ để lại vài hàng ngắn ngủi: “Tôi tha tội cho tất cả và xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều”. Năm ấy ông chỉ vừa 42 tuổi. *** ĐÁNH MẤT THƠ NGÂY, KHÁM PHÁ CẢM GIÁC VÀ CÁM DỖ Tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” nằm trong luồng văn học biểu tượng. Mùa hè diễn tả ở đây là một khoảng thời gian đầy màu sắc, được đồng nhất với ảo tưởng là sẽ có một cuộc đời khác đầy những điều mới mẻ, tình yêu, đam mê, cùng với những mặt tích cực mà nó tượng trưng. Nhưng sau đó là mùa thu rồi mùa đông, là cái chết của niềm hy vọng và sự đầu hàng của nhân vật chính trước sự thật phũ phàng nhưng không thể tránh khỏi của mình. Itala Elena Pucillo Trương (TS Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài) *** Cesare Pavese - cuộc đời và tác phẩm Chọn tiểu thuyết “Mùa hè tươi đẹp” của tác giả Cesare Pavese để dịch sang tiếng Việt trước hết do giá trị văn học(1) của tác phẩm và sau đó là tầm quan trọng của tác giả trong nền văn học Ý trong thế kỷ XX. Viết từ năm 1949, bối cảnh là lối sống của lớp trẻ tại miền Bắc Ý sau thế chiến II, nhưng tính đương thời (contemporaneita) của tiểu thuyết vẫn còn đậm nét. Thấp thoáng đâu đây một cuộc sống gần với hoàn cảnh xã hội Việt Nam trong thời hội nhập: Cùng với tăng trưởng kinh tế là lối sống buông thả, khởi đầu cho sự đánh mất những giá trị đạo đức. Tính hiện thực và khả năng khai thác tâm lý nhân vật cũng được tác giả thể hiện qua cách viết và sử dụng ngôn ngữ khác lạ, đến nay vẫn còn giữ nguyên phong cách hiện đại. * Đến với các tác phẩm của Cesare Pavese chúng ta sẽ liên tục khám phá: Ngoài tiểu thuyết người đọc còn gặp nhiều bản dịch của các tác giả Anh, Mỹ và trong cùng thể loại cũng luôn có rất nhiều sự khác biệt. Sự khác biệt này đã được tác giả tái tạo, bắt đầu từ văn phong đa dạng, lối xếp đặt các bối cảnh liên quan đến cách sử dụng ngôn ngữ phong phú... để người đọc khỏi nhàm chán rồi dẫn họ nhận thức về những quan điểm khác bằng sự tế nhị và nhạy cảm của mình. Ngoài ra, có lẽ không phải là một sự tình cờ mà một trong những tác phẩm cuối cùng của ông lại là một tập thơ mang tựa đề “Cái chết sẽ đến, nó có đôi mắt của em”, như một dự báo cho việc tự sát, một thông điệp mà cũng là lời từ biệt... đã làm tác giả lừng danh, và trở thành một trong những tác giả Ý được đọc nhiều nhất trong thế kỷ XX. Trong những trang viết cũng như qua thư từ, rất nhiều lần Pavese nói về ước muốn được nổi tiếng, không chỉ riêng mình mà còn cho nơi ông ra đời, một ngôi làng chỉ có những túp nhà nho nhỏ và sình lầy.  Ông đã viết như thế này: “Quê tôi chỉ có những túp nhà nho nhỏ và bùn lầy, nhưng nó nằm kề con đường liên tỉnh mà khi còn bé tôi hay chơi đùa. Xin nhắc lại, tôi là một kẻ có nhiều tham vọng, tôi muốn đi khắp thế giới, đặt chân đến những miền đất thật xa rồi quay lưng và nói với người hiện diện: “Các bạn chưa bao giờ nghe nói đến một ngôi làng chỉ có bốn mái nhà phải không? Đây, tôi đã đến đây từ đó”. Ngôi làng nhỏ đó có tên là Santo Stefano Belbo, thuộc vùng Langhe của tỉnh Cuneo, nơi Pavese đã chào đời vào ngày 9/9/1908. Nhưng ông đã sớm rời gia đình để sinh sống ở thành phố Torino, và trong lòng chưa bao giờ khuây khỏa nỗi nhớ quê xưa. Cha chết khi ông còn rất nhỏ và sự mất mát này đã ảnh hưởng rất nhiều đến tính cách của cậu bé, vốn nhút nhát nhưng cộc cằn và khép kín, tuy yêu sách vở và thiên nhiên nhưng luôn tìm cách cô lập mình với người khác. Sau khi chồng mất, với bản tính lạnh lùng và cẩn trọng, mẹ ông đã giáo dục con như một người cha khô khan và nghiêm khắc chứ không như một người mẹ ngọt ngào và trìu mến. Khi sống và tiếp cận với thực tại điên cuồng của một thành phố kỹ nghệ lớn và đầy sương mù như Torino, Pavese càng biểu hiện tất cả những bất an sâu sắc về sự hiện sinh, những ám ảnh tâm lý và bắt đầu đi tìm kiếm sự chân thực. Như tất cả những chàng trai trẻ, Pavese cũng mang trong lòng đầy mâu thuẫn và nhiều xung đột, với một sự nhạy cảm thái quá. Do vậy ông hành động theo ý nghĩa tiêu cực và tự làm hao mòn những xác tín mà cuộc đời mình đã gánh chịu. Trong các bức thư của mình, ông thường nhắc đến một thói tật vô lý, muốn tự sát, báo trước cho số phận bi thảm của mình. Có lẽ chính vì nỗi bất an đó mà ông phải đi tìm một biện pháp khắc phục bằng cách thực hiện các thành tựu nghệ thuật, nhất là qua các tác phẩm văn học, giống như kẻ “Đi tìm thời gian đánh mất” của Marcel Proust. Thiếu khả năng đối phó với cuộc sống, ông đã gặp vô vàn khó khăn trong quan hệ giữa người và người: Sống, đối với Pavese đã trở thành một “nghề” cần phải học trong đau đớn và trong tình huống đó, nghệ thuật với ông đã trở thành một sự cần thiết nhằm thay thế sự sống. “Tôi đã học viết nhưng chưa học sống” nên viết lách đã trở thành biện pháp duy nhất, khả năng duy nhất để ông biết mình đang sống và cảm thấy mình hạnh phúc dù chỉ trong chốc lát. Pavese viết: “Chỉ khi viết tôi mới là người bình thường, quân bình và bình an”. Đối với văn học trong thế kỷ XX tính xác thực của thi ca được xác định bởi tầm nhìn phiền muộn của con người, được nuôi dưỡng trong số phận đầy âu lo. Tính xác thực và cái chết với ông như đã trở thành đồng nghĩa, vì sống là “Chuẩn bị cho cái chết”. Cùng với nhu cầu tuyệt vọng về tình yêu, khởi nguồn từ sự cô đơn và ý muốn vượt thoát sự cô độc, tự mâu thuẫn giữa những lời tuyên bố đầy kiêu hãnh về mình và ý thức về sự thiếu khả năng vui sống, Pavese đã chọn văn học như một giải pháp nhằm giải quyết các xung đột nội tâm. Tuy vậy trong các tác phẩm của ông cũng có vài lần ghi lại hạnh phúc trong đời mình, đó là các buổi thảo luận trong các quán ăn với công nhân, với những người bán hàng rong, những con người vô danh và tầm thường, nhưng về sau tất cả đều trở thành nhân vật trong tiểu thuyết của ông. Ông luôn có cảm giác là mình còn trẻ, được tái sinh và trong những năm cuối cùng của đại học, bởi trong đời tư của ông có sự tham gia của một người mà sau này trở thành trung tâm của linh hồn ông: “người đàn bà có giọng khàn khàn”. Cesare Pavese như bị biến đổi hoàn toàn: Trong suốt thời gian đó lúc nào ông cũng có cảm giác là người đàn bà ấy ở bên cạnh mình, ông bỗng trở nên tử tế, nhân bản, trìu mến, cởi mở với mọi người. Người đàn bà đó đã mang đến cho ông sự say đắm của tuổi thơ, khuôn mặt của nàng “như một đám mây”, nhưng đó là một áng mây ngọt ngào bay giữa trời xanh lơ lửng trên những ngọn đồi của quê ông. Năm 1930, lúc chỉ vừa 22 tuổi, ông tốt nghiệp đại học với luận án về sự lý giải thi ca của Walt Whitman và bắt đầu cộng tác với tạp chí “Văn hóa”. Ông dạy học vào buổi tối ở các trường tư thục, nhưng đồng thời cũng dịch rất nhiều tác phẩm văn học của Anh và Mỹ và nổi danh rất sớm. Dường như những năm tháng trung và đại học đã giúp cho chàng trai cô độc tìm được những gắn bó bạn bè: điều này giúp anh hiền hơn trong các cuộc bút chiến và phẫn nộ trong văn học. Năm 1931, chỉ vài tháng sau khi tốt nghiệp thì mẹ mất: vì chưa có dịp tỏ bày lòng ngưỡng mộ và chứng minh tình thương cùng sự trìu mến của mình với mẹ, niềm ân hận đó đã tạo nên một đường rãnh sâu sắc và cay đắng trong tâm hồn tác giả. Còn lại một mình, ông chuyển về sống với cô em Maria, và ở lại bên cô cho đến lúc chết. Cũng trong năm 1931 bản dịch đầu tiên của ông “Ngài Wrenn của chúng ta” của tác giả Sinclair Lewis được in ở thành phố Frenze. Việc dịch thuật có một tầm quan trọng không chỉ với cuộc đời tác giả mà còn cho nền văn học Ý nữa, vì nó đã mở ra một cánh cửa cho một thời kỳ mới của tiểu thuyết Ý. Với những bản dịch của mình, ông đã giúp người đọc biết được các chiều kích vô cùng lớn lao của lòng khao khát tự do, cùng với ý nghĩa bi thảm, xem cuộc đời là vô ích và đến cả động tác cuối cùng của cuộc đời, tự tử. Năm 1933, khi nhà xuất bản Einaudi được thành lập và vì tình bạn với Giulio Einaudi, Pavese tham gia các dự án của nhà xuất bản với sự nồng nhiệt: có lẽ đây là những năm tháng tốt đẹp nhất của tác giả cùng với một “người đàn bà có giọng nói khàn khàn”, một trí thức tốt nghiệp ngành toán và tham gia tích cực trong phong trào chống phát xít. Vì liên can đến người đàn bà này, ngày 15 tháng 5 năm 1935 ông bị bắt vì tình nghi chống phát xít, bị xử tù 3 năm và giam giữ ở Brancaleone Calabro thuộc miền Nam nước Ý. Ba năm nhưng về sau được giảm xuống ít hơn một năm nhờ đơn ân xá, ông được thả vào tháng 3 năm 1936, nhưng sự trả tự do này oái ăm thay lại trùng hợp với sự thất vọng cay đắng của đời ông: Người đàn bà mà ông hết lòng bảo vệ đến nỗi bị tù đày vì không chịu khai danh tánh đã bỏ ông để lập gia đình với một người đàn ông khác. Kinh nghiệm tù đày đớn đau (sau là chủ đề của một quyển tiểu thuyết đầu tay của ông, “Nhà tù”) cùng với sự thất vọng về tình yêu đã quất ông những ngọn roi tàn nhẫn và đẩy ông ngã vào một cơn khủng hoảng trầm kha, mãi nhiều năm về sau vẫn còn ràng buộc vào cám dỗ đau đớn và luôn xuất hiện ý muốn tự sát. Ông tự khép mình vào sự cô độc, có lẽ còn tồi tệ hơn cả quãng đời thơ ấu. Sau khi chiến tranh thế giới lần II chấm dứt, ông ghi danh vào đảng cộng sản Ý nhưng sự tham gia của ông chỉ thuần văn học: Ông viết những bài báo và tiểu luận chủ yếu về đạo đức - dân sự, ông tiếp nối công việc ấn loát, tổ chức lại nhà xuất bản Einaudi, ông quan tâm đến truyền thuyết và nhân chủng học, thiết lập những lý thuyết về huyền thoại, và hoàn thành tác phẩm “Đối thoại với Leucò”. Về sau, khi chuyển đến La Mã làm việc ông có quen với một nữ diễn viên trẻ, Constance Dowling, khởi đầu cho một tình yêu mới. Có lẽ cô diễn viên trẻ đẹp và “khuôn mặt có nhiều đốm tàn nhang” này mới đầu đã thực sự yêu người đàn ông nổi tiếng, thông minh nhưng cũng dễ xúc cảm, quan hệ này đã hâm nóng tình yêu cho tác giả, nhưng về sau cô cũng bỏ ông để trở về Mỹ. Trong đau đớn tột cùng, Pavese đã sáng tác và in thành một tập thơ nhan đề: “Cái chết sẽ đến, nó có đôi mắt của em...” Sau lần thất tình này, cộng thêm sự khủng hoảng chính trị và tôn giáo đã làm Cesare Pavese thất vọng và hoảng hốt, nó xâm chiếm tâm hồn ông mặc dù lúc này ông đạt đỉnh thành công văn học (1938 tác phẩm “Người bạn” đoạt giải Salento, 1949 “Mùa hè tươi đẹp” đoạt giải Strega, tập truyện “Ánh trăng và đống lửa” được đánh giá là tác phẩm rất hay) đến nỗi sự cô đơn và cảm giác trống rỗng làm ông không biết phản ứng ra sao. Mệt nhọc, hao mòn, dù vẫn cực kỳ minh mẫn, ông đã uống cả một tuýp thuốc ngủ để tự vẫn trong một căn phòng khách sạn Roma tại thành phố Torino. Đó là ngày 27 tháng 5 năm 1950, để lại vỏn vẹn chỉ vài hàng ngắn ngủi trên trang nhất của tập sách “Đối thoại với Leucò” đặt trên bàn đọc sách ban đêm: “Tôi tha tội cho tất cả và xin tất cả tha thứ cho tôi. Nhưng xin các bạn đừng ngồi lê đôi mách và tán chuyện nhiều”. Năm ấy ông chỉ vừa 42 tuổi. * Tác Phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” Tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” nằm trong dòng văn học biểu tượng. Mùa hè diễn tả ở đây là một khoảng thời gian đầy màu sắc, được đồng nhất với ảo tưởng là sẽ có một cuộc đời khác đầy những điều mới mẻ, tình yêu, đam mê, cùng với những mặt tích cực mà nó tượng trưng. Nhưng sau đó là mùa thu rồi mùa đông, là cái chết của niềm hy vọng và sự đầu hàng của nhân vật chính trước sự thật phũ phàng nhưng không thể tránh khỏi của mình. Câu chuyện kể về Ginia, một cô gái mồ côi chỉ vừa 16 tuổi, từ miền quê chuyển về sinh sống trong thành phố Torino cùng với anh là Severino. Ginia là một cô gái ngọt ngào nhưng không may mắn. Sự thơ ngây và trong sáng của cô hoàn toàn không đáng nhận một số phận bi đát và một sự sỉ nhục tồi tệ trong thành phố Torino xám xịt. Mới đầu cô bị thành phố làm cho lóa mắt vì nhịp sống của nó hoàn toàn khác với miền quê mà cô từng biết. Cô mong muốn yêu và được yêu. Rất nhiều cô gái vào tuổi dậy thì, trong các thành phố có màu sắc hiện đại, đến với tình yêu thật phiến diện, được thúc đẩy bởi tò mò nhiều hơn là tình yêu. Họ đánh mất tiết trinh rất dễ dàng và mãi về sau họ mới nhận ra giá trị những gì mà mình đã mất. Và như thế tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” không chỉ là một câu chuyện kể đơn giản mà còn là một cảnh báo cho các cô gái trẻ, ngây thơ và dễ dãi. Ngay chính Pavese cũng đã định nghĩa rằng tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” là chuyện kể về sự bảo vệ tiết trinh. Tựa đề ban đầu của tác phẩm chính là “Chiếc màn”, nhắc lại cảnh Ginia nhận ra mình bị lừa dối, bị gạt gẫm và chế nhạo... vì khi chiếc màn dùng để chia xưởng vẽ làm hai, mở ra, Ginia mở mắt và bỗng hiểu ra tất cả. Ê chề và tuyệt vọng, nhưng Ginia hoàn toàn không có khả năng thích ứng với trò chơi tàn ác của cuộc đời, trong đoạn kết Ginia đã nói với bạn: “Thôi mày hãy dẫn tao đi”. Tiểu thuyết “Mùa Hè Tươi Đẹp” tuy có cốt truyện gắn liền với cuộc sống rất đời thường nhưng chứa đựng nội dung sâu sắc: Nó tượng trưng cho xung đột giữa sự ngây thơ (Ginia) và sự hư hỏng, thoái hóa (Guido và Amelia). Đánh mất sự hồn nhiên của một cô gái chính là bước chuyển biến từ trạng thái hạnh phúc, rất tự nhiên của tuổi dậy thì đến một trạng thái khác, sự trưởng thành. Amelia là một nhân vật tiêu cực nhưng rất cần thiết để hoàn thành bước ngoặc này. Qua cô, Pavese đã tượng trưng cho cái chết như ông đã nhìn thấy: Tham vọng, độc ác, nhưng đồng thời cũng rất cám dỗ và mời mọc, đến nỗi nó được ủy thác để dìu dắt một cuộc đời hồn nhiên và chẳng có chút liên quan nào. Amelia, tàn ác mà quyến rũ, cuối cùng đã lôi cô vào một thế giới chưa từng quen biết. Văn phong Thời gian kể truyện ngắn hơn câu chuyện, bởi vì tác giả tóm tắt nhiều ngày trong một câu ngắn, với một nhịp điệu vừa - nhanh. Tác phẩm này được giới phê bình xem như thuộc trường phái “tự nhiên” của Cesare Pavese, nó liên hệ đến ảnh hưởng của môi trường và hiện thực lên đời sống nhân vật. Trong tác phẩm của Pavese văn phong hòa lẫn với tình huống thông qua sự xếp đặt con chữ, thả trôi theo nhịp điệu cảm xúc sống động trong tâm cảnh. Nhân vật phản ảnh tất cả những gì mình nghĩ, chuyển tải lên trang giấy bằng một cú pháp thiết yếu cấu tạo bởi những câu nói rất bình dân được nhặt nhạnh từ đời sống thường nhật, từ những lối ngắt câu trong các đoạn và từ cách dùng câu đẳng lập(2). Cách viết của Pavese trong tác phẩm “Mùa Hè Tươi Đẹp” có thể bị ngộ nhận là nghèo nàn, nhưng đó là sự nghèo nàn biểu kiến. Bởi nó tương xứng với trình độ văn hóa của nhân vật và ngôn ngữ đời thường của họ. Chính nhân vật đã kể lại câu chuyện và đó mới thực là văn phong của tác phẩm. Itala Elena Pucillo Trương (TS Ngôn ngữ và Văn học nước ngoài) __________ 1.  Tác phẩm đoạt giải thưởng Strega năm 1950. Giải thưởng STREGA là giải thưởng văn học quan trọng nhất của Italia. Được trao giải hằng năm cho tiểu thuyết hay tuyển tập truyện ngắn của các tác giả Ý. Giá trị hiện vật không nhiều nhưng giá trị tinh thần và giúp việc phổ biến tác phẩm rất lớn. Các tác giả Ý nhận được giải thưởng này có thể kể như: Cesare Pavese, Alberto Moravia, Mario Soldati, Giuseppe Tomasi di Lampedusa, Elsa Morante, Giorgio Bassani, Natalia Ginzburg, Primo Levi, Umberto Eco, Claudio Magris. Tuy nhiên cũng có những tác giả nổi tiếng sau đây lại không nhận được giải: Italo Calvino, Carlo Emilio Gadda, Leonardo Sciascia. 2. Paratassi, parataxis. Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Tươi Đẹp của tác giả Cesare Pavese.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lời Anh Muốn Nói - Suzanne Brockmann
Sandy Knick là nhà sản xuất phim xinh đẹp và tài năng. Cô phấn đấu không mệt mỏi với mong ước rũ bỏ quá khứ lấm lem thời thơ ấu để gia nhập hàng ngũ thượng lưu danh giá ở Phoneix. Clint McCade là nhà quay phim nổi danh của Holywood. Anh thường giấu vẻ đẹp trai hào hoa của mình dưới mái tóc dài và bộ râu không chịu chăm sóc. Mặc dù đã kiếm đủ tiền để mua đường vào chốn thượng lưu, nhưng chẳng bao giờ anh muốn làm thế. Anh yêu thích công việc mình làm, và ngao du đây đó. Hai người với hai mục đích sống khác nhau như vậy đã là bạn thân, bạn tâm tình suốt 15 năm kể từ khi cùng sống trong khu nhà ổ chuột ngoại ô thành phố New York. Họ hiểu về nhau đủ để nghĩ đã miễn nhiễm trước nhau. Nhưng như con chim nào bay mãi cũng mỏi cánh, trở về nhà sau ba tháng quay phim quần quật trong rừng nhiệt đới khắc nghiệt, McCade chợt giật mình nhận ra sự tồn tại của anh thật hư ảo và vô định, anh tự hỏi trong suốt thời gian qua đã khi nào mình cảm thấy hạnh phúc thực sự? Rồi anh chợt nhớ tới thời gian anh về thăm Sandy gần đây nhất, anh đã hạnh phúc trong suốt thời gian đó. Anh nhớ nét đẹp rạng ngời, nụ cười e lệ, đôi mắt xanh biếc của cô. Không chần chừ anh lái xe hàng trăm dặm để tới Phoniex quyết tâm thổ lộ lòng mình. Gặp Sandy, nhìn lại nụ cười tỏa nắng ấm áp của cô, Mc Cade tự trách mình sao anh không nhận ra anh yêu Sandy từ sớm hơn. Anh hồi hộp, lo lắng, bồn chồn không biết mở lời như thế nào với Sandy. Để rồi khi chưa kịp cất lời anh đã được Sandy tâm sự rằng hiện cô đang yêu, yêu một người khác không phải anh. Một người tên James sở hữu mọi thứ mà cô hằng mơ ước và tìm kiếm bấy lâu từ ngoại hình, tiền bạc đến danh vọng. Đau đớn chôn giấu tình yêu thầm kín của mình, Mc Cade quyết định ở lại giúp Sandy cưa đổ James. Anh nghĩ lấy James thì Sandy sẽ hạnh phúc hơn và khi ấy giấc mơ thời thơ ấu của cô sẽ thành hiện thực. Anh bắt đầu giúp cô thay đổi để trở nên cuốn hút và hấp dẫn hơn với đàn ông. Anh thay tủ quần áo của cô bằng những bộ cánh đắt tiền, hợp mốt và gợi cảm. Đồng thời anh dạy cô cách thể hiện tình yêu của mình ra sao, cách nhận biết tín hiệu từ người khác phái như thế nào qua ngôn ngữ cơ thể. Với lý luận đàn ông luôn thèm muốn đồ của người khác, McCade đã thuyết phục Sandy để hai người giả vờ làm tình nhân hòng chọc tức James. Sandy không mất nhiều thời gian để khiến James chú ý đến mình qua vẻ đẹp và sự thông minh sẵn có công thêm những chiêu bài giúp sức của "anh thầy" Mc Cade... nhưng thật lòng có phải cô muốn cưa đổ James như cô vẫn thường nghĩ, có thật là cô miễn nhiễm trước Mc Cade người cô luôn coi là bạn suốt 15 năm qua? *** Suzanne Brockmann (sinh năm 1960, bút danh khác: Anne Brock) là một trong những nữ tác giả hàng đầu tại Hoa Kỳ hiện nay. Bà đã đạt được rất nhiều giải thưởng, trong đó có hai giải RITA, giải cống hiến của Romantic Times và được xem là tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn được yêu thích nhất tại Mỹ… Hơn 51 tác phẩm của bà đã được xuất bản và rất nhiều trong số chúng được xếp vào hàng best - seller của USA Today và New York Times. Bà được xem như một trong các tác giả có tầm ảnh hưởng lớn trong giới viết tiểu thuyết lãng mạn và là một thành viên hoạt động tích cực vì sự bình đẳng dân chủ. Suzanne Brockmann cũng đã ra mắt một bộ phim mà bà sản xuất cùng chồng của mình: The perfect wedding. Một số tác phẩm của Suzanne Brockmann: Born to darkness; Beginnings and Ends; Headed for trouble; Shane's last stand; Thiên thần của anh... *** Điện thoại reo khi Sandy mở cửa. Cô quăng cặp xuống rồi chạy vội đến bếp. Khi cô nhấc điện thoại lên, máy trả lời tự động bắt đầu bật, và Sandy kêu lên để người bên kia nghe thấy trong khi cô cố gắng tắt cái máy mắc dịch ấy. “Phù!” Cuối cùng cô thở ra trong chiến thắng. “Xin lỗi. Tôi đây. Bạn gọi đúng lúc tôi bước qua cửa.” “Khá vất vả nhỉ, cưng. Thế mà em được cho là thiên tài kỹ thuật hay gì đấy á? McCade đã nói thế đấy. Chắc là hắn ta lừa anh rồi.” Giọng nói quen thật, nhưng cô khó nhận ra. Đó là... “Tony à?” “Chuẩn,” anh chàng cắt tóc trả lời vui vẻ. “Tai tốt đấy, bí ngô. Có McCade ở đấy không?” “Ừm. Không, thực ra là không.” “Không sao,” Tony nói. “Thực tình anh muốn nói chuyện với em cơ. Khi nào ngày hạnh phúc diễn ra đấy nhỉ?” Sandy dựa người vào bàn bếp khi đá giày ra. Chúa ơi, chân cô đau thật. “Ngày gì cơ?” “Ngày hạnh phúc ấy,” anh ta nhắc lại. “Em biết đấy, sự kiện lớn... Này là cô dâu trong bộ váy trắng...” Anh ta hát lớn, giọng ngang phè. “Đám cưới lớn hay nhỏ đấy? Em đã chọn hoa văn đồ sứ chưa? McCade đã bảo em đi cùng đến Key West với cậu ta để nghỉ trăng mật chưa? Thôi nào, em gái, kể đi. Cái đầu tò mò này muốn biết lắm rồi.” Sandy nặng nhọc ngồi xuống chiếc ghế gần nhất. “Tony, có ai bảo anh rằng McCade và em sắp kết hôn ư?” cô hỏi cẩn trọng. ... Mời các bạn đón đọc Lời Anh Muốn Nói của tác giả Suzanne Brockmann.
Gió Vĩnh Cửu - Sergei Zhemaitis
Xécgây Ghêôrơghiêvích Giêmaichixơ là một nhà văn chuyên viết về đề tài biển. “Gió vĩnh cửu” - là tác phẩm khoa học viễn tưởng đầu tiên của ông. Khi đánh giá về cuốn sách này giáo sư I.A.Êphơrêmốp đã viết: “Cuốn truyện khoa học viễn tương “Gió vĩnh cửu” là sự kết hợp giữa đề tài về biển với bức tranh khoa học viễn tưởng trong tương lai. Khác với nhiều truyện khoa học viễn tưởng của các tác giả khác như Giuyn Vécnơ với cuốn “Hai vạn dặm dưới biển”, G.B.Ađamôp với “Bí mật hai đại dương”, A.Beliaép với “Người cá” v. v... “Gió vĩnh cửu” của Giêmaichixơ nói lên không khí lao động tươi vui của những người nghiên cứu và khai thác biển vì lợi ích của xã hội cộng sản. Nơi diễn ra các sự kiện chính là Ấn Độ Dương, trên một hòn đảo nhân tạo nằm giữa vùng nước ấm trong suốt. Sống quanh đảo là những đenphin thông minh, hiểu biết con người. Đenphin làm nhiệm vụ chăn cá voi, bảo vệ cá voi khỏi bị lũ cá mập và cá kình tấn công và giúp con người nghiên cứu biển sâu huyền bí, nơi sinh sống của loài nhuyễn thể khổng lồ. Người đọc không thể không thú vị về tình bạn giữa con người và đenphin, một mối quan hệ giống như của những sinh vật có tri thức. Những miêu tả về việc chăm sóc cá voi, về cuộc đấu tranh với tên kẻ cướp - cá kình Giéc Đen thật là sinh động. Quan hệ tốt đẹp giữa những con người trong xã hội không có giai cấp làm cho các nhân vật trở nên đáng yêu, ngay cả cô gái Biata, nhân vật nữ trong truyện, say mê nghiên cứu các vì sao cũng không đối lập với hai người bạn yêu cô là những nhân viên của trạm đại dương. Biata đến đảo như đi dự hội, cô hết sức vui mừng được gặp lại Trái Đất và biển cả. Truyện của Xécgây Ghêôrơghiêvích Ghêmaichixơ làm cho người đọc có cảm giác như thấy được vùng biển đượm ánh nắng trời, thấy được niềm vui của lao động vất vả, hữu ích trong tương lai trên cơ sở những quan hệ tốt đẹp với mọi loài vật nói chung, không phải chỉ riêng với đen phin có tri thức. Giáo sư I. A. Êphơrêmốp cho rằng “Gió vĩnh cửu” rõ ràng là một thành công của tác giả và cuốn sách này được xuất bản sẽ là một món quà tốt cho các độc giả trẻ tuổi. *** Những đenphin dẫn đường cho chiếc tàu “Chim quân hạm” của chúng tôi về đảo. Đó là một dải cát hẹp uốn cong như vành khăn. Từ đây đến đó cũng còn vài hải lý nữa, bây giờ chỉ nhìn thấy nó từ đỉnh ngọn sóng cao thôi. Bãi cát sáng lóa. Những cây dừa rập rờn như trong ảo ảnh. Lần đầu tiên đenphin cho chúng tôi biết hòn đảo nhỏ này. Hòn đảo bị những dải đá ngầm hiểm trở bao quanh. Chỉ có mình Tavi và Prôtây biết con kênh ngoằn ngoèo xuyên qua rừng san hô và đá ngầm. Biata và Vêra đứng thẳng người lên ngắm nhìn hòn đảo đang như tiến lại gần chúng. Biata nói: - Đúng là một chiếc bánh mì vòng xinh xắn làm sao! Côxchia ra vẻ người dẫn đường sành sỏi kể cậu ta được biết gì về hòn đảo nhỏ này là do bản đồ hoa tiêu và nguồn cảm hứng thúc đẩy. - “Chiếc bánh mì vòng” thuộc quần đảo san hô. Nó có cái tên chính xác hơn là “Trạm dừng chân của ba gã lưu lạc”. - Sao lại không phải là bốn? - Vêra hỏi. ... Mời các bạn đón đọc Gió Vĩnh Cửu của tác giả Sergei Zhemaitis.
Đubrốpxki - Alexander Pushkin
Mấy năm trước đây có một lão lãnh chúa Nga tên là Kirila Pêtơrôvích Tơrôiêkurốp, sống tại một trong những điền trang của lão. Nhờ có lắm của, lại dòng dõi quý phái và thường giao thiệp với nhiều kẻ quyền cao chức trọng, nên Tơrôiêkurốp có một uy thế lớn đối với bọn quan lại ở trong vùng. Những người láng giềng của Tơrôiêkurốp đều vui mừng chiều theo những ý thích nhỏ nhặt nhất của lão, và bọn quan chức ở trên tỉnh chỉ nghe đến tên lão thôi cũng đủ run sợ; Kirila Pêtơrôvích chấp nhận những cử chỉ luồn cúi của mọi người như một điều tất nhiên phải có đối với lão; nhà lão lúc nào cũng đầy những khách khứa sẵn sàng mua vui cho cảnh sống vô công rồi nghề của chủ nhân, hưởng ứng những trò giải trí ồn ào và đôi khi thô bạo của lão. Không có ai lại dám từ chối một lời mời của Kirila Pêtơrôvích; đến ngày lão đã định thì mọi người đều răm rắp kéo đến ấp Pôkrốpxcôiê với thái độ thành kính đúng mức. Trong sinh hoạt hàng ngày ở nhà, Kirila Pêtơrôvích tỏ ra có tất cả những thói quen xấu của một kẻ vô học. Được mọi người ở chung quanh chiều chuộng, lão thường quen được thả lỏng cho cái tính khí hung hãn của mình hoành hành, và làm theo tất cả những ý thích của một trí óc không lấy gì làm thông minh cho lắm. Mặc dù có một sức khoẻ phi thường, tuần nào lão cũng đôi ba lần bị bội thực, và hễ cứ đến tối là người ta thấy lão chuếnh choáng hơi men. *** Aleksandr Xergeyevich Pushkin là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Được tôn vinh là đại thi hào, Mặt trời thi ca Nga, ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỷ XIX. Các tác phẩm của A.X. Puskin: Ngoài các bài thơ được sáng tác một cách rải rác từ thời niên thiếu cho đến khi qua đời, gia tài văn chương của A.X. Puskin. Mời các bạn đón đọc Đubrốpxki của tác giả Alexander Pushkin.
Đêm Ai Cập - Alexander Pushkin
Đêm Ai Cập là một cuốn tiểu thuyết dang dở của đại thi hào A.S.Pushkin. Thoạt đầu A.S.Pushkin đặt tên truyện là Cleopatra. Ông viết vào mùa thu năm 1835 ở Mikhailovskoye. Tác phẩm không bao giờ được hoàn thành trọn vẹn. Có lẽ A.S.Pushkin sử dụng trích đoạn trường ca bỏ dở Yezersky (1833) và bài thơ về Cleopatra viết năm 1824 và được viết lại năm 1828 của mình đưa vào truyện làm lời ứng tác của nghệ sĩ Ý. Hình tượng nhà thơ ứng tác có thể có được do ấn tượng sau các buổi trình diễn của người Đức tên là Marx Langheswasx đến nước Nga năm 1832. Người bạn gần gũi của A.S.Pushkin, nhà thơ Ba Lan Adam Mickiewicz cũng có tài ứng tác thơ. Ở hình tượng Tsarsky, Puskin đua vào một số nét tiểu sử của bản thân. Truyện Đêm Ai Cập lần đầu in sau khi nhà thơ đã qua đời, trên Tạp chí Người đương thời (1837, t.VIII). *** Aleksandr Xergeyevich Pushkin là một nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng người Nga. Được tôn vinh là đại thi hào, Mặt trời thi ca Nga, ông đã có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỷ XIX. Các tác phẩm của A.X. Puskin: Ngoài các bài thơ được sáng tác một cách rải rác từ thời niên thiếu cho đến khi qua đời, gia tài văn chương của A.X. Puskin. *** Giá vé 10 rúp; mở màn lúc 7 giờ. Tờ quảng cáo Gian phòng của công tước phu nhân X. được dành cho cuộc biểu diễn của nhà thơ ứng tác. Người ta đã dựng lên một cái bục. Ghế ngồi được xếp thành mười hai hàng. Đến ngày đã định, đúng bảy giờ tối, gian phòng thắp đèn sáng trưng. Trước cửa đặt một cái bàn con có một người đàn bà mũi dài ngồi bán vé, đầu đội mũ dạ màu xám có cắm những chiếc lông chim gáy xơ xác, tay đeo đầy nhẫn. Ngoài cổng có mấy viên cảnh binh đứng. Công chúng bắt đầu lục tục kéo đến. Tsarxki là một trong những người đến sớm nhất. Chàng rất thiết tha với buổi biểu diễn và muốn gặp nhà thơ ứng tác để hỏi xem chàng ta đã hài lòng về những việc tổ chức trang trí chưa. Tsarxki gặp nhà thơ người Ý đang sốt ruột ngồi nhìn đồng hồ trong gian phòng bên; người Ý ăn mặc như một diễn viên trên sân khấu. Chàng ta vận toàn màu đen từ đầu đến chân. Cái cổ sơ-mi thêu đăng ten để hở ra, và màu da trắng bệch trên cổ tương phản một cách kỳ dị với bộ râu đen rậm rạp. Mái tóc nhà thơ rủ xuống từng chùm viền lấy vầng trán và đôi lông mày. Những thứ đó không làm cho Tsarxki vừa lòng lắm: chàng thấy khó chịu khi thấy một nhà thơ mà lại ăn mặc như một thằng hề như vậy. Tsarxki hỏi thăm anh ta dăm ba câu và ra ngồi ở phòng ngoài. Bấy giờ công chúng đến mỗi lúc một đông. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Ai Cập của tác giả Alexander Pushkin.