Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Rỗng

Người rỗng là tác phẩm đỉnh cao của John Dickson Carr trong thể loại “mật thất án mạng”. Xuyên suốt truyện là bí ẩn của hai vụ giết người: một vụ xảy ra trong căn phòng khóa kín, nạn nhân chỉ có thể mấp máy vài từ đứt đoạn; một vụ diễn ra trên con phố vắng, có nhân chứng ở hai đầu. Trong cả hai vụ, kẻ thủ ác đều biến mất không dấu vết. Nhân chứng nhìn thấy hắn, rồi để hắn thoát đi như một màn ma thuật. Kẻ thủ ác là ai? Có chăng hắn là người rỗng dưới vỏ bọc hữu hình để rồi sau khi giết người lại biến mất vào không khí? Độc giả như bị đặt vào mê lộ của sự bất khả, và rồi những suy luận của các nhà điều tra cũng đều dần dần đi vào ngõ cụt. Án chồng án, quá khứ vươn dài xoắn xít vào thực tại khiến người đọc rối trí, nút thắt này chưa gỡ xong đã bị Carr buộc vào một nút thắt khác khó gỡ hơn. Chính những điểm gút liên hoàn được buộc và gỡ một cách xảo diệu, bất ngờ như vậy đã tạo nên sức hút cho Người rỗng, giúp tác phẩm đứng vững trong hàng ngũ những tiểu thuyết trinh thám hay nhất mọi thời đại. *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Thấy cuốn này được tâng bốc đến tận trời cao nên mình cũng thử sức đọc xem sao. Kết quả là, mình khá đồng ý với đa số các review mình đã đọc. Mình không phải là người giỏi lần theo các manh mối và suy luận để tìm ra lời giải cho các vụ án trong truyện nên mình cũng không cố gắng nhọc công làm việc đó, đỡ mệt bao nhiêu. May đấy, vì thủ thuật gây án trong phòng kín mà tiến sĩ Fell trình bày đúng là làm mình lóa mắt. Ấn tượng đầu tiên của mình chính là thủ phạm làm mình liên tưởng đến “Những chiếc răng cọp” của Maurice LeBlanc (cuốn Arsene Lupin đầu tiên mình đọc). Còn lại vềthủ thuật thì quá là phức tạp và mặc dù được giải thích kĩ càng nhưng đầu mình vẫn không thực sự tiêu hóa hết toàn bộ vấn đề. Một điều nữa mà mình cũng đồng ý với các review là cách thức hành động của thủ phạm gần như diễn ra dựa trên các sự kiện tình cờ, không được tính toán trước, ngược lại hoàn toàn với dụng ý ban đầu của thủ phạm. Lẽ dĩ nhiên, điều này cũng thể hiện phần nào trí thông minh và cách giải quyết vấn đề rất nhanh nhạy của thủ phạm, lợi dụng mọi sự ngẫu nhiên xảy ra ngay tại thời điểm đó để thực hiện tiếp những việc tiếp theo theo đúng kế hoạch.   Cái hay của truyện, ngoài cách gây án của hung thủ làm mình sững sờ ra, còn nằm ở việc nhận định và giả thuyết sai lầm. Chính lỗi vô cùng lớn như thế này đã khiến cảnh sát điều tra và tiến sĩ Fell rơi vào ngõ cụt. Vậy kết luận rút ra từ đây là, giả thuyết chỉ là giả thuyết thôi, không nên quá coi trọng nó và mặc định nó nhất định phải như thế. Đến khi tiến sĩ Fell lật lại hoàn toàn những giả thuyết mà tác giả cố định vào đầu người đọc ngay từ đầu, mình mới òa ra, bây giờ mọi chuyện mới sáng tỏ và hợp lý. Các nhân vật thì mình không thực sự thích ai cả. Ấn tượng của mình với các nhân vật trong truyện đều có gì đó rất xấu xa, trừ mấy người điều tra phá án thôi, còn lại ai cũng có vẻ ích kỉ và to mồm, nói nhiều nhưng làm ít, ai cũng thấy có vẻ nói dối – chỉ là mình không đủ nhạy bén để nhận ra họ nói dối cái gì thôi. Thực ra đến cả thanh tra Hadley và tiến sĩ Fell cũng đôi lúc làm mình buồn cười. Họ cũng to mồm không kém các nghi phạm. Từ đầu truyện khi diễn ra cuộc thẩm vấn, mình thấy các nhân vật – cả nghi phạm lẫn người điều tra – đều mất bình tĩnh. Họ quát lên, rồi họ tức giận, ai cũng nói rất to! Có thể đây là một sự hài hước vô ý của tác giả chăng? Một nhân vật mình không thích nhất là người không có vai trò gì trong quá trình điều tra cả, đó là vợ của Rampole là cô Dorothy. Cô này nhiều chuyện và tọc mạch quá, toàn đưa ra những giả thuyết này nọ phi thực tế, hầu như chỉ dựa vào quan điểm và sở thích cá nhân của cô, mà cô đưa ra những ý kiến đó chỉ thông qua mỗi lời kể của chồng. May mắn là Dorothy chỉ xuất hiện có hai lần, mau miệng thật đấy nhưng làm mình khó chịu quá. Mặc dù cuốn này ngắn nhưng mình vẫn đọc chậm hơn tốc độ bình thường của mình vì có những đoạn mình phải đọc đi đọc lại và thỉnh thoảng mình không tập trung được, vì cứ mỗi trang là lại có thêm chi tiết mới, và thám tử phải rà soát lại từ đầu kết hợp với những gì mới phát hiện. Nhưng bù lại, đọc phần phá án lại làm mình rất thỏa mãn, kèm theo một phần bài giảng của tiến sĩ Fell về các loại án mạng phòng kín nữa, vô cùng bổ ích. Điểm: 4/5  (Cảm ơn đã đọc đến đây. Mọi người ủng hộ góc booktube siêu nhỏ của mình nhá – thanks ạ) Hương Spy *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Đối với trinh thám cổ điển mình ít khi đọc (đặc biệt là tác phẩm Âu-Mỹ) vì không quen với văn phong tác giả. Vì thế Người rỗng là một thách thức với mình từ những trang đầu tiên. Mình đã mất 6 ngày để đọc xong. Phải nói là không quá khi bìa sách phí sau ghi Người rỗng tác phẩm đỉnh cao của John Dickson Carr. Những sự việc tác giả đưa vào khiến cho người đọc lẫn nhân vật hiểu lầm và sau đó lí giải thật tuyệt vời. Hình tượng thám tử-tiến sĩ Fell lẫn những người bạn của ông khiến mình cảm thấy gần gũi vì Carr không ưu ái cho ai cả, mỗi nhân vật đều được nêu suy nghĩ về vụ án, ai cũng có đất diễn cả. Và không người bạn nào của Fell làm nền cho ông. Về phần mạch truyện thì diễn ra chầm chậm, sau đó nhanh từ từ về sau. Truyện cũng có những điểm gây cấn. Tuy nhiên, nó cũng có phần giống những trinh thám cổ điển như Đảo ngục môn, Án mạng trên sông Nile,… ở chỗ giải quyết vấn đề sau khi thám tử phá án xong xuôi, nó diễn ra rất nhanh và kết thúc ngay sau đó chỉ với 1 sự lựa chọn của hung thủ và tòng phạm. Về điểm này mình hơi hụt hẫn nhưng nhìn chung mình rất khâm phục bác Carr vì đã lừa và khiến mình rối não. Mức độ yêu thích: 5/5 Neko Sayuri *** NGƯỜI RỖNG Book review: “Người Rỗng” Tác giả: John Dickson Carr Thể loại: Trinh thám cổ điển, giết người trong phòng kín Đánh giá: 9/10 Mình là người rất thích đọc các tác phẩm trinh thám lấy đề tài mật thất, giết người trong phòng kín, vì mình thích tìm hiểu về những vụ án tưởng chừng như bất khả, nhưng hóa ra luôn có một lời giải thích hợp lý. Vì thế, khi biết cuốn “Người Rỗng” của John Dickson Carr – nhà văn trinh thám Mỹ nổi tiếng, được mệnh danh là “ông hoàng mật thất” – được xuất bản là mình mua đọc ngay. Công nhận là hay lồng lộn, hay ghê gớm luôn các bạn ạ.   “Người Rỗng” là cuốn tiểu thuyết về hai vụ giết người. Một vụ là cái chết kỳ bí của giáo sư Charles Grimaud – một người không bao giờ tin vào ma quỷ hay thế giới tâm linh. Trước ngày vụ án xảy ra, Pierre Fley – một nhà ảo thuật gia – đã xuất hiện tại quán rượu mà giáo sư Grimaud thường tụ họp với bạn bè của mình và buông ra một lời đe dọa. Vài ngày sau đó, giáo sư Grimaud có hẹn gặp một người đàn ông cao lớn, bí ẩn trong chiếc áo khoác đen và đeo mặt nạ Guy Fawkes màu hồng như thịt, để rồi giáo sư được phát hiện đang thoi thóp trong căn phòng khóa kín cửa, chỉ có thể mấp máy vài từ đứt đoạn, người lạ đó đã biến đâu mất. Nền tuyết trắng không hề có dấu chân ai cả. Cửa sổ quá bé để một người trưởng thành chui ra được. Căn phòng cũng không có cánh cửa bí mật nào thông ra bên ngoài. Như thể hung thủ đã tan biến vào không khí vậy. Vào cùng đêm giáo sư Grimaud bị bắn, và sau đó qua đời, Pierre Fley cũng bị bắn ở một con phố vắng bởi chính khẩu súng đã giết giáo sư Grimaud. Có nhân chứng đứng ở hai đầu đường nhưng đều không thấy được chuyện gì xảy ra, hay hung thủ là ai. Như thể kẻ thủ ác là một người rỗng dưới vỏ bọc hữu hình, hiện ra gây án để rồi sau đó lại biến mất vào không khí. Và Pierre Fley – người trước đó đã đe dọa giáo sư Grimaud, là kẻ dường như có động cơ giết giáo sư nhiều nhất – cũng chết trong cùng một đêm, hai vụ án chỉ cách nhau vài phút. Vậy rốt cuộc hung thủ thực sự là ai? Có phải là một trong những nhân chứng của hai vụ án hay không? Bên cạnh bí ẩn về “người rỗng” gây án và sự khó giải thích nổi của hai vụ giết người mà việc tìm hiểu xem chuyện gì thực sự đã xảy ra dường như là bất khả, điều mà mình thích nhất ở cuốn tiểu thuyết này, có lẽ chính là những suy luận của tiến sĩ Fell – một trong những hình tượng thám tử “không chuyên” mà John Dickson Carr sáng tạo nên. Chỉ bằng cách quan sát tỉ mỉ những gì còn lại ở hiện trường trong căn phòng kín, cùng việc lắng nghe lời khai của nhân chứng và cả những từ ngữ đứt đoạn mà nạn nhân Grimaud mấp máy trước khi bị đưa đi chăm sóc y tế, mà tiến sĩ Fell đã có thể dần dần khám phá và phác họa nên cuộc sống trước kia của nạn nhân Grimaud, và tự mình đưa ra những suy luận khả dĩ có thể đưa ra một hướng điều tra cho những người có chuyên môn điều tra phá án. Lẽ dĩ nhiên, với một cuốn tiểu thuyết giết người trong phòng kín nổi tiếng dường này, thuộc hàng ngũ những tiểu thuyết trinh thám hay nhất mọi thời đại, thì mọi thứ không như những gì chúng ta và cả tiến sĩ Fell luôn hình dung. Nếu bạn chỉ suy luận đơn giản, chỉ suy nghĩ theo cách thông thường, thì sẽ không bao giờ có thể phát hiện ra được sự thật, cùng “màn ảo thuật” gây kinh ngạc đã đánh lừa rất nhiều người. Và quan trọng hơn nữa, là làm sao chúng ta có thể, từ những lời khai của nhân chứng luôn nói thật, suy luận ra được điều gì đã thực sự xảy ra, và nhìn ra chân tướng của toàn bộ vụ việc. Đoạn kết khi tiến sĩ Fell bóc trần sự thật đã thực sự làm mình ngỡ ngàng, vì mình không bao giờ có thể tưởng tượng được mọi chuyện lại là như thế. Có một chút may mắn giúp hung thủ thực hiện được một phần kế hoạch của mình – cái chút may mắn đã thay đổi và xoay vần toàn bộ cách lẽ ra chúng ta phải suy luận. Phần còn lại là một chuỗi ứng biến có, đã lên kế hoạch sẵn cũng có, để đánh lừa các nhân chứng và xoay chuyển bản chất thật của cả hai vụ án. Nói chung là cá nhân mình không thể nào ngờ được lời giải đáp lại là như thế, và mình cũng không thể nào biết được làm cách nào tác giả John Dickson Carr lại có thể nghĩ ra được một câu chuyện như vậy luôn ???? Giờ mình chuẩn bị đặt mua tiếp hai cuốn khác của John Dickson Carr là “Vụ án viên nhộng xanh” và “Chiếc bản lề cong” để ở nhà đọc trong dịp Tết đây ^^ Hy vọng là cũng sẽ hay như cuốn “Người Rỗng” này ???? P.S.: Chụp cái hình sẵn khoe luôn kệ sách mới hí hí hí ????))) Nguyễn Việt Ái Nhi *** NGƯỜI RỖNG – JOHN DICKSON CARR Giáo sư Grimaud trong một buổi tối khi đang nói chuyện với đám bạn thì một kẻ lạ mặt xưng tên là Fley đến thách thức đe doạ. Không lâu sau đó một người khách lạ che mặt đến viếng thăm nhà Grimaud trong phòng làm việc khoá kín. Một tiếng súng nổ vang, mọi người ùa vào phát hiện Grimaud hấp hối nhưng hung thủ biến mất như có phép xuyên thấu. Fley đươc cho là nghi phạm nhưng sau đó mọi người phát hiện hắn bị bắn chết trên phố vắng đầy tuyết trước mặt 3 nhân chứng mà không ai thấy hung thủ. Tiến sĩ Fell sẽ giải đáp 2 tội ác bất khả thi như thế nào…”Người rỗng” hay có tên khác “3 cỗ quan tài” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Carr, một cột mốc quan trọng của thể loại trinh thám mật thất. Đây là một vụ án phức tạp với nhiều tình tiết rối rắm xoắn lại với nhau khiến người đọc phải cẩn thận theo dõi. Được cái tác giả khéo léo trong cách dẫn dắt và đan cài các tình tiết bí ẩn bất ngờ khiến người đọc tò mò và không bị nhàm chán. Chân tướng vụ án có thể mượn câu nói của Sherlock Holmes “khi ta loại trừ được các khả năng khác thì khả năng duy nhất còn lại dù phi lý đến đâu thì chính là sự thực”. Dĩ nhiên giải đáp của Fell có chi tiết trùng hợp một cách khó tin khiến bạn đọc sẽ phải ngẩn người kiểu “sao có thể như vậy được?” nhưng thì công nhận đó là cách giải đáp hợp lý nhất và kết nối được các chi tiết khó hiểu lại với nhau. Thủ pháp thì các bạn đọc trinh thám Conan hay Kindaichi sẽ thấy quen thuộc vì cuốn này đã viết gần 90 năm và motif kinh điển này đã được không ít hậu bối quen thuộc học tập biến tấu. Gần cuối tác giả có phần “mật thất giảng nghĩa” nổi tiếng thống kê các kiểu mật thất và biến tấu. Các bạn có thể tham khảo kĩ để mấy cuốn sau của Carr có thể suy đoán được tốt hơn. Nhưng cảnh báo mấy bạn quen kiểu đơn giản dễ vào của trinh thám Tung Của hay kiểu nhanh dồn dập của hiện đại Tây thì nên cân nhắc thận trọng. Dù vậy vẫn khuyến khích các bạn không nên bỏ qua cuốn kinh điển về suy luận mật thất này. P.S Đọc thể loại mật thất hơi mệt não nên sẽ đổi vị một cuốn nhẹ nhàng đã rồi quay về Carr sau. Chấm cá nhân 8/10. Nam Do *** Ta có thể dùng rất nhiều từ ngữ li kì để mô tả vụ sát hại giáo sư Grimaud, cũng như vụ án mạng ở phố Cagliostro sau đó vốn cũng phi thường không kém – quý độc giả sẽ sớm hiểu lí do vì sao thôi. Những người bạn của tiến sĩ Fell yêu thích các vụ án bất khả thi sẽ không thể tìm thấy trong sổ tay vụ án của ông một bí ẩn nào khó hiểu và kinh hoàng hơn thế này. Bởi, để gây ra hai vụ án này, hung thủ không những phải vô hình, mà còn phải nhẹ hơn không khí. Chứng cứ cho thấy hắn hạ sát nạn nhân đầu tiên và biến vào không khí theo đúng nghĩa đen. Chứng cứ cũng cho thấy hắn giết nạn nhân thứ hai ngay giữa một con phố vắng, có nhân chứng ở cả hai đầu. Vậy mà không một ai nhìn thấy hắn, và cũng không có dấu chân nào xuất hiện trên tuyết cả. Lẽ dĩ nhiên, chánh thanh tra cấp cao Hadley không bao giờ tin vào ma thuật. Và ông hoàn toàn đúng – trừ khi quý độc giả tin vào loại phép thuật sẽ từ từ được giải thích trong cuốn sách này vào thời điểm thích hợp. Nhưng có vài người bắt đầu phân vân không biết nhân vật bí ẩn rình rập trong suốt vụ án này có phải là một kẻ vô hình thật sự hay không. Họ bắt đầu tự hỏi nếu bỏ đi cái mũ, tấm áo choàng đen, và chiếc mặt nạ trẻ em, thì liệu có thật là không có gì bên trong không, như người đàn ông trong tác phẩm nổi tiếng của nhà văn H. G. Wells vậy. Nhưng dù có phải thế hay không thì kẻ giết người bí ẩn của chúng ta cũng đã đủ ghê rợn rồi. Đoạn văn mở đầu có dùng cụm từ “chứng cứ cho thấy”. Nhưng chúng ta phải rất cẩn thận với những chứng cứ không do mắt thấy tai nghe. Và để tránh những hiểu lầm không cần thiết, trong vụ án này quý độc giả phải được thông báo ngay từ đầu về những chứng cứ mà quý độc giả có thể tin tưởng tuyệt đối. Điều này có nghĩa là ta phải giả định rằng có người nào đó nói thật – nếu không thì làm gì còn bí ẩn nào nữa, và do đó, cũng chẳng có chuyện gì để kể. Vì thế hẳn phải giả định rằng anh Stuart Mills ở nhà của giáo sư Grimaud đã kể lại toàn bộ sự việc chính xác như những gì anh ta đã chứng kiến trong mỗi vụ án mà không nói dối, không bỏ sót, hay thêm thắt bất kì chi tiết nào. Và cũng phải giả định rằng ba nhân chứng độc lập trong vụ án ở phố Cagliostro (ông Short, ông Blackwin và cảnh sát Withers) đã nói đúng sự thật. Trong trường hợp này, cũng cần phải trình bày một trong những sự kiện dẫn đến hai vụ án trên một cách kĩ càng hơn thay vì để các nhân vật hồi tưởng lại sau này. Sự kiện này chính là điểm then chốt, là bước ngoặt, là thách thức. Và nó sẽ được thuật lại dưới đây theo đúng những gì có trong ghi chép của tiến sĩ Fell, với đầy đủ các chi tiết thiết yếu mà Stuart Mills đã khai với tiến sĩ Fell và chánh thanh tra cấp cao Hadley. Sự kiện này xảy ra vào đêm thứ tư, ngày sáu tháng Hai, ba ngày trước vụ án mạng, ở phòng khách phía sau của quán rượu Warwick trên phố Museum. Tiến sĩ Charles Vernet Grimaud đã sống ở nước Anh được gần 30 năm, và nói thứ tiếng Anh chuẩn giọng Anh. Mặc dù ông hành xử cộc lốc trong lúc hứng khởi, và có thói quen đội chiếc mũ quả dưa chóp vuông lỗi mốt và thắt chiếc ca vát dây màu đen, nhưng trông ông còn giống người Anh hơn cả bạn bè của mình. Không ai biết nhiều về quá khứ của ông. Dù đủ tiền sống mà không cần làm lụng, ông vẫn làm việc vì thích được “bận rộn” và cũng có thu nhập khá. Giáo sư Grimaud từng là một giáo viên, cũng như một giảng viên đại học, và một nhà văn nổi tiếng. Nhưng dạo này ông không làm gì mấy mà chỉ đảm nhiệm một chức vụ không lương gì đó ở Bảo tàng Anh. Đổi lại ông được tiếp cận cái mà ông gọi là “những bản thảo phép thuật cấp thấp”. “Phép thuật cấp thấp” là sở thích đem lại rất nhiều hứng thú cho ông: bất kì thứ ma quỷ siêu nhiên kì lạ nào, từ ma cà rồng cho tới lễ Đen thờ quỷ Satan, đều khiến ông gật gù và cười khúc khích như trẻ con – và chính nó cũng đã đem lại cho ông một viên đạn xuyên qua phổi. Nói chung, Grimaud là một người thông minh, với ánh mắt lúc nào cũng lấp lánh sự tinh quái. Ông nói nhanh nhưng với thái dộ cộc cằn và giọng nói ồm ồm cứ như gồng từ cuống họng lên, và ông có cái điệu cười khùng khục không hở răng. Ông có vóc dáng trung bình, nhưng lại có khuôn ngực tráng kiện và thể chất vạm vỡ. Mọi người ở quanh khu Museum đều quen với bộ râu đen được cạo ngắn đến mức nhìn như đang bạc dần, gọng kính đồi mồi, cùng dáng đi cương nghị mỗi khi ông rảo bước trên đường và giơ mũ chào hay giương ô lên ra hiệu cho họ môt cách vội vã. Ông sống trong một căn nhà cũ vững chãi ở phía tây quảng trường Russell cùng cô con gái Rosette, bà quản gia Dumont, thư kí Stuart Mills, và cựu giáo viên ốm yếu Drayman, một kẻ ăn bám được ông thuê để trông coi sách vở. Nhưng cánh hẩu thực sự của ông thì lại tụ tập ở một cái hội do chính họ lập nên ở quán rượu Warwick trên phố Museum. Họ gặp nhau bốn hay năm tối một tuần – một kiểu họp kín không chính thức – trong một căn phòng biệt lập phía sau quán được dành riêng cho mục đích này. Thực ra đây không phải là phòng riêng của họ, nhưng không có mấy người ngoài từ quầy bar đi lạc được vào đó, mà có vào cũng không được chào đón. Những thành viên thường trực của hội là một chuyên gia kể chuyện ma nhỏ con, đầu hói và kiểu cách tên là Pettis, anh chàng nhà báo Mangan và ông nghệ sĩ Burnaby. Nhưng chính giáo sư Grimaud mới là tiến sĩ Johnson của cả hội – đây là điều không thể bàn cãi. Ông cầm trịch mọi thứ. Gần như mọi tối trong năm (trừ thứ bảy và chủ nhật – những ngày ông dành riêng cho công việc), ông đều được Stuart Mills hộ tống tới quán Warwick. Ông luôn ngồi trên chiếc ghế bành ưa thích của mình trước ngọn lửa nóng rực, với một cốc rượu rum pha nước nóng trên tay, và hò hét diễn xướng theo phong cách mà ông ưa thích. Cuộc nói chuyện, Mills kể, thường rất tuyệt vời, mặc dù không một ai có thể tranh luận được với giáo sư Grimaud, ngoại trừ Pettis và Burnaby. Mặc cho vẻ ngoài nhã nhặn, ông là người rất nóng tính. Không ai bảo ai, mọi người đều hài lòng với việc ngồi yên lắng nghe kho kiến thức của ông về phép phù thủy và những trò phù phép bịp bợm mà kẻ gian trá sử dụng để lừa bịp kẻ cả tin, về tình yêu như trẻ con của ông với bí ẩn và kịch tính: nhiều khi ông kể chuyện về phù thủy thời trung cổ, để rồi vào phút chót lại đột ngột giải thích hiện tượng bí ẩn ấy theo đúng phong cách truyện trinh thám. Những tối như thế thật thú vị và luôn phảng phất phong vị của các quán trọ miền thôn dã, dù họ đang ngồi ấm áp trong một quán rượu dưới ánh đèn dầu của khu Bloomsbury. Những tối thật thú vị, cho tới buổi tối ngày mùng sáu tháng Hai, khi điềm báo của nỗi kinh hoàng ập tới đột ngột như cơn gió thổi toang cánh cửa.   Mời các bạn đón đọc Người Rỗng của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Biên Giới Vô Hình
Vĩnh Huy giật mình choàng tỉnh, tiếng chuông điện thoại réo vang kéo anh khỏi giấc mơ quái ác. Anh bước xuống giường khi trái tim trong ngực anh đập thình thịch và hơi thở hổn hển. Vĩnh Huy vừa trải qua một cơn ác mộng kinh hoàng nhưng anh chẳng nhớ mình thấy gì mà sợ hãi đến thế. Tuy nhiên anh vẫn đưa tay nhấc điện thoại lên như một phản xạ và liếc nhìn vào chiếc đồng hồ dạ quang, cây kim ngắn đã vượt qua con số một. Ai lại gọi mình vào giờ này chứ? Vĩnh Huy gấp gáp nói nhanh vào máy: - Alô! "Đoành!" Một tiếng nổ vang trong ống nghe khiến anh bàng hoàng ngơ ngác. Có chuyện gì đang xảy ra ở đầu dây phía bên kia, không kiềm được sự nôn nóng, anh hét to vào ống nghe: - Alô! Không ai trả lời nhưng có những hồi chuông văng vẳng vọng lại cùng tiếng chó tru nghe thật man dại. Vĩnh Huy rùng mình, anh áp sát ống nghe vào tai, cố nhận rõ những gì bên kia nhưng chỉ nghe tiếng mưa gió rít bên tai. Anh đứng bất động nhìn dãy số hiện ra trên máy với đầu óc căng thẳng tột cùng. Số máy điện thoại vừa gọi đến anh hoàn toàn xa lạ khi đã rà soát lại trí nhớ của mình... Nhưng tại sao ai đó lại gọi anh? Kẻ đó ở đâu và điều gì đã đến cùng với chuỗi âm thanh quái đản chẳng báo hiệu điều gì tốt lành? Vĩnh Huy nhếch môi dập ống nghe xuống. Nhưng rồi anh lại nhấc lên khi nghĩ giữa đêm khuya như thế không phải bỗng dưng có người gọi cho mình... phải chăng đấy là lời cầu cứu?... Hay người vừa gọi là... Nhấn mạnh số máy của tổng đài, Vĩnh Huy giật mình khi nhận được giọng nói của cô gái trực: - Số máy ông vừa hỏi là của tu viện Thérésa. Vĩnh Huy ngạc nhiên: - Ồ! Cám ơn cô. Anh ngắt máy và nhìn ra bên ngoài. Trời đang mưa, những hạt nước theo gió đập mạnh vào kính cửa chảy ngoằn ngoèo dưới những ánh chớp lóe sáng từ màn đêm cùng tiếng sóng ầm ầm vỗ vào ghềnh đá. Tu viện Thérésa ở gần eo biển bên kia đồi, Vĩnh Huy từng có lần đến đó. Anh đâu quen ai ở đây, sao bỗng có người gọi mình như thế? Màn đêm đen tối và thời tiết bên ngoài khiến anh thoáng chút đắn đo. Nhưng không hiểu tại sao trong thâm tâm anh muốn mình phải đến đó. Dường như có một mãnh lực vô hình nào đang thôi thúc Vĩnh Huy. Khoác nhanh chiếc áo đi mưa và luồn nhanh cây đèn pin vào túi, Vĩnh Huy đẩy cửa bước ra ngoài mặc cho gió mưa quật vào mặt. Cảm giác lạnh buốt làm Vĩnh Huy thoáng rùng mình, anh kéo cao cổ áo và chui vào chiếc Mazda. Vĩnh Huy bậm môi và cho xe lướt qua những đoạn đường trơn trượt dù biết như thế sẽ nguy hiểm với mình nhưng anh vẫn cảm thấy một nỗi lo lắng mơ hồ. Nếu anh đến chậm, sau này sẽ ân hận. Luồng ánh sáng từ chiếc Mazda trườn tới trước như cố xé toạc màn đêm đen và đoạn đường đẫm nước. Vĩnh Huy ghìm chặt tay lái, chỉ cần một sơ suất nhỏ với tốc độ liều lĩnh thế này thì mọi chuyện sẽ chấm hết. Khi cây kim ngắn trên mặt đồng hồ chỉ số hai, dưới những tia chớp từ bầu trời, tu viện Thérésa hiện ra trong tầm mắt. Vĩnh Huy cảm thấy lòng nhẹ nhõm dù đầu vẫn căng thẳng chưa biết mình phải đối diện với chuyện gì khi đến nơi. Đang căng mắt nhìn tới trước, anh giật mình khi thấy một bóng người chạy dưới cơn mưa với vẻ hốt hoảng, ngược về phía anh. Đúng là có chuyện không bình thường rồi. Vĩnh Huy nhả chân ga, chiếc Mazda chạy chậm dần. Ánh đèn xe đập thẳng vào mặt kẻ ấy. Vĩnh Huy sững sờ khi nhận ra đó là một cô gái, nét mặt hoảng loạn... tóc bết vào mặt vì gió mưa và giống hệt Chiêu Dung, người yêu của anh đã mất tích trong một tai nạn đắm tàu... Ồ! Lẽ nào là nàng? Vĩnh Huy mừng rỡ giậm thắng. Chiếc Mazda ngừng lại... Cô gái dường như muốn chạm vào đầu xe và ngước ánh mắt vô hồn nhìn về phía ánh đèn rồi té quỵ xuống mặt đường lênh láng nước. Đẩy mạnh cửa Vĩnh Huy lao ra ngoài, anh cúi xuống nâng cô gái lên rồi bế vào trong xe. Thật không ngờ... là em thật sao! Vĩnh Huy lầm bầm một mình, liếc nhìn nét mặt thanh tú tuyệt đẹp và bộ ngực phập phồng qua làn hơi thở trong bộ quần áo ướt sũng nước. Cô bị ngất vì lạnh, nhưng điều gì đã xảy ra trước đó. Tình cảnh bất ngờ làm anh lúng túng vì cô sẽ cảm lạnh mất. Vĩnh Huy lôi cái khăn trong cabin ra lau cho cô rồi vội vàng lấy cái áo của mình đang mặc choàng lên người cô. Cô gái khẽ cựa mình trên băng ghế, đó là dấu hiệu tốt mà nãy giờ Vĩnh Huy vẫn chờ đợi. Vĩnh Huy khẽ khàng: - Chiêu Dung! Có thật là em còn sống hay không? Cô gái vẫn im lìm trong cơn mê thiêm thiếp mặc những lời ngớ ngẩn của Vĩnh Huy. Bên ngoài, giông gió ầm ì, mưa như trút. Bốn bề sấm chớp chẳng làm anh lo lắng bằng chuyện gì đã xảy đến với Chiêu Dung...? Nhếch môi cay đắng, Vĩnh Huy nhấn ga cho chiếc Mazda trở về đường cũ. Mời các bạn đón đọc Biên Giới Vô Hình của tác giả Trần Hồng Ngọc.
Những Tội Ác Trứ Danh
“Những tội ác trứ danh” là tuyển tập truyện tội phạm dựa trên những sự kiện có thật của Alexandre Dumas. Thời gian đầu khi mới bắt đầu chuyển sang viết tiểu thuyết, Dumas cũng biên soạn “Những tội ác trứ danh” trong ba năm từ 1839 đến 1841, với sự giúp đỡ của một số người bạn. Tuyển tập này có 17 truyện, bao gồm cả những truyện ngắn và các truyện dài, kể lại chi tiết những tội ác diễn ra trong suốt 5 thế kỷ từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX, trên cả Pháp, Nga, Netherlands, Đức, Ý,… Bạn đọc sẽ được đọc về tội loạn luân tàn nhẫn và vụ án con giết cha nổi tiếng của gia đình Cenci (1598); vụ ám sát tàn nhẫn nữ hầu tước de Ganges do hai tên anh chồng là linh mục và hiệp sĩ gây ra (1657); những tội lỗi và hành vi vô đạo đức, vô pháp của gia đình Borgia quyền thế, đầy mưu mô và bạo lực; theo dõi hành trình chạy trốn, bị cấp dưới phản bội, và cuối cùng là án tử hình của thống chế Joachim Murat – em rể của Napoléon Bonaparte – dưới tay của kẻ thù là Ferdinand IV 1815 – 1825, vua mới của xứ Naples;… Sẽ là quá tải nếu tóm tắt tất cả nội dung của 18 truyện “Những tội ác trứ danh”. Vậy nên, trong phạm vi bài viết, tôi sẽ chỉ đề cập đến các điểm chính của tập truyện, và dành phần trải nghiệm thú vị nhất cho người đọc. “Những tội ác trứ danh” là tuyển tập mô tả tỉ mỉ, chi tiết bậc nhất về tội ác: động cơ của tội phạm, những âm mưu, hành động dẫn dắt; các đồng phạm và nhân chứng; cách nạn nhân sa bẫy, chống trả và chết; những manh mối khi điều tra; phán xử của tòa án. Dumas đã không tiếc ngôn từ của mình để mô tả những cảnh tượng bạo lực, những hình thức tra tấn ép cung, những cách thức giết người rùng rợn đã được thực hiện trên thực tế. Toàn bộ “Những tội ác trứ danh” có thể coi là một tập hồ sơ tội phạm kỹ lưỡng nhất, xứng đáng là đóng góp lớn cho ngành tội phạm học và tâm lý tội phạm sau này. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần là hồ sơ tội phạm, thì có lẽ “Những tội ác trứ danh” sẽ không nổi tiếng đến vậy. Các câu chuyện được Dumas biên soạn lại, kể lại bằng giọng điệu và kết cấu của riêng ông. Đọc “Những tội ác trứ danh”, bạn đọc chắc chắn sẽ không cảm thấy khô khan hay nhàm chán, cũng không hề cảm thấy toàn bộ là bạo lực và giết chóc. Có thể coi “Những tội ác trứ danh” là sáng tạo của Dumas dựa trên những chất liệu thực tế. Ông dẫn dắt độc giả vào từng câu chuyện riêng, lúc thì giới thiệu các nhân vật ngay từ đầu, lúc thì đi từ cái chết của nạn nhân để lật ngược về quá khứ, lúc lại mô tả quang cảnh rộng lớn của một vùng đất nào đó trước rồi dần dần thu hẹp vào con người… Các câu chuyện của Dumas vì thế mà trở nên hấp dẫn hơn, li kỳ hơn, đậm chất văn chương hơn. Cách dùng ngôi thứ ba của Dumas khiến cho người đọc trở thành chúa tể của mỗi câu chuyện. “Vị chúa” nào cũng biết trước kết cục, nhưng lại cần gã đàn ông vui tính và phóng túng tên Dumas dắt đi, dò dẫm từng bước, từng bước, qua từng trang sách, vì cái hay của những câu chuyện về tội ác không phải ở kết quả, mà là ở hành trình: từ hành trình gây án cho đến hành trình phá án và chịu tội của kẻ thủ ác. Và dù có những câu chuyện bạo lực, kinh dị, dưới ngòi bút của Dumas, vẫn có thể coi “Những tội ác trứ danh” là tác phẩm tiêu biểu cho chủ nghĩa lãng mạn u ám qua những ám ảnh rùng rợn, những mô tả chi tiết, cận cảnh về cái chết mà nó bày ra cho người đọc. Tất cả những yếu tố trên khiến “Những tội ác trứ danh” trở thành một trong những tác phẩm tiên phong cho thể loại văn học kinh dị giật gân, tội phạm. Cùng với Mary Shelley, Edgar Allan Poe, Robert Louis Stevenson,… Alexandre Dumas với “Những tội ác trứ danh” đã đem lại những đóng góp quan trọng cho thể loại văn học thách thức tâm lý người đọc này. Có một điều cần lưu ý, đó là: Khi “làm quen” với Dumas qua “Những tội ác trứ danh”, độc giả cần ghi nhớ rằng đây chưa phải Dumas lão luyện khi viết “Bá tước Monte Cristo” hay “Ba chàng lính ngự lâm”, mà mới đang là một kịch gia đang tập tành viết tiểu thuyết. Tuy nhiên, tài năng kể truyện và dẫn dắt người đọc bằng câu chữ của Dumas đã được thể hiện rõ nét ở ngay những năm 1839-1841 này. Trên thực tế, Dumas đã viết “Những tội ác trứ danh” trước khi ra mắt loạt tiểu thuyết phiêu lưu lịch sử tuyệt vời của ông (“Bá tước Monte Cristo” được hoàn thành vào năm 1844, “Ba chàng lính ngự lâm” được viết chỉ trong 4 tháng – từ tháng 3 đến tháng 7 năm 1844). Như vậy, có thể coi “Những tội ác trứ danh” chính là cuốn sách đặt nền móng cho những tác phẩm trong tương lai của Alexandre Dumas. Trong tuyển tập này, ông đã đúc rút được nhiều kiến thức sâu rộng về các quốc gia và các nền văn hóa khác nhau trên thế giới, đồng thời những câu truyện lịch sử ấy cũng giúp Dumas hiểu thêm về cơ chế hành động, đặc điểm tâm lý của nhiều kiểu người trong xã hội, từ quý tộc cho đến kẻ hầu, từ người trong quân đội cho đến người thường, phụ nữ, đàn ông, giám mục, trẻ nhỏ, hoàng thân quốc thích,… Cùng với kinh nghiệm sống phong phú của mình, chỉ 3 năm sau (1844), Dumas đã công bố với người đọc những bộ tiểu thuyết đồ sộ nhất, hấp dẫn nhất, phiêu lưu nhất, lãng mạn nhất của mình. Ở Việt Nam, cho đến nay, vẫn chưa có một bản dịch đầy đủ nào của “Những tội ác trứ danh”. Bản dịch phổ biến nhất hiện nay do NXB Văn Học ấn hành vào năm 2003, do Mai Thế Sang dịch. Tuy nhiên, bản dịch cũng chỉ có 6/18 truyện. Các bản ebook tiếng Việt hiện có trên Internet cũng từ bản dịch này ra. Do vậy, nếu muốn đọc toàn bộ “Những tội ác trứ danh”, bạn đọc sẽ phải đọc bằng tiếng Anh hoặc đọc nguyên gốc tiếng Pháp. (Đọc bản tiếng Anh tại đây). Qua tìm hiểu về cuộc đời của Alexandre Dumas và tuyển tập “Những tội ác trứ danh” có thể thấy Dumas là một văn hào đặc biệt: Ông có cuộc đời tự do, thống khoái. Cái lãng mạn của Dumas không phải là xa rời thực tế, chạy trốn hiện thực, đau khổ với hiện thực rồi khát khao vượt thoát, mà là chấp nhận hiện thực và coi hiện thực (dù khắc nghiệt đến đâu) là một cuộc phiêu lưu. Cuộc phiêu lưu ấy có lúc khó khăn thử thách, nhưng cũng có lúc vui vẻ sảng khoái. Trong cuộc đời mình, Dumas sống và viết, ăn chơi và trả nợ, phiêu lưu và chết. Tác phẩm của ông, dù u ám hay bay bổng, thì đều thể hiện rất rõ tinh thần phiêu lưu. Tinh thần phiêu lưu ấy, nếu không phải là một người dám mạo hiểm, dám sống hết mình, dám tự do, thì sẽ không thể nào có được. ***   GIA ĐÌNH HỌ XĂNGXY (1598) Khi nào các bạn có điều kiện đến tham quan La Mã, mời các bạn đến thăm tu viện Bramăng. Giữa tu viện, tại một chỗ lõm vài piê có xây một đền thờ nhỏ, cấu trúc pha tạp kiểu Hy Lạp cổ đại với kiểu gôtích phong kiến, rồi các bạn đi lên qua một cửa ngang và chính giữa nhà thờ. Ở đấy người dẫn đường sẽ hướng dẫn các bạn xem trong miếu đường thứ nhất, bên phải bức họa "Chúa Jêsu bị đánh đòn" của Xêbáttiêngđen Piômbô và trong miếu đường thứ ba bên trái "Jêsu trong mộ" của Fiamingô. Sau khi đã chiêm ngưỡng thỏa mãn những tác phẩm đó, các bạn tìm dưới chân bàn thờ, một tấm bia đá mà các bạn sẽ nhận ra được do một dấu chữ thập và một chữ đơn giản Orat. Chính dưới tấm bia đó đã chôn Bêatrich Xăngxy mà câu chuyện bi thảm về cô gái ấy sẽ để lại cho các bạn một ấn tượng sâu sắc. Cô là con ông Frăngchetcô Xăngxy. Frăngchetcô sinh dưới thời Giáo hoàng Clêmăng VII lên ngôi ngày 18 tháng 11 năm 1523. Frăngchetcô là con trai ông Nicôla Xăngxy, thủ quĩ của Giáo hoàng dưới thời Pie V. Sinh ra với những bản tính không tốt và làm chủ một gia tài kếch xù, Frăngchetcô lao mình vào những cuộc ăn chơi trụy lạc. Ba lần bị bắt giam vì những cuộc tình ái bất chính và ông đã phải mất gần năm triệu Frăng để thoát khỏi tù tội. Nhất là dưới thời Grêgoa XIII, người ta mới bắt đầu quan tâm đến Frăngchetcô một cách đúng mức. Dưới thời Bôlône buôncompani, ở La Mã tất cả mọi hành động đều được hợp thức hóa đối với những ai có tiền trả, kể cả kẻ giết người và người quan tòa. Cưỡng hiếp và giết người là những vấn đề rất thường mà công lý rất ít khi để ý đến những trò vụn vặt ấy nếu không có ai ở đây để truy đuổi thủ phạm. Vào thời kỳ này, Frăngchetcô trong khoảng bốn bốn, bốn lăm tuổi, cao năm piê, bốn pút, dáng cân đối và rất khỏe mặc dù có vẻ hơi gầy. Tóc ông màu xám, cặp mắt to và đầy ý nghĩa mặc dù mi trên hơi xụp xuống và trở nên rất dữ tợn khi gặp kẻ thù. Ông chơi các môn thể thao rất khá, nhất là môn bơi thuyền. Đôi khi ông bơi thuyền một mình một mạch từ La Mã đến Naptlơ, một quãng đường bốn mươi dặm. Không tôn giáo, không tín ngưỡng, ông không vào nhà thờ bao giờ, nếu có vào cũng là chỉ để xúc phạm Chúa. Nhiều người nói rằng ông rất thích những sự kiện kỳ quặc và không có một tội ác nào mà ông phạm không ngoài mục đích để có một cảm giác mới lạ. Năm bốn mươi nhăm tuổi ông lấy vợ. Vợ ông rất giàu nhưng không có một tài liệu nào nói tên bà là gì. Bà chết để lại cho ông bảy người con, năm trai hai gái. Ông lấy người vợ thứ hai, Lucrêgia Pêtrony, ngoài nước da trắng ngần, bà còn là một điển hình hoàn hảo về sắc đẹp La Mã. Lần lấy vợ thứ hai này ông không có con. Cũng vì Frăngchetcô không có được những tình cảm tự nhiên của con người nên ông rất ghét các con mình và ông cũng chẳng cần giấu giếm mối căm ghét đó. Một hôm, ông cho xây dựng trong sân của mình một tòa lâu đài tráng lệ bên cạnh con sông Tibrơ, một đền thờ để tặng thánh Tômát. Ông nói với kiến trúc sư thiết kế cho ông một hầm mộ: "Tôi mong sẽ nhốt hết bọn con tôi vào đây". Do đó khi các con ông vừa mới tự lập được, ông đã gửi ba người con lớn đến trường đại học Xalamăng ở Tây Ban Nha. Chắc hẳn ông nghĩ rằng xa chúng là bỏ rơi chúng vĩnh viễn, vì khi các con ông vừa đi khỏi nhà là ông không hề nghĩ đến chúng nữa, ngay cả đến việc gửi lương ăn cho chúng. Chính là vào những năm đầu của triều đại Clêmăng VIII, một triều đại được nổi tiếng về công bằng, cho nên ba chàng trẻ tuổi ấy mới quyết cùng nhau lên kêu với Người. Ba chàng lên tìm Giáo hoàng Fratcatti và trình bày mục đích. Giáo hoàng công nhận quyền lợi của ba chàng và người bố là Frăngchetcô phải trợ cấp cho mỗi người con hai nghìn êcu. Frăngchetcô tìm mọi cách để hủy bỏ quyết định ấy, nhưng nhận được mệnh lệnh cụ thể nên buộc phải chấp hành. Chính trong thời kỳ đó ông bị bắt giam lần thứ ba cũng vì tội tình ái xấu xa. Thế là ba người con trai của ông lại lên kêu với Giáo hoàng là cha họ làm nhục thanh danh của gia đình, và yêu cầu luật pháp trừng trị thích đáng. Giáo hoàng thấy hành động của con thế là không tốt nên đuổi họ về. Còn Frăngchetcô thì lần ấy cũng như hai lần trước được thoát thân bằng tiền bạc. Người ta hiểu rằng hành động ấy của ba người con trai không thể thay đổi lòng căm ghét thành tình thương yêu của Frăngchetcô đối với các con được. Nhưng con trai còn có thể thoát khỏi sự giận dữ của cha, còn những cô con gái thì bị giông tố đổ xuống đầu. Chẳng bao lâu tình hình đó trở nên không thể chịu đựng được nữa, đến nỗi cô gái lớn, mặc dù bị giám sát chặt chẽ, cũng gửi được một lá đơn lên Giáo hoàng. Trong đơn cô kể hết những cách đối xử tàn tệ mà cô phải chịu đựng và xin với Giáo hoàng gả chồng cho mình hoặc cho mình vào một nhà tu kín. Clêmăng VIII mủi lòng thương hại, buộc Frăngchetcô phải trợ cấp cho cô một món tiền hồi môn là sáu chục nghìn êcu và gả cô cho Caclô Gabrieli, một gia đình quý tộc ở Gupbiô. Frăngchetcô nổi giận tưởng phát điên vì thấy cô gái ấy thoát được tay mình. Cũng vào thời gian đó thần chết lại đến giải thoát cho ông hai đứa con nữa: Rốc và Crittốp Xăngxy bị giết chết cách nhau một năm, đó là một niềm an ủi cho Frăngchetcô. Tính keo kiệt của ông theo đuổi các con ông đến cả sau cái chết của chúng vì ông tuyên bố sẽ không chi một đồng xu cho phí tổn nhà thờ. Xác chúng phải mang vào hầm mộ mà ông đã xây sẵn cho chúng, trong những áo quan của những kẻ ăn mày. Khi trông thấy hai xác con nằm ở đấy, ông tuyên bố rất sung sướng đã thoát khỏi hai đứa xấu xa ấy, nhưng sẽ được sung sướng hoàn toàn khi nào thấy năm đứa kia nằm bên cạnh hai đứa này để có đủ cả bầy, ông sẽ nổi lửa đốt tòa lâu đài để tỏ dấu hiệu vui sướng của mình. Tuy nhiên Frăngchetcô cũng tìm đủ mọi biện pháp để cô gái thứ hai, Bêatrich Xăngxy không theo gương cô chị. Lúc đó Bêatrich là một cô bé mười ba tuổi xinh đẹp và thơ ngây như nàng tiên. Mái tóc cô dài màu hung, một vẻ đẹp hiếm có ở nước Ý mà chúng ta đã thấy trong tất cả các bức họa của Rafaen(Họa sĩ trứ danh người Ý ). Mái tóc đó rủ xuống thành búi hai bên bờ vai để lộ ra một cái trán tuyệt mỹ, cặp mắt màu xanh da trời có một vẻ mê hồn nhất, thân hình cô tầm thước nhưng rất cân đối. Để giữ được cô, Frăngchetcô nhốt con gái vào một căn phòng kín của lâu đài mà chỉ mình ông có chìa khóa. Ông trở thành tên cai ngục của con gái mình. Hàng ngày ông vào thăm và mang thức ăn cho cô. Ông đối xử với cô rất khắt khe cho mãi đến năm cô mười bảy tuổi. Chẳng bao lâu cô bé tội nghiệp ngạc nhiên thấy bỗng nhiên ông đã dịu đi. Đó chỉ là vì cô bé Bêatrich đã trở thành một cô thiếu nữ, sắc đẹp của cô đã nở ra như một bông hoa. Và Frăngchetcô, một tên tội phạm không từ một tội ác nào, đã nhìn cô với cặp mắt loạn luân. Một thời gian sau, đêm đêm cô thường bị thức giấc bởi một thứ âm nhạc du dương như từ cõi thiên đường phát ra. Khi cô nói điều đó với cha, cha cô dỗ dành để cô yên trí và còn nói thêm nếu cô ngoan ngoãn dễ bảo thì chẳng bao lâu nữa Chúa sẽ ban cho cô một phần thưởng đặc biệt, không những cô chỉ được nghe mà còn được trông thấy nữa. Quả nhiên một đêm, trong khi cô đang tỳ khuỷu tay xuống giường để thưởng thức thứ âm nhạc du dương ấy, bỗng nhiên cửa buồng cô mở ra và từ trong buồng tối cô nhìn ra các buồng xung quanh thấy ánh đèn rực rỡ và đầy hương thơm, như hương thơm, mà người ta ngửi thấy trong giấc mơ, những con trai và con gái xinh đẹp gần như trần truồng như cô đã nhìn thấy trong những bức tranh của Ghit và của Rafaen. Họ đi dạo chơi trong phòng, tỏ vẻ đầy sung sướng và hạnh phúc. Chúng là một bọn vô lại mà Frăngchetcô đã thuê tiền vì hắn giàu có như một ông vua. Mỗi một đêm hắn lại cho thay đổi những cảnh say sưa phóng dục của "Alêchxăng trong bữa tiệc cưới Lucret" và những cảnh trác táng của "Tibe ở Capri". Sau một giờ, cánh cửa đóng lại và cảnh quyến rũ biến mất, làm cho Bêatrich bối rối và ngạc nhiên. Đêm hôm sau cảnh tượng như vậy lại hiện lên. Nhưng lần này Frăngchetcô bước vào buồng con gái, rủ rê con gái ra tham gia cùng hắn trần truồng. Không hiểu tại sao Bêatrich lại biết rằng làm theo lời nằn nì của cha là không tốt. Cô trả lời không thấy mẹ ghẻ Lucrêgia có mặt trong đám phụ nữ, nên cô không dám đứng lên ra ngoài với những người lạ mặt. Frăngchetcô dọa và van nài cô, nhưng đều vô ích. Hôm sau cô mặc cả quần áo đi nằm. Đúng giờ thường lệ, cửa buồng cô lại mở ra và cảnh tượng ban đêm lại tái diễn. Lần này mẹ ghẻ cô, Lucrêgia cũng có mặt trong đám đàn bà đi diễu qua trước cửa buồng cô, bạo lực đã buộc bà phải làm điều nhục nhã ấy. Bêatrich ở khá xa nên không nhìn thấy bà đỏ mặt và nước mắt tràn trề. Frăngchetcô liền chỉ cho con gái mình bà mẹ ghẻ mà hôm qua cô không thấy. Thấy cô không nói gì hắn liền đưa cô bé vào cơn cuồng si ấy mặc dù cô bối rối và đỏ nhừ cả người. Ở đây Bêatrich nhìn thấy những cảnh đốn mạt chưa từng có và cô nhìn thấy những điều cô chưa từng biết. Tuy nhiên cô cũng chống cự lại khá lâu, Frăngchetcô cho rằng những cảnh tượng ấy kích thích cảm giác của con gái, hắn lại còn thêm vào đấy những tà thuyết hòng đánh lạc lý trí của cô. Hắn nói với cô rằng những Thánh lớn nhất của nhà thờ đều sinh ra từ mối quan hệ tình dục giữa người cha và con gái. Thế là hắn không từ một thủ đoạn dã man nào. Hắn buộc Lucrêgia và Bêatrich phải cùng chung một chồng, đe dọa sẽ giết vợ nếu bà để lộ một câu cho con gái hắn biết sự chung chạ ấy là một điều ô nhục. Sự việc như vậy cứ diễn ra trong vòng gần ba năm. Đến thời kỳ này Frăngchetcô có việc phải đi xa trong một thời gian, buộc hắn phải để hai người đàn bà ở nhà với nhau và được tự do. Điều thứ nhất mà bà Lucrêgia thực hiện ngay là nói cho Bêatrich thấy tất cả sự bỉ ổi của cuộc sống của họ, thế là hai người cùng nhau viết một tờ đơn tố cáo với Giáo hoàng tất cả những gì mà họ đã phải đau khổ chịu đựng. Chẳng may, trước khi đi, Frăngchetcô đã đề phòng tất cả, những người xung quanh Giáo hoàng đều bị hắn mua chuộc hoặc sắp được mua chuộc cho nên đơn tố cáo của hai người đàn bà tội nghiệp không tới được tay Giáo hoàng.   Mời các bạn đón đọc Những Tội Ác Trứ Danh của tác giả Alexandre Dumas.
Khi Thiên Thần Sợ Hãi
Bối cảnh là năm 1811 ở nước Anh. Xã hội rối ren, tầng lớp quý tộc đứng ngồi không yên trước nguy cơ một cuộc cách mạng sắp nổ ra. Giữa lúc ấy, Rachel York, một nữ diễn viên kịch đang lên, bị sát hại dã man và cưỡng hiếp trong Điện thờ Đức Mẹ của một nhà thờ gần Westminster Abbey. Các bằng chứng và nhân chứng đều chỉ đến thủ phạm là Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin, khiến anh trở thành kẻ đào tẩu vừa phải trốn chạy vừa phải tìm ra thủ phạm thực sự để minh oan cho mình. Hành trình của Sebastian trải dài từ những dạ hội xa hoa cho đến những phòng trà đứng đắn ở Mayfair, từ những hang cùng ngõ hẻm bẩn thỉu dơ dáy cho đến sân nhà thờ St. Giles. Bằng những kỹ năng học được trong chiến tranh, Sebastian phát hiện ra Rachel không chỉ là một nạn nhân bình thường mà cái chết của cô che giấu một âm mưu lớn hơn, liên quan đến một đường dây gián điệp, những bí mật đời tư của các thành viên quốc hội và nguy cơ đe dọa tương lai của vương triều... *** #Review Khi Thiên Thần sợ hãi Tác giả: C.S. Harris Dịch giả: Minh Phúc. Điểm: 9 cho nội dung + 0.75 cho bìa đẹp cực kỳ = 9.75. Mức: Dở-Trung Bình-Khá-Hay-Rất hay (vkl) = [Hay-Rất hay (vkl)] “Che giấu một bí mật bằng cách ngụy trang nó thành một bí mật khác, một bí mật hào nhoáng và tục tĩu đến mức nếu ai tình cờ phát hiện ra, họ sẽ không bao giờ nghĩ đến việc nhìn xa hơn để nhìn thấy một sự thật…” Một tác phẩm trinh thám kinh điển hội tụ đủ các yếu tố: giết người, điều tra, hành động, phiêu lưu, mạo hiểm và kết thúc bằng một cảnh anh hùng giải cứu mỹ nhân rực lửa kinh điển trong các phim hành động mỹ. Nếu bạn đang tìm kiếm một vị anh hùng, một người không phải thám tử điều tra, một soái ca ngon lành cành đào để điều tra thì có vẻ quyển này phù hợp với những ai thích thú điều đó ???? Sơ lược nội dung: Năm 1811, khi xã hội Anh rối ren, tầng lớp quý tộc đứng ngồi không yên trước nguy cơ một cuộc cách mạng nổ ra. Giữa lúc ấy, Rachel York, một nữ diễn viên kịch đang lên, bị sát hại dã man trong Điện thờ Đức Mẹ của một nhà thờ gần Westminster Abbey. Các bằng chứng đều chỉ đến thủ phạm là Sebastian St.Cyr, Tử tước Devlin, khiến anh trở thành kẻ đào tẩu vừa phải trốn chạy vừa phải tìm ra thủ phạm thực sự để minh oan cho mình. Hành trình của Sebastian trải dài từ những dạ hội xa hoa cho đến những phòng trà đứng đắn ở Mayfair, từ những hang cùng ngõ hẻm bẩn thỉu dơ dáy cho đến sân nhà thờ St.Giles. Bằng những kĩ năng học được trong chiến tranh, Sebastian phát hiện ra Rachel không chỉ là một nạn nhân bình thường mà cái chết của cô che giấu một âm mưu lớn hơn, liên quan đến một đường dây gián điệp, những bí mật đời tư của các thành viên quốc hội và nguy cơ đe dọa tương lai của vương triều.... Và cứ như thế, hành trình của Tử tước Devlin bắt đầu lần ra manh mối truy tìm kẻ đã sát hại dã man cô gái diễn viên kịch ấy bắt đầu, khơi nguồn mọi thứ được tử tước tìm thấy trong một cuốn sổ ghi chép về các cuộc gặp mặt mà cô diễn viên kịch đã để lại trong nhà nhằm lần ra từng manh mối một, tử tước không phải là một kiểu người giàu có công tử bột mà anh ấy đã từng làm trong quân ngũ, phục vụ ở chiến trường, làm tình báo cũng có nên đây có thể coi là một người có kinh nghiệm trong nhiều lĩnh vực, và cả việc điều tra tìm ra manh mối kẻ thủ ác để minh oan cho mình, nhưng sự đời trớ trêu đường cong thì không bao giờ thẳng, tử tước đang có cuộc triệu tập tới đồn cảnh sát tự nhiên vô cớ vướng vào vụ đâm phải một viên cảnh sát khiến anh ấy hôn mê, nhưng không phải do mình làm, một lần nữa lại vướng vào vòng lao lý thật đáng tiếc ????). Chữ tài liền với chữ tai một vần. Vị tử tước đánh kiếm giỏi, đẹp trai (ổng mới 29 tuổi thôi quý vị à, rất soái car nhé :p, tập này sẽ không nói tuổi của tử tước, qua tập sau sẽ nhắc). Hình mẫu lý tưởng để chị em theo đuổi đấy, vừa giỏi vừa tự mình tìm hiểu manh mối nữa. Mạch truyện xảy ra vào đầu thế kỷ 19 nên rất ít kiểu điều tra hiện đại như lần theo manh mối từ vân tay hoặc khám nghiệm tử thi kỹ lưỡng, nhưng trong truyện có miêu tả cảnh cô gái bị cắt cổ ra làm sao, máu me như nào khá chân thật so với những gì một nữ tác giả có thể nghĩ ra, tử tước Devlin có nhiều lúc hành sự khá cảm tính, không biết có phải do anh phục vụ ở quân trường hay không mà anh ấy rất thích việc xông vào nhà từng nhân vật khả nghi để tiến hành điều tra từng người, và anh này có tài hóa trang để có thể tiến hành điều tra khẩu cung từng người, điều này làm mình liên tưởng đến người đàn ông sống ở số 221B phố Barker :p, tuy nhiên anh không có bác sĩ Waston cùng đồng hành mà trên đường đi anh thu thập được một thằng nhóc móc túi làm đệ cho anh =)) nó sẵn sàng làm điệp viên cho tử tước vì anh ấy đã bỏ qua cho nó tội móc túi, và từ đó 2 anh em tiến hành quẩy banh Westminster để có thể lần ra manh mối cho dù là giới bần nông hay tầng lớp quý’s tộc’s nào đi nữa tử tước Devlin cũng không buông ????. Mạch truyện đi khá nhanh, 426 trag chủ yếu tập trung vào việc điều tra hỏi cung là chủ yếu, tuy không có người đồng hành là bác sĩ nhưng tử tước có khá nhiều mối quan hệ và đặc biệt thân thiết với vị bác sĩ Paul Gibson, anh ấy cũng giúp tử tước rất nhiều kể cả phi vụ đào xác lên để khám nghiệm tử thi lại một lần nữa, và có đổ máu có, có ái tử thi luôn, đọc càng về cuối các bạn sẽ thấy tởm lợm hung thủ đã là điều đó với cô Rachel, tác giả miêu tả rất văn học và không thô thiển cứng ngắc. Tất cả các nhân vật trong truyện đều có một bí mật ẩn giấu riêng, và càng điều tra, càng lộ ra nhiều chân tướng, kể cả gia đình của tử tước cũng có một bí mật khá lớn, và trong lúc điều tra mọi người đọc sẽ rất dễ bị dẫn dụ suy nghĩ người nào đó mới thật sự là hung thủ thật, nhưng không càng về cuối plot twist càng lớn lên khi mà người mà không ngờ tới lại chính là hung thủ thật sự lại là “người ấy”, và người ấy là ai thì khi đọc bạn sẽ bất ngờ lớn đấy ???? . Mạch truyện nhanh + diễn biến diễn ra liên tục, nhiều lúc hồi hộp cứ sợ tử tước Delvin bị bắt lại, nhưng anh ấy quá thông minh và pro để có thể ứng phó được + tất cả sự kiện và nhân vật đều che giấu bí mật cho dù đó là tầng lớp gì đi nữa, them vào nữa dòng thời gian của sự kiện là năm một ngàn tám tram hồi đó nên chúng ta sẽ biết được các tầng lớp quý tộc Anh có sự liên kết với Pháp như nào và đặc biệt làm tay sai cho Napoleon ra làm sao sẽ được đề cập đến trong truyện. Và kết thúc truyện là việc đối đầu với hung thủ, cứu mỹ nhân và cũng là người tình của vị tử tước chung tình này, họ sẽ sống bên nhau hanh phúc đến 8 tháng sau hẹn gặp lại vụ án kế tiếp “Lời nguyền của người cá” :p, có những bí mật sẽ được chôn giấu mãi, nhưng rồi nó bằng cách nào đấy vẫn giữ được thanh danh cho tất cả các bên liên quan, một cách giải, một đáp án thấu tình và đạt lý ???? . Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ #Rei_NTN *** C.S. Harris (tên thật là Candice Proctor) là tác giả của hơn 20 cuốn tiểu thuyết. Bà có bằng tiến sĩ trong lĩnh vực lịch sử châu Âu và cũng là tác giả của những cuốn sách lịch sử nghiên cứu về phụ nữ trong thời kỳ Cách mạng Pháp. Sách của bà có mặt khắp nơi trên thế giới và được dịch ra hơn 20 thứ tiếng. Một trong những series nổi tiếng nhất của Harris là Sebastian St. Cyr. Nhân vật trung tâm của tựa sách này là Sebastian, một quý tộc người Anh. Anh hiểu rõ sự rối ren trong tầng lớp thượng lưu và đồng thời cũng dành lòng trắc ẩn cho những con người khốn cùng trong xã hội. Tượng thần sụp đổ (tựa gốc: When Gods Die) là một tựa sách trong series Sebastian St. Cyr. Câu chuyện bắt đầu khi thi thể Guinevere – vị phu nhân trẻ tuổi, xinh đẹp của Hầu tước Anglessey già nua – đang nằm trong tay Hoàng tử George, vị hoàng thân nhiếp chính ăn chơi của nước Anh. Tác phẩm: Tượng Thần Sụp Đổ Khi Thiên Thần Sợ Hãi Lời Nguyền Của Người Cá ... *** Thứ Ba, 29 Tháng 1 năm 1811 Cô đổ lỗi cho màn sương. Bình thường cô không lo lắng đến vậy. Không sợ hãi đến vậy. Màn sương mù vàng đục của London là một thứ hôi hám sởn gai ốc. Mà nếu không có sương mù thì giờ này trời cũng đã tối. Đêm tháng một tối và lạnh. Nhưng làn hơi âm u càng làm mọi thứ thêm tồi tệ khi nó quấn quanh đèn lồng của Rachel như một bóng ma khiến cô suýt vấp ngã khi đang băng qua nghĩa trang nhà thờ. Một hòn đá lăn tròn dưới cái đế mảnh mai của đôi bốt ống ngắn, tạo thành tiếng kêu vang bất thường giữa đêm tĩnh lặng. Dừng lại, Rachel ngoái nhìn qua vai, ánh mắt xuyên qua đường nét mờ sương của những tượng đài và bia mộ rải rác khắp nghĩa trang. Từ xa vang lên tiếng lọc cọc và giọng nói hỏi giờ bị sương mù bóp nghẹt. Rachel hít một hơi thật sâu, lấp đầy phổi bằng không khí giá lạnh đượm hương thơm của đất và lá ẩm ướt cùng mùi hôi thối mốc meo khiến người ta liên tưởng đến những xác chết cũ kỹ, rồi rảo bước. Khối đá nặng nề của Nhà thờ Thánh Matthew vùng Fields lờ mờ hiện ra trước mắt cô. Rachel nắm những nếp lót satin của chiếc áo choàng đêm bằng nhung sát vào người. Lẽ ra cô nên bảo ông ta đến gặp mình vào lúc tám rưỡi tối. Muộn nhất là chín giờ. Tám rưỡi là khoảng thời gian thông thường. Chỉ có điều, đây không phải là một cuộc gặp mặt thông thường. Cô không ngờ mình lại cảm thấy sởn tóc gáy đến vậy. Cô không thích cảm giác này. Lo lắng khiến cô cảm thấy mình như một nạn nhân, và Rachel York không phải là một nạn nhân. Không bao giờ nữa. Đó là một lời hứa cô đã tự hứa với chính mình ở tuổi mười lăm, và trong ba năm qua, kể từ cái đêm định mệnh khi cô nắm quyền kiểm soát cuộc sống của chính mình, đó là một lời hứa cô chưa bao giờ phá vỡ. Giờ đây cô cũng không muốn phá vỡ nó. Tại bậc dẫn đến cửa cánh ngang phía bắc, một lần nữa cô dừng lại. Bên dưới mái vòm tròn sâu thẳm của cánh cổng tại mặt bên toà nhà, bóng tối gần như che phủ tất cả. Nâng đèn lồng lên cao, cô chiếu chùm tia sáng hẹp lên cánh cửa gỗ sồi cũ mòn. Qua lớp da dê mỏng của chiếc găng tay, chiếc chìa khóa sắt lạnh lẽo và nặng nề. Cô càng thấy khó chịu vì những ngón tay mình run lên khi cô cắm chìa vào ổ khóa. Chỉ một lần vặn, ổ khoá đã lách cách trơn tru và cánh cửa mở ra êm ru trước mắt cô nhờ những bản lề được tra dầu đầy đủ. Mục sư McDermott luôn chú ý đến những điều này. Tất nhiên, đó là trách nhiệm của ông. Rachel đẩy cánh cửa mở rộng hơn, một luồng khí đột ngột thổi ra, lay động lọn tóc vàng được uốn khéo trên má cô. Mùi nhà thờ quen thuộc, hương thơm của sáp ong, đá ẩm và gỗ cổ nhấn chìm cô. Cô lướt vào phòng và cẩn thận đóng cửa lại. Cô không khóa cửa. Cô bỏ chìa khóa vào túi xách, cảm nhận sự nặng nề và rắn chắc của nó chạm vào đùi mình khi cô bước qua cánh ngang. Sự im lặng lạnh giá của nhà thờ bao quanh cô, ánh sáng từ chiếc đèn lồng của cô dao động trên những bức tường đá ám khói nến đen và những bức tượng rải rác hình những hiệp sĩ và công nương đã chết từ lâu nằm nghiêng tĩnh lặng, lạnh lẽo trong khoảng không trống rỗng. Họ nói rằng Nhà thờ Thánh Matthew đã gần tám trăm tuổi, với mái vòm bằng đá sa thạch vươn lên từ những cột trụ dày và những chiếc cửa sổ nhỏ bé trên cao giờ chỉ cho thấy bóng tối bên ngoài. Cha của Rachel quan tâm đến những điều ấy. Có lần ông đưa cô đến thăm quan các nhà thờ ở Worchester và nói chuyện với cô hàng giờ về đường mái vòm, bao lơn1* và bức ngăn toà giảng. Nhưng cha cô đã chết từ lâu; Rachel đóng tâm trí mình lại trước những ký ức, không hiểu điều gì đã mang những suy nghĩ ấy đến với cô vào lúc này. *Nơi dành cho ban hát của nhà thờ. Điện thờ Đức Mẹ nằm ở tận cùng khu tụng niệm, một món trang sức nhỏ bé của thế kỷ mười bốn bằng đá cẩm thạch trắng, những cột trụ mảnh mai và bức ngăn chạm khắc tinh tế. Rachel đặt đèn lồng trên bậc trước bàn thờ. Cô đã đến sớm; ông ta sẽ không xuất hiện trong ít nhất hai mươi phút nữa. Sự trống rỗng của nhà thờ cổ xưa dường như ép chặt vào cô, lạnh lẽo và tối tăm. Cô liên tục nhìn vào những cây nến được ban phước tụm lại trên tấm khăn bàn thờ trắng như tuyết. Trong một lúc, cô đã ngập ngừng. Sau đó, đốt một dây nến, cô bắt đầu thắp nến, lần lượt từng cây một, ngọn lửa vàng của chúng nhảy lên ấm áp và tươi sáng cho đến khi chúng dường như hợp nhất thành một luồng ánh sáng an ủi. Rachel nhìn lên tấm vải lớn treo phía trên bàn thờ, một cuộn tranh tối màu miêu tả Đức Mẹ Đồng Trinh lộng lẫy thăng thiên trên nền những thiên thần chiến thắng. Trong khoảnh khắc, Rachel có lẽ đã thì thầm một lời cầu nguyện. Không phải bây giờ. Cô không nghe thấy tiếng cửa ngang mở và đóng, chỉ có tiếng vọng yếu ớt của những bước chân lén lút bước trên dàn hợp xướng. Ông ta đến sớm. Cô không ngờ đến điều này. Quay người lại, cô cởi mũ áo choàng và nặn ra một nụ cười gượng gạo, sẵn sàng thực hiện vai diễn của mình. Lúc này cô thấy cái bóng mờ, đường viền của áo choàng ngoài và chiếc mũ chóp cao của ông ta hiện lên qua bức phù điêu chạm trổ bằng đá của Điện thờ Đức Mẹ. Ông ta tiến lại gần ánh nến. Cô nhanh chóng lùi lại. "Ngươi," cô thì thầm, và biết rằng mình đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp. Mời các bạn đón đọc Khi Thiên Thần Sợ Hãi của tác giả C. S. Harris.