Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Chết Từ Trên Trời - James H. Chase

Truyện hình sự với khá nhiều án mạng, hung thủ là một ông trùm xã hội đen. Nhân vật chính diện là cảnh sát Conrad, lần này không phải là một anh hùng hào hoa đẹp trai với các cô nàng vây quanh, cũng không phải là một tay thám tử cừ khôi bách trận bách thắng. Nữ chính là nạn nhân, được nam chính bảo vệ nhưng không yêu nam chính. Vì không phải nam chính bách trận bách thắng nên kết thúc là không bảo vệ được nữ chính. Nàng chết. Hung thủ không bị bắt. Và kẻ chiến thắng là một tên sát thủ cừ khôi. *** Tiếng chuông điện thoại réo gắt vào lúc Janey Conrad đang bước vội xuống cầu thang. Cô mặc chiếc áo dạ hội vừa may màu xanh da trời, kiểu mới nhất. Tiếng chuông khiến cô dừng phắt lại, nét mặt đang hân hoan vụt trở nên cau có, thay đổi thật đột ngột như khi ta bấm vào một nút điện. Cô cất giọng lạnh lùng và bình tĩnh thường có vào lúc nổi giận. — Paul, chớ có trả lời! Chồng cô từ phòng khách bước ra. Anh khoảng ba mươi lăm tuổi, cao lớn và rắn chắc, mặc bộ smoking, tay cầm chiếc mũ dạ mềm. Lúc Janey mới quen, cô ngạc nhiên thấy anh giống kép James Stewart quá chừng và chính vì thế mà cô đồng ý lấy anh. — Nhưng anh phải trả lời, biết đâu họ cần đến anh, - anh nói với giọng dịu dàng kéo dài. Paul bước về phía điện thoại và cầm ống lên. Anh mỉm cười với vợ và giơ tay ra dấu im lặng. — Alô! — Paul đấy à? Bardin đây! Câu nói của viên thanh tra vang lên trong tai Paul và vọng ra ngoài khoảng im vắng của phòng chờ. Vừa nghe được giọng nói đó, Janey nắm chặt tay lại. Bardin tiếp: — Anh phải nhập cuộc rồi. Một cái lò sát sinh nơi biệt thự “Ngõ Cụt” của June Arnot. Xác ngập đến cổ, trong đó có cả nàng tiên kiều diễm June. Trời ơi! Một vụ sôi động! Bao lâu thì anh đến được? Conrad nhăn mặt và liếc nhìn Janey. Anh thấy bước chân cô cứng nhắc tiến về phía phòng khách. Anh nói: — Được rồi, tôi đến ngay. — Tốt. Tôi sẽ không để ai đụng chạm gì trước khi anh đến. Tôi cần anh trước khi bọn nhà báo nhao nhao đến quấy rầy. — Tôi đi ngay, - Conrad nhắc lại rồi cúp máy. — Cứt! - Janey nói nhỏ. Cô đứng trước lò sưởi quay lưng về phía anh. — Xin lỗi Janey, anh phải đi ngay. — Cứt! Cứt! - Janey nói mà không lên giọng. - Lúc nào cũng chỉ có chừng ấy chuyện thôi, với mấy thằng khốn thám tử của anh. — Nào! Janey. Thật đáng tiếc nhưng biết làm sao. Anh hứa là tối mai sẽ đưa em đi. Janey nghiêng mình về phía trước và vung tay gạt văng mớ đồ đạc, ảnh lồng khung, cả cái đồng hồ trên mặt lò sưởi. Conrad nhào vào phòng. — Janey! Đủ rồi! — Anh đi đi! - Janey vẫn một giọng trầm lặng. (Cô nhìn hình Conrad trong gương, mắt sáng lên vẻ thù ghét). - Anh cứ chơi cái trò bắt cướp đi. Không cần phải lo đến tôi nhưng đừng hy vọng thấy tôi lúc trở về. Từ nay về sau, tôi sẽ đi chơi một mình. — Này Janey, June Arnot vừa bị ám sát đấy. Anh phải đến đó ngay. Em nghe đấy, mai anh sẽ dẫn em đi đến nhà hàng Quốc Tế. Chịu không? — Chừng nào mà còn cái điện thoại chết tiệt trong phòng thì chúng ta không thể nào còn đi chung với nhau được nữa, - Janey nói giọng chua chát. - Paul, tôi cần tiền. Anh nhìn cô: — Nhưng mà, Janey... — Tôi muốn lấy tiền ngay tức khắc! Nếu anh không đưa thì tôi mang đồ đi cầm và chắc chắn không phải là thứ của tôi đâu. Conrad nhún vai. Anh lấy tờ 10 đôla đưa ra. — Được rồi, Janey. Nếu em quyết định như thế thì... Sao em không gọi điện cho Beth? Đi chơi một mình thật là ngốc. Janey cất tiền, ngước mắt nhìn anh rồi quay lưng đi. Conrad hoảng kinh khi nhận ra ánh mắt của vợ thật dửng dưng. — Anh chớ lo cho tôi. Cứ việc lo tới cái vụ giết chóc quái quỉ này đi. Một mình tôi cũng đủ rồi. Conrad định nói nhưng kịp ngừng lại. Một khi cô tỏ thái độ như thế thì khó mà nói chuyện phải trái được. Anh bình tĩnh hỏi: — Em đi đâu, tiện đường xe anh... — Ồ! Đi cho khuất mắt, - Janey chận lại và bước ra phía cửa sổ. Conrad mím chặt môi, bước ra ngoài phòng chờ, đẩy cửa lớn và đi nhanh về phía xe. Trong lúc lướt mình ngồi vào sau tay lái, anh cảm thấy một mối lo âu đến nghẹn lời. Anh không chịu chấp nhận dẫu biết rằng giữa anh và Janey đang nảy sinh rạn nứt. Hai người lấy nhau bao lâu rồi? Anh nhíu mày và ấn vào nút phát động xe. Gần ba năm thôi. Năm thứ nhất thật êm đẹp. Nhưng vào lúc đó anh chưa phải là điều tra viên chính thức của phòng Biện lý. Anh làm việc theo giờ giấc và tối nào cũng có thể đi chơi với Janey được. Khi anh được lên chức, cô đã rất hân hoan. Chỉ một sớm một chiều, lương anh tăng gấp đôi và hai vợ chồng rời căn hộ ba gian ở đường Wentworth để dọn đến căn nhà xinh xắn bungalow ở đất Hayland trong một khu sang trọng. Nhưng rồi Janey không còn hài lòng khi nhận thấy anh có thể bị gọi đi bất cứ sớm tối. Cô nói: — Anh là điều tra viên chính thức mà cứ hùng hục làm như một tên cớm hạng bét. — Nhưng anh là thám tử, thám tử đặc biệt cho biện lý cục khi xảy ra vụ việc quan trọng, lẽ tất nhiên anh phải có mặt, - Conrad kiên nhẫn giải thích với vợ như thế. Lúc đầu thì Paul không cho những lời cằn nhằn ấy là quan trọng vì mấy cú điện thoại bất ngờ làm hỏng cuộc vui buổi tối, nếu cô giận thì cũng là tự nhiên thôi. Tuy thông cảm nhưng Conrad vẫn mong cô vợ biết điều hơn. Nhưng Janey không chịu. Các vụ cằn nhằn ấy chuyển dần qua cãi vã lớn tiếng làm anh đâm ngán. Nhưng đây là lần đầu tiên Janey đòi anh đưa tiền để đi chơi tối một mình. Hơn bao giờ hết, Conrad lo ngại về tình hình mới xuất hiện này, Janey nom ngon mắt quá, đi chơi một mình không được. Conrad biết tính vợ mình dễ nhẹ dạ sinh chuyện. Có nhiều lúc vô ý, cô thốt những lời lẽ khiến anh biết trước kia cô đã từng qua những thời kỳ sống buông thả. Anh đã quyết không coi quá khứ của cô là quan trọng nhưng bây giờ khi nhớ lại những lời vợ kể vanh vách những cuộc vui, tên một vài người bạn cũ mà cô vung ra trong những lúc tức giận, anh lại thấy hơi khó chịu và cứ tự hỏi không biết cô có lại tìm thú đi hoang nữa không. Janey chỉ mới 24 tuổi, luôn luôn đòi hỏi, mà anh thì cái việc chăn gối chỉ ở mức trung bình. Với đôi mắt lá răm, mái tóc vàng óng, làn da nõn nà, chiếc mũi thon dài, Janey có thể quyến rũ bất cứ gã đàn ông nào. — Thật cứt! - Conrad thở dài lặp lại lời của vợ mà không hay biết. Và anh mở máy. *** Ba năm nay, June Arnot là một ngôi sao màn bạc lừng danh và tiếng đồn cô ta là người giàu nhất Hollywood. Cô cho xây một tòa nhà lộng lẫy trên ngọn đồi, cách thành phố Pacific vài cây số và cách Hollywood khoảng mười lăm cây số. Đây là một dinh thự sang trọng, kiêu sa mà June Arnot với tính hài hước sẵn có, đặt tên nó là “Ngõ Cụt”. Conrad dừng xe trước ngôi nhà nhỏ của người gác cổng có dây nho chằng chịt. Khách đến thăm phải ghi tên ở đây trước khi bước trên một lối đi dài cả cây số mới tới biệt thự. Bóng hình to bè của thanh tra Sam Bardin thuộc đội hình sự vụt hiện lên giữa bóng tối. Thấy Conrad, ông nói: — À, ông tá! Chẳng cần phải nôn nóng như thế. Cả đời anh chỉ có mỗi việc này mà thôi. Conrad mỉm cười: — Tôi đang định đi chơi với bà xã. Rồi đây cả tuần nhà tôi biến thành địa ngục cho mà xem. McCann có ở đây không? — Rủi quá, anh ta đi San Francisco rồi, mai mới về. Chuyện lộn xộn lắm, may mà có anh, Paul ạ. Chúng tôi cần một tay thiện nghệ mới mong giải quyết được vụ này. — Ta bắt đầu ngay đi. Anh kể xem anh biết những gì. Rồi sau đó, ta đi liếc sơ qua một chút. Bardin lấy khăn tay thấm mồ hôi trên khuôn mặt to tướng đỏ bầm và hất chiếc mũ ra sau. Ông ta to con, nặng nề, lớn hơn Conrad 11 tuổi nghĩa là khoảng 45. — Lúc 8 giờ rưỡi, chúng tôi nhận được một cú điện thoại của Harrison Hedor, ông bạn của cô Arnot. Ông có hẹn làm việc với cô ta tối nay. Khi đến nơi, ông thấy cánh cổng sắt mở ra. Lạ đấy vì thường thường là cửa khóa kỹ. Ông bước vào nhà người gác cửa, thấy hắn lạnh tanh với một viên đạn bắn vào đầu. Ông bốc điện thoại ở đấy gọi vào nhà nhưng không thấy ai trả lời. Tôi đoán là ông ta đã hoảng lên. Nhưng ông nói với chúng tôi là không dám vào sâu trong nhà và vội gọi chúng tôi. — Bây giờ ông ta ở đâu? — Đang ngồi trong xe tìm cách lại hồn bằng whisky, - Bardin toét miệng cười. - Tôi không có thì giờ hỏi kỹ ông ta nên bảo ngồi yên đó. Tôi đi xem xét. Năm người giúp việc đều bị hạ sát bằng một viên đạn. Tôi tưởng cô Arnot ở đâu đó vì có hẹn nhưng cô ta không có mặt trong nhà. - Ông rút bao thuốc mời Conrad và lấy cho mình một điếu - Tôi thấy cô nơi hồ tắm. (Ông nhăn mặt) - Có kẻ nào đấy tò mò mổ bụng cô ta coi chơi và cắt béng cái đầu không biết dùng để làm gì. Conrad gừ gừ: — Đó là hành động của một kẻ mất trí. Bây giờ thì sao? — Nhân viên đang làm việc trong nhà và nơi hồ tắm. Nếu có gì tìm được thì họ sẽ tìm ra. Anh có muốn đi một vòng ngó qua không? — Có chứ! Anh chàng y sĩ có thể cho ta biết giờ chính xác không? — Lão đang lo vụ đó. Tôi đã dặn lão chớ xê dịch cái xác chết trước khi anh đến. Chắc lão sẽ cho ta biết ngay. Bây giờ ta vào nhà người gác. Conrad theo ông ta vào một căn nhà nhỏ có cái bàn, cái ghế, cái divan đệm và bàn điện thoại. Trên bàn có quyển sổ ghi chép người đến thăm đang được mở ra. Người gác mặc đồng phục xanh ôliu, giày bốt đánh vécni, nằm gập mình trên bàn, đầu loang trong một vũng máu đỏ bầm. Hắn bị bắn đúng giữa mặt. Conrad nhìn vào quyển sổ. Bardin nhạo: — Không chắc có ghi tên sát nhân trong đó. Với lại người gác biết mặt hắn nên mới mở cổng. Conrad nhìn trang giấy còn trắng một nửa: «15 giờ. Ông Jack Belling, đường Lennox số 3 Có hẹn. Cô Rita Strange, 14 Crown Court. Có hẹn. 19 giờ. Cô Frances Coleman. 145 đường Glendale.…» — Anh nghĩ sao? - Conrad hỏi. - Cô gái Coleman này có mặt ở đây sát với giờ xảy ra vụ tàn sát. Bardin nhún vai: — Chẳng biết. Lúc nào có thì giờ chúng ta sẽ dò hỏi. Nếu cô ta dính dấp gì đến vụ này thì đã xé ngay tờ giấy cho mất tang tích rồi. — Đúng vậy, trừ phi cô ta quên. Bardin phác một cử chỉ sốt ruột. — Được rồi, ta đi. Anh còn cả đống việc phải làm. Lên xe thôi. Đến khúc quanh thứ hai thì chậm lại. Người làm vườn bị giết ở đó. Conrad lái xe trên con đường viền những cây cọ khổng lồ và những cây nhỏ nở hoa. Khoảng 300 mét, Bardin báo trước: — Ngay chỗ quanh. Họ dừng bên một chiếc xe đậu sát đường. Bác sĩ Holmès và hai người nội trú mặc áo blu trắng cùng một cặp cảnh sát viên, vẻ mặt chán nản đang tụ tập trước xe, lưng quay phía đèn pha. Conrad và Bardin tấp vào nhóm, vây quanh một ông già Tàu mặt mày nhăn nheo nằm ngửa, các ngón tay màu vàng trông như các vuốt, co quắp người vì hấp hối. Phía trước chiếc áo blu xanh nhuộm một màu đỏ. Bác sĩ lên tiếng: — Chào Conrad. Anh đến xem trò tàn sát đấy à? — Chỉ thăm sơ qua thôi, - Conrad nói. - Lão chết bao lâu rồi? — Khoảng một tiếng rưỡi, không hơn. — Nghĩa là sau 7 giờ? — Gần gần như thế. — Cùng một vũ khí như với người gác? — Có thể. Tất cả đều bị giết bởi một khẩu 45. - Ông bác sĩ nhìn Bardin - Tôi thấy như là một công trình của một tay nhà nghề, ông thanh tra ạ. Tay đó thạo việc lắm. Bắn một phát là đủ rồi. Bardin thốt ra tiếng càu nhàu: — Như thế thì chẳng biết gì nhiều. Khẩu 45 mà bắn thì không ai thoát dù người bắn là dân nhà nghề hay tay mơ. — Ta lên nhà đi, - Coniad nói. Chiếc xe chở họ tới biệt thự sau ba phút. Đèn đã bật sáng khắp các phòng. Hai người cảnh sát gác cửa vào. Conrad và Bardin bước lên các bậc thềm vào khách sảnh nhỏ rồi bước xuống vào giữa nhà đến một sân trong lát gạch hoa. Các gian phòng quây ba mặt sân. Thanh tra O'Brien người cao nhưng gầy, mắt sắc, mặt đầy tàn nhang, từ phòng khách bước ra. Ông ta gật nhẹ đầu với Conrad, Bardin hỏi: — Anh tìm được gì không? — Chỉ có đầu đạn thôi, chẳng có dấu tay nào. Hình như kẻ sát nhân xộc vào giết hết rồi ra ngay không chạm vào vật gì cả. Conrad đến chân cầu thang ngước mắt nhìn lên. Ở các bậc cấp trên cao là xác một cô xẩm Trung Hoa. Cô mặc một áo ngắn trong nhà màu vàng, quần lụa có ren, màu xanh sẫm. Một vệt đỏ gớm ghiếc giữa hai bả vai. Bardin nói: — Hình như cô ta đang chạy trốn thì bị phơ. Anh muốn lại gần xem không? Conrad lắc đầu. Bardin nói tiếp: — Tang vật số 3 ở phòng khách. Ông dẫn Conrad vào một gian phòng bề thế, có bàn ghế, trường kỷ bọc da, đủ sức chứa từ ba mươi đến bốn mươi người. Gần cánh cửa ra vườn, người quản gia của June Arnot ngồi dưới đất, gập mình, lưng dựa vào thảm lót tường. Ông ta cũng bị một phát vào đầu. Bardin hỏi: — Anh muốn xem ở nhà bếp không? Còn hai người nữa ở đấy. Một đầu bếp Trung Hoa và một Philippines. Họ định chạy ra cửa nhưng không kịp. — Thôi đủ rồi, - Conrad nói. - Nếu có gì phải tìm thì nhân viên của anh sẽ thấy. — Ý kiến thâm thúy đấy. Ok! Ta xuống hồ tắm. Ông bước ra ngoài hành lang rộng. Trăng tròn đã lên tuôn làn sáng lạnh gắt xuống biển. Khu vườn thơm ngát hương hoa, một đài phun nước bóng loáng đằng xa tạo nên khung cảnh thần tiên. — Cô ta ưa thích ánh sáng và màu sắc phải không, - Bardin vừa nói vừa tiến về phía hồ tắm. - Nhưng cũng chẳng tới đâu. Kết quả cuộc đời phải nói là thê thảm: Đầu bị cắt, bụng bị phanh. *** Phía cầu nhảy cao 12 mét có mặt bác sĩ Holmès, hai người nội trú, một thợ ảnh và bốn cảnh sát viên. Họ đang nhìn về phía giữa hồ. Nước ở đó nhuộm màu đỏ tím, còn lại là một màu xanh tuyền. Khi Conrad và Bardin bước tới chỗ lát gạch xanh vây quanh hồ tắm, Bardin nói: — Tôi nhìn thấy một lần rồi và không muốn thấy lần thứ hai nữa. Họ họp với đám người kia dưới cầu nhảy. Bardin vung tay tiếp tục chỉ: — Trông kìa! Paul nhìn tấm thân trần truồng, bị cắt đầu, nổi bập bềnh. Bụng anh như thắt lại trước cảnh man rợ ấy. Anh quay mặt đi, hỏi: — Cái đầu ở đâu? — Tôi để nguyên chỗ đã tìm thấy. Trên bàn phòng mắc áo mũ. Anh muốn nhìn qua không? — Thôi cảm ơn. Có chắc là June Arnot không? — Chắc. Conrad quay sang bác sĩ Holmès. — Được rồi, ông thầy, tôi thấy đủ rồi. Ông bắt đầu công việc được đấy. Ông gửi bản sao báo cáo cho tôi chứ? Bác sĩ Holmès gật đầu. Bardin nói: — Này các bạn, móc cô ta lên. Chú ý nhẹ tay một chút. Ba người cảnh sát ngán ngẩm bước tới. Một người giơ cây sào tìm cách móc cái xác nổi. Conrad nói: — Trong lúc chờ đợi, ta đi nói chuyện với Fedor. Anh cho người gọi ông ta tới đây. Mọi người đi về phía ngôi nhà cùng với Conrad. Bardin hỏi: — Này, anh nghĩ thế nào? — Có vẻ như tay đó là khách quen nhà này. Đầu tiên là do người gác để hắn vào. Sau nữa hắn hạ sát tất cả gia nhân vì sợ bị nhận diện. — Trừ phi đó là một tên điên nổi cơn. — Nếu thế thì người gác không cho hắn vào. — Cũng có thể thế, tùy theo kẻ kia nói với người gác gì đó. Khi họ vào nhà, hai người cảnh sát vừa bước qua ngưỡng cửa, khiêng một cái cáng có phủ chăn lên xác người. Một anh cớm nói: — Hết rồi, sếp. Dọn sạch trơn. Bardin gừ gừ bước lên bậc cấp rồi xuống sân. — Theo anh thì Fedor không can gì vào đấy phải không? - Conrad ngồi xuống ghế hỏi. — Hắn không thuộc típ người làm nổi việc này. Cho dù đúng là hắn thì cũng phải có một cớ thật lạ. Vì cô ta là khách hàng duy nhất đã đem lại cho hắn một gia tài kha khá. — Một phụ nữ như cô ta tất phải có cả đống kẻ thù, - Conrad duỗi dài chân ra nói. - Kẻ nào làm cái cú này chắc phải nóng mũi lắm. — Hình như cô ta có liên hệ với khá nhiều kẻ không tốt, - Bardin đưa ra nhận xét. - Theo người ta nói, cô ta dính dấp với đủ thứ chuyện bê bối. Anh có nghe người ta đồn đại cô ta là bạn gái của Jack Maurer không? Conrad sững người chú ý. — Không, bạn gái là thế nào? Bardin mỉm cười: — Tôi nghĩ là anh nghe thì chú ý ngay. Tôi không có bằng cớ nhưng tiếng đồn thì nhiều. Cô ta không khoe nhưng người ta nói hai người là nhân tình nhân bánh của nhau. — Tôi muốn biết rõ chuyện này. Loại hành động như thế này đúng là gu của Maurer rồi. Hắn đủ sức tàn ác để xuống tay. Anh còn nhớ cú tàn sát hai năm trước đây không? Bảy người sắp hàng sát chân tường và thế là liên thanh bắn tằng tằng. — Chuyện đó không có gì chắc là của Maurer, - Bardin thận trọng nói. — Thế còn ai nữa? Bọn đó lấn quyền ông trùm, vậy là ông trùm xơi tái là có lý thôi. — Ông cảnh sát trưởng không tin. Ông ta nghĩ rằng đó là băng Jacobi đem trút tội cho Maurer. — Ông ta biết tôi nghĩ gì về cái luận cứ tồi tệ ấy rồi. Đúng là của Maurer và vụ này thì cũng có thể là của lão nữa... — Anh gầm gừ Maurer dữ quá, - Bardin nhún vai nói. - Chắc anh khoái thấy lão chui vô hộp lắm. — Không phải bị còng số 8 mà thôi đâu, - Conrad nói với vẻ hung dữ bất chợt. - Tôi muốn thấy lão lên ghế điện kia! Thằng chó chết ấy sống lâu quá rồi! Một cảnh sát viên bước vào sân. — Fedor đến rồi, sếp. Conrad và Bardin cùng đứng lên. Harrison Fedor, ông bầu của June Arnot đi tưng tưng bước vào sân. Đó là một con người mảnh dẻ, có cái nhìn sắc và trầm lặng, miệng như cái bẫy chuột chù và má hõm. Ông ta chộp lấy bàn tay Conrad lắc mạnh. — Ngọn gió lành nào đưa ông đến đấy? June có mạnh khỏe không? — Ngược lại thế kia, - Conrad bình thản trả lời - Cô ta bị giết rồi, cả đám gia nhân. — Trời! - Fedor nuốt nước miếng, mặt xịu xuống rồi gượng đến ngồi nơi chiếc ghế mây và nói tiếp. - Ông bảo cô ta chết rồi à? — Còn hơn là chết nữa! — Lạy Chúa! - Fedor giở nón ra và luồn các ngón tay vào mớ tóc lưa thưa. - Chết à? Khó tin quá! Ông ta nhìn sững Bardin rồi nhìn Paul. Cả hai không nhúc nhích, chờ đợi. — Lại bị giết! Yên lặng một chút, Fedor nói tiếp: — Chuyện chi lạ! Không biết tôi nên khóc hay nên cười đây? — Thế nghĩa là gì? - Bardin lầu bầu, mặt mày bất mãn. Fedor nhếch mép cười. — Ông không hiểu vì ông không làm việc với cô ta trong 5 năm như tôi. - Ông ta đứng lên, lấy ngón tay chỉ vào Bardin. - Tôi mà khóc được thì cứ treo cổ tôi lên. Có thể là tôi mất nồi cơm nhưng đỡ được gánh nặng. Con điếm ấy làm tôi đến mụ người. Có tôi thì không có nó, nó làm tôi nhức nhối vô cùng. Các ông không thể biết tôi phải chịu đựng như thế nào với con đĩ ấy. — Có ai đấy đã cắt đầu cô ta, - Conrad thong thả nói. - Rồi như chưa hả giận, hắn lại còn mổ bụng moi phèo ruột ra. Ông có biết ai có thể làm như thế không? — Cắt đầu! Trời ơi! Để làm gì vậy? — Cũng với lý do như mổ bụng: Kẻ đó thù hận cô ta. Ông có biết ai tức giận đến mức tàn ác như thế không? Fedor vụt ngoảnh mặt đi. — Không, tôi không biết. Trời! Báo chí biết chưa? — Không, họ chưa biết chừng nào mà tôi chưa tìm được gì chắc chắn để tiến hành công việc, - Bardin càu nhàu nói. - Này, nếu ông có biết ai có lý do làm như thế thì nên khai ra với chúng tôi. Hồ sơ sếp gọn nhanh chừng nào thì tốt chừng ấy cho mọi người, kể cả ông đấy. Fedor lưỡng lự rồi nhún vai: — Ông nói có lý. Ralph Jordan là thằng bồ hiện nay của cô ta. Tuy nhiên gần đây họ lại gấu ó nhau dữ dội. Cuộn phim hắn quay với June là cuốn cuối cùng. Hãng điện ảnh Thái Bình Dương phải xé hợp đồng với hắn. Họ chịu không nổi hắn nữa. — Tại sao vậy? - Conrad đốt thuốc hỏi. — Hắn phi cần sa sáu tháng nay rồi. Một khi hắn phê thì không gì ngăn hắn quậy. — Sao thế? — Hắn nổi điên - Fedor rút khăn tay thấm mồ hôi mặt. - Khoảng hơn tuần nay, hắn nổi lửa đốt sạch một phim trường. Và tuần qua, khi Laird tổ chức dạ hội nơi hồ tắm của ông ta, hắn làm trò nho nhỏ khiến Laird phải mất sạch tiền để dập tắt chuyện này. Jordan kiếm đâu ra được một chai axít đem rẩy vào áo tắm của các cô, thế là cả hơn ba mươi minh tinh nổi danh cứ tô hô như nhộng. Ban đầu chúng tôi còn khoái cười chí tử và được dịp rửa mắt nhưng sau thấy rằng cái chất lơ mơ đó không chỉ làm cháy áo tắm mà còn làm phỏng da nữa. Năm cô nàng phải vào bệnh viện, tình trạng thật thê thảm. Sáng hôm sau Laird xé hợp đồng với hắn. Conrad và Bardin nhìn nhau. Bardin gợi ý: — Tôi nghĩ là ta phải gặp ông bạn thích đùa dai ấy mới được. — Nhưng xin ông đừng nói tôi khai ra, - Fedor nằn nì. - Tôi đã khốn khổ về mấy chuyện ấy lắm rồi. — Ngoài Jordan, ông còn thấy ai có thể làm vụ này không? - Conrad hỏi. Fedor lắc đầu. — Không, phần lớn bạn hữu của June chẳng tốt đẹp gì nhưng chơi cái mảng này thì còn rét lắm. — Có phải là cô ta và Jack Maurer ngủ với nhau không? Fedor vội cúi mặt nhìn hai bàn tay. — Tôi không biết chuyện này. Conrad nhìn Bardin. — Thật kỳ diệu phải không? Hễ nghe đến tên Maurer là ai cũng nín khe. Hình như thằng cha đó không có trên cõi đời này. — Xin ông chớ phiền, - Fedor vụt chen vào. - Nếu biết chuyện gì thì tôi nói ngay, về Maurer thì tôi chỉ đọc trên báo chí thôi. — Cứ ca cái điệu ấy mãi, - Conrad chán nản nói. - Lúc nào gặp may, không biết chừng tôi sẽ tìm được một tay gồng mình không sợ Maurer lắm và biết được một chút gì đó. Nhưng có cái chán là chẳng biết khi nào. — Chớ nóng. Ông ta nói không biết thì hẳn là không biết thôi. - Bardin nói. Thanh tra O’Brien bước xuống sân. — Sếp, tôi có chuyện muốn nói. Bardin nắm tay ông ta đi vào phòng khách. Paul nói với Fedor: — Ông cứ ở đấy đi, - rồi anh theo hai người kia. — O’Brien tìm được súng lục rồi, - Bardin nói, nét mặt u ám của ông lúc này có dáng hân hoan. Ông giơ lên một khẩu súng 45 tự động. - Xem này! Conrad quan sát khẩu súng. Trên báng có khắc hai chữ viết tắt R.J, anh hỏi O’Brien: — Anh tìm ra ở đâu vậy? — Giữa bụi cây, cách cổng sắt khoảng 30 mét. Cá với anh trăm bạc là đúng rồi. Hết đạn, mới tác xạ không lâu và là một khẩu 45. — Tốt hơn là nên đi kiểm chứng, Sam ạ. Bardin gật đầu đưa khẩu súng cho O’Brien. — Mang về sở và đối chiếu với các đầu đạn anh vừa tìm được. - Rồi ông quay sang Conrad. - Chuyện trẻ con phải không? Có vẻ dễ dàng quá mà. Jordan chắc phải có chuyện nói với cánh ta. Đi chứ? *** Theo Fedor thì Ralph Jordan có một căn hộ trong chung cư ở đường Roosevelt. Hắn ta ở đấy không lâu sau khi June Arnot tống hắn ra khỏi biệt thự ở Hollywood và dù hắn còn giữ ngôi nhà sang trọng ở Beverley Hills nhưng hiếm khi hắn sống ở đó. Conrad ghé xe đậu vào một góc tối. Anh chú ý đến một chiếc Cadillac đen chui nửa thân trong nhà để xe. — Lái xe bạt mạng thật! Anh bước tới có Bardin theo sau. Cánh trái của chiếc Cadillac đâm vào vách làm vỡ miếng đèn pha nát vụn. Bardin mở cửa xe nhìn vào tấm thẻ đồng. — Đúng rồi. Xe của Jordan. Hắn sắp chết một cửa tứ rồi. — Ít ra là ta cũng biết chắc hắn đang có ở nhà, - Conrad nói. Rồi anh bước vào cửa, đẩy cánh cửa xoay, theo sát là Bardin. Một nhân viên to mập, hồng hào trắng trẻo, đôi tay nhỏ, trắng đặt trên chiếc bàn tiếp khách, ngước mắt kênh kiệu nhìn. — Ông cần gì? Bardin chồm tới trước, nhíu mày, nói oang oang. Khi muốn gây khó dễ thì ông cũng đủ sức để trả đũa. Tiếng ông rít lên: — Thanh tra Bardin. Cảnh sát thành phố. Jordan có ở đấy không? Hai bàn tay nhỏ nhúc nhích. — Chắc ông muốn hỏi về Ralph Jordan? Vâng, ông ta có ở đấy. Các ông muốn gặp? — Hắn về nhà lúc nào? — Sau 8 giờ một chút. — Lúc đó hắn có bình thường không? — Tôi không lưu ý. — Hắn ra đi khi nào? — Khoảng sau 6 giờ. — Hắn ở trên lầu chót phải không? — Thưa phải. — Được rồi. Chúng tôi lên đó. Anh muốn giữ sức khỏe thì chớ mó vào điện thoại. Tôi đến thăm bất ngờ đấy. Trên đó có ai ở cùng với hắn không? — Tôi không biết. Bardin đi thẳng đến thang máy bước vào. — Như vậy là hắn ra đi lúc 6 giờ, trở về 8 giờ, thừa đủ thì giờ để đến “Ngõ Cụt” làm điều cần làm. — Nên coi chừng hắn, - Conrad nói khi cửa thang máy khép kín. - Nếu nó cần hận thù thì nguy hiểm đấy. — Hắn không phải là tên điên đầu tiên tôi va chạm và chắc cũng không phải là tên cuối cùng. Khốn thật! Bardin ngừng lại trước cửa căn hộ. — Kìa! Cửa mở. Ông bấm chuông, đợi một lát rồi lấy chân đá cánh cửa mở toang, liếc mắt nhìn vào phòng chờ. Trước mặt là một cánh cửa khép hờ. Bardin đẩy ra, bên trong là một phòng khách lớn, đèn sáng choang. Ông rống lên làm rung cửa kính. — Ê! Có ai ở trong nhà không? Sự im lặng trả lời thật nặng nề và ngột ngạt, lạnh tanh. Hai người nhìn nhau. Bardin nói: — Ồ, anh có nghĩ là hắn nấp ở đâu đó không? — Có thể hắn ra phố rồi. — Lão dưới kia không nói mà! — Ta ghé mắt vào một tí đi. Conrad bước vào một gian phòng, gõ cánh cửa phía trái. Anh xoay tay nắm thấy một gian phòng lớn. Cũng không có ai. Họ mở cửa phòng tắm. Chưa bao giờ họ trông thấy một cảnh bài trí sang trọng đến thế nhưng họ chỉ chú ý ngay đến cái bồn tắm. Ralph Jordan nằm dài ra đó, đầu gập xuống ngực, mình mặc chiếc áo choàng màu cặn rượu vang, khoác ngoài bộ đồ ngủ xanh nhạt. Trên bờ bồn tắm và phần trước áo hắn có loang màu đỏ. Hắn nắm trong tay một lưỡi dao cạo có cán, máu loang như vệt mực trên tranh vẽ. Bardin sờ tay Jordan. — Lạnh như một khúc thịt bò bỏ tủ đá. Ông nắm tóc Jordan lôi đầu hắn lên. Gonrad nhăn mặt khi nhìn thấy vết thương mở toác ra, sâu đến tận một động mạch bị cắt tiện đứt đôi. Bardin lùi lại. — Đấy, thật đúng như tôi nói: Một vụ việc quá đơn giản. Hắn đến đằng kia giết cô gái rồi trở về nhà tự cắt cổ. Hắn có ý tứ lắm. Càng dễ cho tôi làm việc. - Ông hút thuốc phà khói vào mặt người chết. — Tôi nghĩ là bác sĩ có việc làm suốt đêm đấy. Conrad loanh quanh trong phòng tắm, anh tìm thấy một con dao cạo điện. — Lạ là sao hắn lại có dao cạo tay. Đời bây giờ phải chạy quanh mới lùng kiếm được thứ này và tôi không nghĩ là Jordan lại có nó trong nhà. — Anh chớ làm rối lên. Có lẽ hắn dùng để cắt chai chân, lưỡi dao đa dụng mà. Ông đẩy một cánh cửa và thấy một tủ áo thật đầy đủ sang trọng. Conrad đang bước qua phòng bỗng ngừng lại. — Sam, cho anh xem cái này chắc anh phởn lắm - Anh chỉ một vật dính máu nằm trên đất. Bardin bước lại gần. — Trời đất! Con dao phạng. - Ông quì xuống gần con dao lưỡi nhọn. - Cam đoan đấy là vũ khí giết người. Đủ để cắt cổ ai đó và mổ bụng như anh kéo fermeture vậy. — Bộ anh không thấy làm lạ là một gã như Jordan lại có một con dao rừng Nam Mỹ như vậy sao? Bardin ngồi chồm hổm. — Có lẽ hắn mang về làm kỷ niệm. Cam đoan là hắn có đi Nam Mỹ hay Antilles, chắc là Antilles thôi. Nhất định đúng là tang vật và dám đưa đầu cá với anh là máu dính ở đấy đúng là máu của June Arnot. Conrad lật qua lại áo quần vắt trên ghế. — Quần áo không có vết máu. Tại sao cắt đầu người khác lại không dính máu. — Ui, được rồi, - Bardin nóng nảy kêu lên. - Anh đâu có cần vặn vẹo từng li từng tí như thế. Có thể hắn mang áo khoác hay một thứ gì tương tự như vậy. Đâu có gì là quan trọng. Đối với tôi như thế là đủ rồi. Anh không chịu sao? — Tôi không biết, - Conrad nhíu mày. - Mọi sự gọn ghẽ quá nên tôi ngờ là một cuộc xếp đặt. Khẩu súng lục có chữ đầu tên Jordan, cái xe bị bẹp dúm, Jordan tự vẫn và bây giờ là vũ khí giết người được tìm thấy. Đẹp quá nên khó tin là thực. Theo tôi thì có chuyện gì đó xộc xệch trong này. — Chuyện không ăn khớp là vì anh tận tâm quá, - Bardin nhún vai trả lời. - Thôi hết chuyện rồi. Tôi tin thì Cảnh sát trưởng cũng tin. Anh cũng sẽ đồng ý như thế nếu trong đầu không bị ám ảnh bởi ý muốn đưa Maurer lên ghế điện. Phải không? Conrad trầm ngâm gãi gãi cánh mũi. — Có lẽ thế. Ok! Chắc là tôi xong việc rồi. Anh muốn tôi đưa anh về Sở không? — Tôi ở đây để gọi họ tới. Tôi muốn nhân viên lục lọi hết trong nhà này. Ngay sau khi cắt đặt xong công việc, tôi sẽ trở về “Ngõ Cụt” rồi thông báo cho báo chí. Anh về nhà à? Conrad gật đầu. — Hên thật! Không làm việc đêm, một căn nhà ấm cúng, nàng tiên bên cạnh. Sao, bà Conrad mạnh khỏe chứ? — Ồ, chắc là mạnh thôi, - Conrad trả lời mà buồn bã nhận ra rằng mình không thấy có hứng khởi. *** Conrad len qua các đường nhỏ để tránh các rạp cinema vừa vãn xuất hát. Anh lo lắng không biết Janey có thực hiện lời dọa đi chơi một mình và đã về chưa. Anh tấp xe để đốt thuốc. Khi ném que diêm qua cửa kính, anh đọc thấy tên bảng đường: Thông lộ Glendale. Mãi tới khi đến đầu đường, anh mới nhớ là cô gái có tên Frances Coleman đến thăm June Arnot lúc 7 giờ tối đã ghi địa chỉ số 145 Thông lộ Glendale. Anh vụt ghé sát lề và ngồi một lúc nhìn qua kính che gió con đường vắng và buồn. Bác sĩ Holmès đã nói June Arnot chết khoảng 7 giờ. Cô gái này có thể thấy được gì không? Anh bước xuống xe tiến đến số 145. Đây là một chung cư tồi tàn. Có vài cửa sổ còn sáng ánh đèn. Qua cánh cửa kính lối ra vào, Conrad nhìn thấy một tiền sảnh đèn mờ và một cầu thang tối thui. Đủ thứ mùi vị xông lên: Mùi tỏi phi, nước đái mèo và rác rưởi phân hủy. Anh hất ngược mũ, nhíu mày bước vào đến trước dãy hộp thư đặt sát tường. Hộp thư của cô Coleman sếp hàng thứ ba, cô ở lầu 3. Conrad lội bộ lên thang gác. Một tấm thiếp trắng ghi tên cô ghim vào cửa. Conrad định gõ cửa nhưng nhận thấy cửa mở hé. Anh gõ cửa, đợi một lúc rồi lùi lại, thủ thế. Tối hôm nay anh đã trông thấy sáu xác chết thê thảm, ghê gớm rồi. Gáy anh lạnh ngắt. Anh đốt thuốc nhưng nhận thấy tay mình không run. Anh mỉm cười, nghiêng mình tới, đẩy cửa nhìn vào bóng tối. — Có ai đấy không? Không có tiếng trả lời. Một sự yên lặng chập chờn cùng với một mùi hoa thuốc phiện California. Conrad bước tới mò mẫm tìm công tắc. Anh nín thở bật đèn và cứ tưởng nhìn thấy điều tồi tệ: nhưng thật ra không có xác chết, không có máu, không có thứ vũ khí giết người nào hết... đấy chỉ là một căn phòng nhỏ với chiếc giường sắt, tủ commos, vài cái ghế và chiếc tủ lớn. Trông thật sơ sài như chiếc giường đóng đinh của ông fakir Ấn Độ. Conrad đứng yên một lát rồi mở cửa tủ: không có gì hết. Anh gãi gáy rồi bước ra. Trên tường nơi tiền sảnh có bảng: Gác dan ở tầng hầm. “Nào có mất mát gì!” Anh nghĩ. Anh bước xuống một thang gác dơ bẩn tối om. — Có ai không? Cửa mở và ánh đèn làm anh chói mắt. Một giọng nói êm dịu, mơn trớn phát ra: — Không có phòng cho thuê đâu. Conrad nhìn vào. Một người to béo mặc áo ngắn, ngồi sau bàn. — Anh có một căn hộ trống trên lầu 3 phải không. Cô Coleman vừa dọn đi à? — Ai nói với ông thế? — Tôi vừa mới lên trên ấy. Phòng trống trơn. — Ông là ai? Conrad lên giọng: — Cảnh sát! Ông to béo nhăn mặt. — Cô ta đi vào lúc nào? - Conrad nghiêm giọng hỏi. — Tôi không biết cô ta đã dọn đi. Buổi sáng vẫn còn. Thế là may, tôi đỡ phải trục xuất cô ta vào sáng mai này. — Tại sao? — Thì cũng bấy nhiêu chuyện đó. Chưa trả tiền thuê ba tuần. — Anh biết gì về cô ta? Cô ta ở đấy từ bao giờ? — Độ một tháng nay. Hình như là một diễn viên phụ cinema. Cô ta không tìm được việc ở Hollywood. Cô thật ngoan. Tôi mà có con gái thì mong nó được như cô ta. Ăn nói mềm mỏng, người xinh, tính tình trầm lặng, thật là có giáo dục. - Ông nhún vai. - Nhưng lại không có tiền. Mấy con người khá thì lại không kiếm ra tiền. Tôi đã khuyên về quê đi nhưng cô ta không nghe. Cô ta nói rằng sáng nay trả tiền cho tôi. Chắc lại không kiếm ra chứ gì. — Chắc vậy, - Conrad nói. Anh bỗng cảm thấy mỏi mệt vô cùng. Một cô phụ diễn đang thất nghiệp lại đến thăm June Arnot thì có mục đích nào khác hơn là hỏi vay tiền. Loại cô ta chắc không qua được nhà người gác. Khó tin rằng June Arnot chịu tiếp cô ta. Anh nhìn đồng hồ, đã quá nửa đêm. — Cảm ơn. Tôi chỉ cần biết bấy nhiêu thôi. Ông to béo hỏi: — Sao? Cô ta không gặp lôi thôi gì phải không? — Không đâu. Conrad quay trở ra. Bardin đã nói rằng chính Jordan làm cú đó. Sáng mai ông sẽ nói chuyện với ông Biện lý. Giá như anh biết rõ June và Maurer có cặp bồ với nhau nhỉ! Nếu họ đã ngủ với nhau thì có nhiều khả năng Maurer đã tổ chức cuộc tàn sát, mà cũng có thể chính Maurer ra tay. “Ui, kệ mẹ Maurer!”, Conrad nghĩ trên đường vào cổng nhà. “Mình không quên hắn được lấy 5 phút. Thật cực hơn là cảnh một gã si tình trồng cây si trước nhà người yêu”. Anh mở khóa bước vào phòng chờ tối thui. Khung cảnh vắng lặng. Anh mở cửa phòng ngủ và bật đèn: Chiếc giường đôi nằm trơ vơ. Janey quả đã đi hoang chưa về.   Mời các bạn đón đọc Cái Chết Từ Trên Trời của tác giả James H. Chase.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hy Sinh
“Cái sự kiện có khả năng kích động cả hệ thần kinh ấy, bạn sẽ nhận ra nó ngay lập tức giữa tất cả các sự cố khác trong đời, bởi vì ngay khi nó xảy đến, bạn biết rằng nó sẽ gây ra những tác động khủng khiếp lên bạn, rằng điều xảy ra với bạn là không thể đảo ngược. Chẳng hạn như ba phát đạn từ một khẩu súng trường lên đạn bằng tay bắn vào người phụ nữ bạn yêu.” Đó chính là điều đã xảy ra với Camille, tức thiếu tá Verhoeven trứ danh, và Anne Forestier, người tình mới của ông và cũng là nhân chứng duy nhất của một vụ cướp nữ trang trên đại lộ Champs-Élysées. Nhân chứng mau chóng trở thành nạn nhân. Nhưng là nạn nhân của cái ác hay của sự hy sinh? Và rốt cuộc, phải chăng chỉ có duy nhất sự hy sinh ấy? Sau Alex, một lần nữa Pierre Lemaitre lại bất ngờ thộp lấy bạn, đẩy bạn vào những cơn run rẩy dồn dập chết người với những độc giả yếu tim nhất, và thiết lập một bầu không khí ám mùi cái ác ở trạng thái nguyên chất. Một lần nữa, tác giả lại khẳng định lối viết và tài năng của mình trong thế giới văn chương trinh thám. *** Tác phẩm này đã đoạt Giải CWA International Dagger năm 2015 Trở lại với thanh tra Camille lùn tịt nhưng siêu thông minh trong Alex, mà không hiểu sao Nhã Nam không cho dịch hai cuốn của series 4 quyển về Camille luôn đi. Mình thích quyển này lắm lắm.   Cụ thể thì về mặt nội dung, quả là khó nói. Anne, có thể coi là người tình của Camille, bị tấn công tàn bạo sau khi chứng kiến một vụ cướp liều lĩnh của bốn tên cướp. Mấy chục trang đầu cuốn sách là để tác giả thuật lại vụ tấn công đáng sợ này. Cái hay ở đây là tác giả vừa miêu tả thông qua góc nhìn của Camille khi xem lại đoạn băng ghi hình vừa tường thuật một cách hờ hững trong tư cách là một người thứ ba quan sát sự việc. Mình cực kì mê cách viết của tác giả luôn ấy, từ quyển Alex rồi. Lối kể chuyện vừa nằm trong đầu nhân vật nhưng đồng thời cũng giữ một thái độ khách quan của người kể chuyện khiến cho giọng văn mang tính giễu cợt, nhưng vẫn gây cảm xúc mạnh nơi người đọc. Đặc biệt ở đoạn đầu này, sự bạo lực được miêu tả vô cùng khắc nghiệt. Mình càng đọc thì tính bạo lực càng được đẩy lên cao đến mức mình phải nín thở để có thể đọc tiếp (đùa tí, không đến mức nín thở đâu). Những gì Anne phải hứng chịu làm mình không nghĩ là cô vẫn đủ sức níu kéo mạng sống – thế mà cô vẫn làm được. Sau đó, Camille, vì tình riêng đã quyết định lừa dối cấp trên và đồng nghiệp để được điều tra vụ cướp này. Chúng ta bắt đầu một màn đấu trí một sống một còn giữa một viên thanh tra lùn đầy quyết tâm và một tên hung thủ man rợ không còn tính người. Rốt cuộc thì ai là kẻ chiến thắng? Camille có để cảm xúc che mờ lý trí? Khác với cuốn Alex, nhịp truyện trong này tương đối chậm (kể cả đoạn bạo lực đầu truyện) nên mình thấy không nhiều người đánh giá cao cuốn này. Về cá nhân mình, nhịp chậm như vậy khiến mình lúc nào cũng trong trạng thái hồi hộp, chờ đợi màn phá án nhanh nhạy tiếp theo của Camille. Đáng tiếc là mình không đọc cuốn đầu tiên của series này nên bị spoil hoàn toàn cuốn đó – cuốn này có liên quan chặt chẽ tới cuốn đầu tiên. Nhưng dù sao thì điều đó vẫn không cản trở mình tận hưởng từng giây một việc đọc cuốn sách này. Sao mà mình vẫn ngưỡng mộ Camille thế nhỉ? Ông ấy cao có mỗi 1m45 mà ai ai cũng phải phục, và ông vẫn có người yêu đàng hoàng đấy chứ! Kiểu mình cũng khá thấp (chưa đến 1m50 cơ) nên mình đồng cảm với ông ấy ghê gớm luôn. Ông thật là thông minh, quyết đoán và cái gì cũng nhìn ra được chân tướng vụ việc. Mình đọc mà cứ thấy sợ là lý trí ông sẽ bị lu mờ đi bởi chuyện xảy ra đến Anne, nhưng thực sự là quá may mắn khi tác giả đã không cho Camille đi vào lối mòn đó. Dĩ nhiên là việc ông lừa dối cấp trên chỉ vì Anne cũng để lại hậu quả lớn mà ông sẽ phải đối mặt sau đó. Và rồi những gì ông phát hiện ra làm giọng văn trầm hẳn xuống – mình như cảm nhận được cả tâm trạng tác giả khi viết những dòng này, gần như là một cách để chia tay với nhân vật Camille và kết thúc cả series. Camille bẽ bàng nhận ra những gì ông đã làm từ đầu đến giờ, trong truyện, thực chất chỉ vì ông đã quá tin tưởng, quá ngu ngốc. Ông phải sửa chữa lại mọi thứ. Cuốn này mang nhiều điều suy ngẫm hơn, có lẽ vì chúng ta biết đây là thời khắc chia tay nhân vật Camille mãi mãi. Hy sinh chính là dòng chảy chính của truyện, Camille đã phải hy sinh cái gì để bắt hung thủ phải trả giá, Anne đã phải hy sinh cái gì khi vô tình bị bọn cướp tấn công. Nhưng nói thật là, mình chẳng quan tâm lắm tới cô Anne này đâu. Mình chỉ quan tâm tới Camille thôi. Kết quá quá là buồn, còn buồn hơn cả trong Alex. Mình cũng buồn, vì mình không muốn tạm biệt Camille đâu, mình muốn vẫn còn cuốn nữa cơ. Điểm: 5/5 Hương Spy *** “Máu chảy. Chảy tiếp. Không suy nghĩ, cô vớ một lọ nhựa đựng cồn chín mươi độ trong tủ thuốc, không có gạc, cô xòa bàn tay, đổ cồn vào đó rồi cứ thế áp lên mặt. Cơn đau đớn kéo đến… Cô gào lên và nắm tay đấm mạnh vào bồn rửa, các ngón tay cô, không được bảo vệ vì những thanh nẹp đã bị rơi ra, làm cô lại hét lên lần nữa. Lần thứ hai, xòe bàn tay, đổ cồn ra rồi áp trực tiếp lên mặt. Cô tì hai bàn tay vào mép bồn rửa, tưởng như sắp xỉu đến nơi, nhưng cô vẫn đứng vững”. Vì ấn tượng mạnh với tác phẩm Alex của Pierre Lemaitre nên khi cuốn “Hy sinh” được xuất bản, dù không được PR rầm rộ nhưng Biển vẫn không do dự rước nó về. Lần đầu đọc thì Biển chưa thấy hay nên đã đem cất, đến lần thứ hai thử đọc lại thì thấy cuốn hút hơn nhiều nên đã đọc đến hết. Tuy vậy, vẫn có vài đoạn Biển lướt nhanh vì thấy hơi lan man. Độc giả vốn đã biết đến thanh tra Camille Verhoven qua truyện Alex. Trong cuốn “Hy sinh”, ông đã phần nào vượt qua nỗi đau mất vợ để bắt đầu xây dựng mối quan hệ – có thể gọi là “mối tình” – với người phụ nữ tên Anne Forestier. Một buổi sáng đẹp trời, Anne tình cờ bước vào con hẻm phía sau tiệm kim hoàn và chạm mặt ba tên cướp đang chuẩn bị hốt một mẻ lớn. Chúng chưa kịp kéo mặt nạ xuống. Chẳng nói chẳng rằng, tên cao lớn nhất trong bọn bước đến, dùng báng súng nện vỡ xương gò má của Anne, sau đó là một trận đòn khiến cô thương tích đầy mình, tính mệnh khó níu giữ. Sự việc đã gây nên cú sốc to lớn trong lòng thanh tra Camille – vốn là một người đàn ông nhạy cảm. Ông che giấu sự thật rằng nạn nhân chính là tình nhân hiện tại của mình, nhất quyết tiếp nhận vụ án trong khi cõi lòng mang đầy phẫn uất và không có chút manh mối nào. Qúa trình điều tra diễn ra rất chậm, có vẻ như sai lầm nối tiếp sai lầm, khiến cấp trên nổi giận còn đồng nghiệp thì dùng hết khả năng để bao che cho Camille. Tuy đã đưa người nhà đọc trước và bị dọa rằng “cuốn này dở lắm” nhưng vì thích cuốn Alex nên Biển quyết định đọc cuốn “Hy sinh” với tâm thế như một tờ giấy trắng, không định kiến. Lâu lâu đọc trinh thám Pháp đúng là có phong vị hoàn toàn khác với thể loại trinh thám Mỹ tốc độ nhanh và cốt truyện dữ dội mà Biển thường đọc. “Hy sinh” có lối viết hơi chậm, sau phần mở đầu dồn dập và tàn bạo thì gần như 300 trang đầu không hé lộ thêm gì mới, chủ yếu miêu tả cảm xúc của thanh tra Camille và vài diễn tiến sau khi vụ tấn công xảy ra. Nếu không vì thiện cảm với tác giả và sự tò mò cao độ với kết cuộc của vụ án thì có lẽ Biển đã xếp sách cất để sau này đọc tiếp. Tuy nhiên, sau khoảng 300 trang thì tình tiết kịch tính hơn, khiến Biển cảm thấy thú vị hơn và có động lực đọc đến cuối. Thanh tra Camille Verhoven, hay chính tác giả Pierre Lemaitre liệu có phải là một người mang chút tư tưởng body-shaming, vì trong cuốn “Hy sinh” có hai chỗ phê phán ngoại hình của những phụ nữ thừa cân, điều này khiến người viết review này cảm thấy không vui vì chính cô ấy cũng thừa cân. Biển hy vọng tác giả chỉ đưa vào những đoạn như vậy nhằm mục đích trào phúng chứ không thật sự có ý chê bai ngoại hình của bất cứ ai. “Camille nhìn cô ta, thầm vẽ chân dung cô ta trong đầu, cô ta cũng gây ấn tượng nhưng chỉ là khi nhìn lướt qua. Bởi vì khi xem xét đến từng chi tiết thì lại là chuyện khác: chân to, mũi ngắn, các đường nét hơi thô kệch, bộ mông rất phì nhiêu nhưng lại vênh lên quá cao. Bộ mông của một vận động viên leo núi. Cô ta cũng xức nước hoa… Có mùi i ốt. Có cảm giác mọi người đang tranh luận bên cạnh một sọt hàu”. Tuy nhiên, ngoài chút cảm giác khó chịu với chuyện body-shaming thì Biển khá ưng ý với những câu đậm chất triết lý về nhân gian quan hệ thỉnh thoảng xuất hiện trong truyện. Đọc văn của Pierre Lemaitre giống như đang trò chuyện với một vị tiền bối trung niên nắm vững nghệ thuật kể chuyện. Người đọc sẽ có cảm giác như đang ngồi trong quán rượu và lắng nghe một câu chuyện được kể lại bằng giọng điệu nhàn tản nhưng lôi cuốn, không thiếu những đoạn cao trào và những câu sâu sắc về tâm lý con người. “Việc ta là ai đối với người khác chính là một mối liên kết vô cùng mạnh mẽ”. “Họ bước cùng nhau trong một khoảng thời gian mà không biết gì về nó, một khoảng thời gian ngắt quãng, không chắc chắn và có thể tiếp diễn”. “… một người phụ nữ bốn mươi tuổi và một người đàn ông năm mươi tuổi nói chuyện gì khi gặp nhau kia chứ, ngoài việc tìm cách giảm thiểu những thất bại của bản thân nhưng lại không che giấu chúng hoàn toàn, nhắc đến những vết thương lòng mà không trưng chúng ra, cố gắng nói về chúng càng ít càng tốt”. “ ‘Chỉ cần anh xem qua thôi’, có nghĩa là: tôi muốn nghe ý kiến của anh, tôi có chút nghi ngờ, chính anh phải cho tôi biết, tôi không nói gì với anh cả, tôi không muốn gây ảnh hưởng đến anh, và giá anh có thể làm nhanh việc này…”. Cũng như cuốn Alex, trong cuốn “Hy sinh” có những đoạn miêu tả chi tiết về các đoạn hành hung hoặc bạo hành, được viết với một giọng văn lạnh lẽo thản nhiên cứ như đang nói chuyện thời tiết, càng tăng hiệu ứng tàn bạo của hành động, thể hiện rõ bản chất tàn nhẫn của nhân vật phản diện. Tuy nhiên, không chỉ nhân vật phản diện mới có thể tàn nhẫn, ngay cả một nhân vật phụ đáng thương cũng có thể tàn nhẫn nếu cách xử sự của anh ta / cô ta cho thấy sự vô tâm hời hợt khi người khác gặp nạn.. Trước khi đọc cuốn “Hy sinh” thì Biển khá thích cái bìa đơn giản nhưng ấn tượng của nó, sau khi đọc thì Biển hiểu rằng bìa sách minh họa cho nhiều cảnh trong sách. Tiếng Pháp chắc là khó dịch hơn tiếng Anh nên có vài câu / vài đoạn Biển không thể nắm rõ ý khi đọc, nhưng nhìn chung truyện đã được dịch thuật và biên tập tốt, không có lỗi chính tả hoặc lỗi in ấn. Gần cuối sách là một câu nói đáng lưu ý của thanh tra Camille về việc hy sinh: “Cho dù có rơi vào tình cảnh bi đát nhất, tôi vẫn thấy là không tồi khi có ai đó để ta có thể vì họ mà hy sinh một điều quan trọng. Trong thời đại của chủ nghĩa vị kỷ này, thậm chí đó còn là một thứ xa xỉ, cậu không thấy thế sao?” (Sea, 28-5-2020) Phía sau hình minh họa cho review này là một câu chuyện vui. Cáo Biển Non Xanh *** 10:00 Một sự kiện được coi là có tính chất quyết định khi nó khiến cuộc đời bạn lệch hẳn khỏi trục của nó. Đó chính là điều mà Camille Verhœven đã đọc được, vài tháng trước, trong một bài báo về “Sự tăng tốc của lịch sử”. Cái sự kiện mang tính quyết định, đột ngột, bất ngờ và có khả năng kích động cả hệ thần kinh ấy, bạn sẽ nhận ra nó ngay lập tức giữa tất cả các sự cố khác trong đời, bởi vì sự kiện ấy chứa đựng một nguồn năng lượng và chiếm một tỷ trọng đặc thù: ngay khi nó xảy đến, bạn biết rằng các hậu quả của nó sẽ gây ra những tác động khủng khiếp lên bạn, rằng điều xảy ra với bạn là không thể đảo ngược. Chẳng hạn như ba phát đạn từ một khẩu súng trường lên đạn bằng tay bắn vào người phụ nữ mà bạn yêu. Đó chính là điều đã xảy ra với Camille. Dẫu hôm đó, cũng giống như ông, bạn đang trên đường đến dự lễ tang người bạn thân nhất của mình, và bạn có cảm giác chừng ấy đã đủ nặng nề cho một ngày, thì cũng chẳng còn gì là quan trọng nữa. Số phận không có kiểu hài lòng với một sự tầm thường như thế, và mặc kệ chuyện đó, nó hoàn toàn đủ khả năng hiển hiện dưới hình dạng của một kẻ giết người được trang bị một khẩu Mossberg 500* cưa nòng, cỡ 12 ly. Bây giờ, chỉ còn tìm hiểu xem bạn sẽ phản ứng thế nào. Toàn bộ vấn đề nằm ở đó. Bởi vì suy nghĩ của bạn đờ đẫn đến nỗi trong phần lớn các trường hợp, bạn sẽ phản ứng thuần túy theo bản năng. Chẳng hạn như khi người phụ nữ bạn yêu, trước khi lĩnh ba phát đạn, bị dần cho một trận nhừ tử theo đúng nghĩa của từ này, và sau đó bạn nhìn thấy rõ mồn một kẻ giết người giơ súng lên ngắm sau khi lên đạn bằng một cử chỉ nhanh và dứt khoát. Chắc hẳn chính trong những thời khắc ấy, những con người phi thường sẽ lộ diện, những con người biết đưa ra quyết định đúng đắn trong hoàn cảnh tồi tệ. Nhưng nếu bạn là một ai đó bình thường, bạn sẽ tự vệ theo khả năng của bản thân. Và rất thường xuyên, khi phải đối diện với một cơn địa chấn như thế, bạn buộc phải hành động theo kiểu được chăng hay chớ hoặc theo cách sai lầm, nếu chưa rơi thẳng vào trạng thái bất lực. Khi đã đến một độ tuổi nhất định hoặc khi những chuyện kiểu đó từng giáng xuống đời bạn, bạn sẽ tưởng rằng mình được miễn dịch. Đó chính là trường hợp của Camille. Người vợ đầu của ông đã bị sát hại, một cơn tai biến, ông đã mất nhiều năm mới hồi phục được. Khi đã trải qua một thử thách như vậy, bạn sẽ nghĩ rằng chẳng còn chuyện gì có thể xảy đến với bạn nữa. Đó chính là cái bẫy. Bởi vì bạn đã mất cảnh giác. Đối với số phận, vốn có con mắt rất tinh tường, thì đây chính là thời điểm phù hợp nhất để tóm cổ bạn. Và nhắc cho bạn nhớ về tính đúng lúc không chệch đi đâu được của sự tình cờ. Anne Forestier bước vào hẻm thương mại Monier ít phút sau giờ mở cửa. Hành lang chính gần như vắng ngắt, vẫn còn thoang thoảng thứ mùi váng vất của chất tẩy rửa, các cửa hàng chậm rãi mở cửa, người ta bày ra các sạp sách vở, đồ trang sức, các tủ trưng bày. Hẻm thương mại này, được xây dựng vào thế kỷ 19 ở cuối đại lộ Champs-Élysées, bao gồm các quầy hàng cao cấp, quầy văn phòng phẩm, quầy đồ da, quầy đồ cổ. Hành lang được che phủ bằng kính màu, và khi ngước mắt lên, người đi dạo tinh mắt có thể phát hiện ra cả đống những chi tiết trang trí theo phong cách Art deco, những mảnh sành sứ, những gờ mái, những ô kính ghép màu nhỏ. Anne cũng có thể ngắm nghía chúng nếu muốn, nhưng cô sẵn lòng thú nhận rằng cô thường uể oải vào buổi sáng. Và vào giờ này, những thứ trên cao, các chi tiết và các khoảng trần nhà là thứ cuối cùng mà cô muốn quan tâm. Trước hết, cô cần một cốc cà phê. Đen đặc. Bởi vì hôm nay, như một việc cố tình, Camille vẫn nằm ườn trên giường. Trong khi trái ngược với cô, ông thường tỉnh táo vào buổi sáng. Nhưng Anne không quá để tâm đến việc đó. Do vậy, trong lúc nhẹ nhàng đẩy lùi những mơn trớn của Camille - ông có đôi bàn tay rất ấm, không phải lúc nào cũng dễ dàng cưỡng lại, cô đã chuồn vào tắm vòi sen mà quên mất cốc cà phê rót ra trước đó, cô vừa quay trở vào bếp vừa lau khô tóc, và thấy cốc cà phê đã nguội ngắt, chộp vội một trong hai mắt kính áp tròng khi nó chỉ còn cách lỗ thoát nước trong chậu rửa vài milimét... Sau đó thì đến giờ, cô phải đi. Với cái bụng rỗng. Vừa đến hẻm thương mại Monier, quá mười giờ vài phút, cô liền ngồi vào hàng hiên của một quán giải khát nhỏ nằm ngay lối vào, và cô là khách hàng đầu tiên. Bình pha cà phê vẫn còn đang đun, cô phải chờ trước khi được phục vụ, và nếu cô có nhìn đồng hồ nhiều lần thì cũng không phải vì đang vội. Mà là vì anh chàng nhân viên phục vụ. Để tìm cách làm anh ta nản chí. Bởi vì không có việc gì đáng kể để làm trong lúc chờ cà phê được đun nóng, nên anh ta nhân cơ hội đó cố bắt chuyện với cô. Anh ta vừa lau các bàn xung quanh vừa lén nhìn cô qua khe cánh tay, và vờ như vô tình, xáp lại gần cô theo những đường tròn đồng tâm. Đó là một gã cao lớn, gầy gò, lẻo mép, có mái tóc vàng hoe bóng dầu, kiểu người mà ta thường gặp trong những khu du lịch. Khi lau xong vòng cuối cùng, anh ta đứng sững bên cạnh cô, một tay chống hông, cất tiếng thở dài đầy ngưỡng mộ trong lúc nhìn ra ngoài và nói thành tiếng những gì anh ta nghĩ về thời tiết ngày hôm đó, những suy nghĩ tầm thường đến thảm hại. Anh chàng nhân viên phục vụ này là một gã ngốc, nhưng anh ta có thị hiếu không tồi, bởi vì ở độ tuổi bốn mươi, Anne trông vẫn rất rạng rỡ. Mái tóc màu nâu tinh tế, đôi mắt đẹp màu xanh sáng, nụ cười khiến người ta ngây ngất... Quả là một người phụ nữ tỏa sáng. Lại còn có lúm đồng tiền. Với những cử chỉ chậm rãi, uyển chuyển, bạn sẽ không cưỡng nổi ý muốn được chạm vào cô, bởi vì ở cô, mọi thứ đều có vẻ tròn trĩnh và rắn chắc, đôi bầu vú, cặp mông, chiếc bụng thon nhỏ, cặp đùi, và thật ra tất cả đều rất tròn trĩnh và rắn chắc, theo một kiểu khiến người khác phát điên. Mỗi lần nghĩ đến chuyện đó, Camille đều tự hỏi cô làm gì với ông. Ông đã năm mươi tuổi, hơi hói, nhưng nhất là, nhất là, ông chỉ cao có một mét bốn mươi lăm. Để dễ hình dung, đó gần như là chiều cao của một thằng nhóc mười ba tuổi. Chẳng thà nói rõ ngay lập tức để mọi người khỏi phải đoán già đoán non: Anne không cao nhưng dù sao cũng hơn ông hai mươi hai xăng ti mét. Thế cũng là cao hơn ông gần một cái đầu rồi. Anne đáp lại những cử chỉ cầu thân của anh chàng nhân viên phục vụ bằng một nụ cười quyến rũ, rất biểu cảm: anh làm ơn biến đi cho (anh chàng ra hiệu là đã hiểu, một bài học cho anh ta mỗi khi muốn tỏ ra dễ mến), và ngay sau khi uống xong cốc cà phê, cô đi qua hẻm Monier để tiến về hướng phố Georges-Flandrin. Khi gần đến đầu kia hành lang, cô chợt thọc tay vào túi xách, hẳn là để lấy ví, và cảm thấy có thứ gì đó ẩm ướt. Các ngón tay cô dính đầy mực. Một cái bút đã bị chảy mực. Đối với Camille, nói đúng ra thì chính là vì cái bút này mà mọi chuyện bắt đầu. Hoặc vì việc Anne chọn đi theo lối hành lang này mà không phải là một hành lang khác, đúng vào sáng hôm đó chứ không phải một sáng khác, vân vân. Tổng thể của những sự trùng hợp cần thiết để một thảm họa xảy ra quả là điều khiến người ta phải bối rối. Nhưng cũng chính nhờ tất cả những sự trùng hợp đó mà đã có cái ngày Camille gặp được Anne, thế nên ta không thể lúc nào cũng than thở về mọi chuyện. Mời bạn đón đọc Hy Sinh của tác giả Pierre Lemaitre & Nguyễn Thị Tươi (dịch).
Ai Đó Dõi Theo Em
.. tại một nơi bạn thù không tài nào phân biệt. ... nơi sự thật trở thành thứ vũ khí khủng khiếp hơn hết thảy. ... nơi kết thúc lại chính là điểm khởi đầu... Micheal Valente, một tỷ phú đẹp trai, từng ngồi tù nhưng chưa bao giờ hết kiêu ngạo - một con mồi quyến rũ cứ lẩn tránh hoài cái lưới luôn giăng sẵn của giới cảnh sát, công tố viên liên bang Mỹ. Leigh Kendall, nữ diễn viên tài hoa xinh đẹp, huyền thoại sống của sân khấu Broadway, kẻ tình nghi số một trong vụ mất tích bí ẩn của người chồng thành đạt. Nhờ định mệnh, anh đã quen cô. Do định mệnh, anh đã nhường cơ hội tình yêu cho một kẻ hóa ra không hề xứng đáng. Anh đã tưởng, tình yêu của anh, chỉ cần là lặng lẽ đi sau một người, dõi theo từng bước chân của người ấy bằng cả trái tim. Cô vẫn nghĩ, hạnh phúc của cô, đơn giản là khi cô thất vọng, khi cô không đủ dũng khí tiến lên phía trước, thì chỉ cần ngoảnh đầu nhìn lại, sau lưng cô vẫn luôn có một người. Nhưng hóa ra, hạnh phúc không nằm ở sự hy sinh thầm lặng, tình yêu đích thực không thể thiếu đấu tranh. Chính là khi họ nhận ra rằng... NẾU THẬT SỰ YÊU, ĐỪNG BAO GIỜ TỪ BỎ *** Nhận định "Judith McNaught là một đẳng cấp riêng." - USA Today "Tác giả ăn khách bậc nhất New York Times đã khéo léo dệt nên một câu chuyện ly kỳ đắm chìm trong bầu không khí căng thẳng hồi hộp, đầy những nhân vật không thể quên và chằng chịt những mạch ngầm dữ dội của khát khao, tham vọng." - Amazon.com "Một câu chuyện tình yêu đích thực hòa trộn giữa sự hài hước, hồi hộp, bí ẩn và lãng mạn khôn cùng."- Regan *** JUDITH McNAUGHT (1944) được xem là một trong những tác giả được yêu thích nhất mọi thời đại với thể loại tiểu thuyết lãng mạn cổ điển. Trước khi bước vào sự nghiệp viết lách, McNaught đã thành công trong lĩnh vực phát thanh, điện ảnh và tài chính. Bà đã quyên góp và làm rất nhiều việc từ thiện. Judith McNaught hiện đang sống ở Houston, Texas. Tác phẩm: Hơn Cả Tuyệt Vời Như Cõi Thiên Đường 11 Năm chờ 11 Tuần yêu Ai Đó Dõi Theo Em Whitney Yêu Dấu Vương Quốc Của Những Giấc Mơ Em Có Để Ta Hôn Em Không? Hạnh Phúc Nhân Đôi Tender Triumph Trong Từng Hơi Thở Tiếng Sét Xanh Định Mệnh Yêu Em Cho Đến Hơi Thở Cuối Cùng Một Lần Và Mãi Mãi Điều Kỳ Diệu Remember When Thiên Đường ... *** Khi đoàn xe hộ tống rẽ vào Broadway thì trời đã nhập nhoạng, và O’Hara cho chiếc limousine chạy chậm lại. Khách bộ hành trên đường ngoái nhìn theo khi họ lướt qua, cố nhòm vào bên trong cánh cửa sổ tối màu của chiếc Mercedes dài. Từ ghế sau, Michael liếc ra ngoài cửa sổ, chờ dòng tên “Leigh Kendall” bật sáng trên mái rạp hát của Solomon. Đó là một thói quen của anh - chờ tên cô xuất hiện trên mái rạp hát. Anh vẫn làm thế nhiều năm rồi, cả vô thức lẫn chủ tâm, bất cứ khi nào anh có mặt ở Broadway. Lần nào cũng vậy, hễ nhìn thấy tên cô trên đó, trong lòng anh lại trào dâng nỗi hoài niệm, và ngay sau đó là ý thức về sự nghiệt ngã của số phận vì ngày xưa anh đã để lỡ cơ hội với cô. Nhưng số phận đã cho anh cơ hội thứ hai, Michael hân hoan thầm nghĩ, và lần này anh đã không bỏ lỡ, cũng không lãng phí thời gian. Ba tháng trước, Leigh còn là vợ của Logan Manning. Từ đó đến nay, Michael đã đưa cô từ một quả phụ trở thành một cô dâu - và trên đoạn đường đó là một điểm dừng dành cho thiên chức làm mẹ. Chỉ mới mười hai tuần trước, cô đứng trước mặt anh trong một buổi tiệc, mặc bộ váy đỏ và che giấu vẻ khinh thị đằng sau lớp mặt nạ lịch sự. Đêm nay, cô đang ngồi cạnh anh trong xe của anh, mặc bộ váy cưới lộng lẫy và nắm tay anh. Chưa đầy một tiếng đồng hồ nữa, cô sẽ đứng cạnh anh trước một vị thẩm phán tối cao và tự nguyện gắn kết cuộc đời cô với cuộc đời anh. Và sau bảy tháng rưỡi nữa, cô sẽ mang đến cho anh đứa con đầu lòng. Dĩ nhiên anh cũng được hỗ trợ bởi sức hút giữa hai người, một sức hút quá mạnh và quá trọng yếu đến nỗi ngay lập tức bừng tỉnh sau mười bốn năm ngủ yên. “Anh đang nghĩ gì vậy?” Leigh hỏi anh. “Cơ hội thứ hai,” anh mỉm cười nói, nhìn khuôn mặt đang ngước lên của cô. “Anh đang nghĩ về số phận và cơ hội thứ hai. Anh cũng đang nghĩ rằng nếu Solomon còn chưa sẵn sàng đợi chúng ta ở nhà hát, anh sẽ đích thân lôi anh ta vào trong xe bất kể anh ta đang mặc - hay không mặc gì - khi anh gặp anh ta.” Leigh bật cười trước lời dọa dẫm của anh và hất đầu ra ngoài cửa sổ xe. “Chúng ta sắp đến nơi, và em nhìn thấy Jason đang đứng trên vỉa hè rồi, nhưng có vẻ như anh ấy lại đang gặp rắc rối.” Michael nhìn ra cửa sổ và thấy tấm biển trên nhà hát của Solomon đang bật sáng dòng chữ BLIND SPOT, nhưng tên của Leigh thì tối thui. Solomon đang đứng trên vỉa hè trong bộ vest tuxedo, đầu ngửa ra sau nhìn về phía tấm biển, điện thoại di động áp sát tai. Eric Ingram đứng cách đó vài mét, cũng trong bộ vest tuxedo, nhìn lên tấm biển. Ở quầy bán vé, mọi người đang xếp hàng hy vọng vào giờ chót vẫn còn sót tấm vé xem kịch không có người nhận cho họ mua. “Tội nghiệp Jason,” Leigh giải thích, khẽ thở dài cảm thông. “Từ hôm công diễn đến nay anh ấy đã gặp không biết bao nhiêu phiền phức với vấn đề ánh sáng rồi.” Tâm trí Michael vẫn đang tập trung vào đám cưới, không phải tấm biển, vì vậy anh không nghe ra sắc thái dịu dàng khác thường trong giọng cô khi cô nói, “Chúng ta ra ngoài một phút được không? Nếu không, anh ấy sẽ đứng mãi ở đó mà bực bội với bản thân và la hét trên điện thoại với người phụ trách ánh sáng mất.” Anh gật đầu chịu thua, thích thú nhận ra với dân ca kịch, vấn đề ánh sáng rõ ràng được đặt trên mọi vấn đề khác, kể cả đám cưới sắp diễn ra. Hơi cao giọng lên, anh nói với O’Hara, “Dừng lại trước nhà hát nhé, càng gần vỉa hè càng tốt. Chúng tôi sẽ xuống xe. Solomon đang gặp vấn đề về ánh sáng.” “Anh đùa chắc!” O’Hara kêu lên, sửng sốt nhìn Michael qua kính chiếu hậu. “Hai người đang mặc quần áo cô dâu chú rể, còn tôi có bốn cảnh sát ngồi trên xe máy ở phía trước và bốn gã nữa ở đằng sau. Solomon không thể gọi thợ điện như người khác vẫn làm sao?” “Rõ là không,” Michael mỉa mai. .... Mời các bạn đón đọc Ai Đó Dõi Theo Em của tác giả Judith McNaught.
Velma (Từ Giã Cuộc Tình)
Thám tử Philip Marlowe là một cựu cảnh sát, người luôn nhúng mũi vào những chuyện được cảnh báo là nên tránh xa. Xuất hiện không đúng nơi, đúng lúc, Marlowe trở thành nhân chứng bất đắc dĩ của hai vụ giết người, bị cuốn vào vụ cướp nữ trang và một âm mưu tống tiền. Los Angeles một ngày ấm áp cuối tháng 3, trong một quán rượu ở Đại lộ Trung tâm, Marlowe vô tình trở thành nhân chứng bất đắc dĩ chứng kiến cảnh Malloy - một tên cướp nhà băng vừa mới ra tù giết người. Được cảnh sát nhờ kiếm tìm giúp tên tội phạm nguy hiểm, Marlowe tiếp tục bị cuốn vào vụ án cướp nữ trang và cái chết của Marriott – bạn của của phu nhân Grayle cũng là chủ nhân của chuỗi ngọc phỉ thúy bị cướp. Trong quá trình tìm kiếm tội phạm, Marlowe đã phát hiện ra Velma – cô ca sĩ tóc đỏ của quán rượu 8 năm về trước có thể là đầu mối và nút thắt duy nhất của vụ án? Nhưng phải làm thế nào khi cô gái ấy biến mất không dấu vết? Ai mới là chủ mưu thật sự sau tất cả? *** Raymond Chandler, là người đồng thời với Agatha Christie và Dashiell Hammett, hai đại diện lớn của tiểu thuyết trinh thám, có thể nói ông là người thứ ba có vị trí “ngang ngửa” so với hai tác giả này mặc dầu 45 tuổi mới được biết đến và tác phẩm để lại không nhiều như các đồng nghiệp khác.   Tên đầy đủ của ông là Raymond Thornton Chandler. Ông sinh ngày 23/7/1888 tại Chicago, bang Illinois. Năm 18 tuổi, ông sang Paris (Pháp), rồi sang Đức nghiên cứu ngôn ngữ và luật quốc tế. Mùa xuân năm 1907, ông nhập quốc tịch Anh. Trước khi trở thành một nhà văn chuyên nghiệp, Chandler làm đủ nghề: đầu tiên ông làm phóng viên cho tờ Tin nhanh hàng ngày ở London, rồi làm thơ, viết kịch ngắn, viết báo, dịch thuật cho các tạp chí. Năm 24 tuổi, ông về Hoa Kỳ, đi khắp Los Angeles làm những việc lặt vặt. 25 tuổi, qua một khóa học thủ thư, ông giữ chân thủ thư và kế toán cho một hãng bột sữa. Vào nửa cuối Thế chiến I (1917 – 1918), ông đăng lính trong lực lượng viễn chinh Canada, sang Pháp, rồi lại chuyển sang Không quân Hoàng gia. Sau khi giải ngũ, ông làm việc cho một ngân hàng Anh ở San Francisco. Ba năm sau, ông lại làm thủ thư và kiểm toán cho tập đoàn dầu mỏ Dabney, và nhanh chóng được thăng chức Phó chủ tịch. Thế nhưng 10 năm sau, ở tuổi 44, ông bị đuổi việc vì uống rượu và hay bỏ việc. Phải đến tuổi 45, sau khi công bố truyện trinh thám đầu tiên Vụ tống tiền không tiếng súng, ông mới chấm dứt giai đoạn lang thang làm đủ mọi nghề để chuyên tâm viết văn. Năm 31 tuổi, ông quan hệ với một người đàn bà đã có chồng, tên là Pearl Cecily Hurburt, và 5 năm sau, họ mới kết hôn. Lúc này Hurburt đã ở tuổi… 54, hơn ông 18 tuổi. Họ sống với nhau đúng 30 năm thì bà mất (1954). Các nhà viết tiểu sử Chandler sau này đều thừa nhận rằng cuộc đời ông còn rất nhiều khoảng trống bí ẩn, nhất là vì ông cứ nay đây mai đó, thay đổi chỗ ở liên tục. Hơn nữa, ông lại là người có hai quốc tịch, là dân Anh đến 49 năm, và chỉ ba năm trước khi mất (1956), ông mới trở lại quốc tịch Hoa Kỳ. Nhưng ai cũng thừa nhận rằng ông kiếm sống khá vất vả, nhất là trong những năm đầu trở thành nhà văn trinh thám chuyên nghiệp. Vì hai lý do: ông chưa bao giờ là một văn sĩ viết nhiều và thời gian đầu, khoảng năm sáu năm sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế, nhuận bút cũng rất thấp. Những hóa đơn, chứng từ thanh toán của ông còn sót lại, cho thấy năm 1936, ông kiếm được 1.500USD nhuận bút từ 5 truyện ngắn. Mời các bạn đón đọc Velma (Từ Giã Cuộc Tình) của tác giả Raymond Chandler.