Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đời Tư Mao Trạch Đông (Lý Chí Thỏa)

Không có một nhà độc tài nào trong lịch sử nhân loại có uy quyền lớn như vậy đối với quần chúng như Mao Trạch Đông. Không ai trong số những người cai trị trong quá khứ đã mang đến cho dân tộc mình nhiều sự đau khổ bần hàn cho nước Trung Quốc chia rẽ. Sự khát vọng uy quyền và mơ ước nắm giữ ngai vàng với bất kỳ giá nào đã buộc Mao phải cai trị đất nước trong sự thối nát cùng cực. Những ý tưởng điên rồ và hàng loạt mưu đồ đã đưa Trung Quốc tới vực thẳm. Hàng chục triệu người đã chết vì đói trong những năm chính sách đại nhảy vọt, và vì sự trả thù hàng loạt và hỗn loạn diễn ra trong thời kỳ Cách mạng văn hoá - đấy là kết quả của một thí nghiệm bệnh hoạn do một ông vua mới xuất hiện trên một đất nước vĩ đại có hàng nghìn năm lịch sử.

Sự thú nhận thẳng thắn của một con người từng sống bên cạnh Mao trong thời gian suốt hai mươi năm và nghiên cứu tận gốc rễ không những tổ chức mà còn thế giới bên trong người cầm lái vĩ đại, là độc nhất trong việc mô tả sinh hoạt của một trong số những bạo chúa của thế kỷ XX.

Những chi tiết trong cuốn Về cuộc sống của các Xê-da đã mô tả những ảnh hưởng thối nát của uy quyền tuyệt đối với khuyết tật, sự tham lam, khát máu và giết người man rợ. Tuy nhiên, khi tả lại cuộc sống của các tù trưởng bộ lạc, người Tây Tạng và bạo chúa Neron, tác giả chưa phải là một con người gần gũi với họ như bác sĩ Lý Chí Thỏa với bệnh nhân Mao Trạch Đông. Về tiểu sử Hit-le ông Speer biết chưa đày đủ về đế chế của mình, nhưng trong tiểu sử của lãnh tụ Nazi, chỉ giới hạn đến mặt chính trị và quân sự của Hitle. Con gái Stalin viết nhiều về bố mình, dù cô ta cũng gặp bố không nhiều. Nhật ký của bác sĩ riêng Napoleon và Hit-le chỉ thuần tuý là quan sát về y học. Hồi ký của Moran về Sớc sin, của Herndon về Lincon chỉ là về những sự kiện lịch sử mà ảnh hưởng của cá nhân đến quá trình lịch sử là không đáng kể. Cái gì liên quan tới triều đại Trung Hoa, thì theo truyền thống trong đó chỉ mô tả chuyện ma chay, chôn cất, bói toán, chiến tranh và các sự kiện đáng ghi nhớ của việc lên ngôi của hoàng đế. Trong tiểu thuyết cổ Trung Quốc Tam quốc diễn nghĩa mô tả sự chia rẽ Trung Hoa thành ba quốc gia thù địch Ngụy, Thục, Hán và về sự thống đất nước dưới sự che chở của triều đại Tần năm 280, người ta chỉ kể lại các cuộc chém giết, sát phạt và các thủ đoạn trong thời kỳ này.

Dưới sự soi sáng của các sự việc nguyên bản và sự mổ xẻ tâm lý Mao một cách sâu sắc đã làm cuốn sách của Lý Chí Thỏa là hiện tượng hiếm trong văn học.

Thật là khó hiểu rằng trong những năm 90 thậm chí người ta vẫn mô tả Mao Trạch Đông là một con người nhân hậu thông minh, và bất cứ sự chỉ trích nào nhắm vào ông ta lại gây sự phẫn nộ trong người Trung Quốc. Tất cả những ai có vinh dự gặp lãnh tụ không có thể quên được cuộc gặp đầu tiên khi đó Mao là lịch sự, khiêm tốn và nhân từ với người đối thoại và điều này tạo cho ông ta là người ngay thẳng. Tuy nhiên càng về sau Mao không giữ được đức tính như thế nữa, ông thường xuyên giận dữ, dọa dẫm và cai trị thuộc hạn trong sự sợ hãi triền miên. Mao chẳng khó khăn gì lôi kéo đám cận thần và tất cả nhân dân Trung Quốc. Và không còn nghi ngờ gì nữa trong trường hợp này, giúp ông ta chính học thuyết Khổng tử, học thuyết đó trong suốt nhiều thế kỷ đã ăn sâu trong tâm khảm dân thường Trung Quốc. Một trong năm điều răn dạy của Khổng giáo là lòng tin của thần dân vào kẻ thống trị dựa trên sự tín, nghĩa, trung quân, không chống lại vua. Vây quanh ông ta là những người dễ bảo, Mao dần dần bày ra trò tự phê bình để mà nghe từ họ bao lời ca tụng và thờ phụng ông ta. Mao bắt chước Tần Thuỷ Hoàng và khéo léo điều khiển đám người quanh ông. Tìm mua: Đời Tư Mao Trạch Đông TiKi Lazada Shopee

Bác sĩ Lý Chí Thỏa xuất thân từ một gia đình dòng dõi, thời trai trẻ đã được đào tạo trong một trường đại học ở Quý Châu, sau khi tốt nghiệp ngẫu nhiên tham gia tổ chức thanh niên chống cộng của Quốc dân đảng. Điều đó cho phép Mao bằng thủ đoạn hăm doạ lành nghề buộc Lý trở thành người đầy tớ tin cẩn của mình.

Dưới thời Mao, sự thối nát thịnh hành và ông ta cũng biết rõ điều này. Cái đó tạo cho Mao cai quản đám người của mình trong vòng cương tỏa. Ông thường xuyên nhắc đi nhắc lại rằng cá không thể sống thiếu nước, và ông rất thích bơi lội trong các hồ nước bẩn hoặc là ban đêm đi đến các nơi tối tăm của cánh đồng lúa. Tất cả những người quanh Mao đều bị cơ quan mật vụ theo dõi. Trong nhiều năm trời, nhiều người trong số chiến hữu của Mao đã bị nằm trong các trại cải tạo hoặc bị xử tử.

Trong những năm chiến tranh và cách mạng, Mao đã mất con, anh em và một người vợ, nhưng ông lại hoàn toàn thờ ơ trước những đau đớn của những người khác. Trong chính trị cũng như trong đời tư, ông không hề ngần ngại tiêu diệt những người mà ông coi là không có lợi đối với ông, và khi cần thiết thì ông lại nhẫn tâm kéo họ về phục vụ cho ông, nếu lúc ấy họ vẫn còn sống.

Bác sĩ Lý thường đặt Mao trong sử sách Trung Quốc. Vị lãnh tụ rất thích các tiểu sử đầy mưu mẹo ranh ma và xảo quyệt của các kẻ thống trị đời trước. Họ đã dạy Mao Chủ tịch cả về chiến thuật lẫn chiến lược đấu đá với kẻ thù của mình. Mao đã nổi bật về mưu mô xảo quyệt và một kịch sĩ. Thậm chí chiến hữu thân cận cũng không thể hiểu nổi Mao đồng ý với họ hay chuẩn bị giáng cho họ đòn bất ngờ.

Hình mẫu cuộc sống của Mao là sự kết hợp chủ nghĩa khổ hạnh và xa hoa, sự lười biếng đến lạ lùng và khả năng làm việc đặc biệt. Phần lớn thời gian Mao nằm trên giường hoặc trên trường kỷ trong bể bơi. Ông ta có thể cả ngày đi lại trần truồng, thích thức ăn béo ngậy, thay cho việc đánh răng, ông xúc miệng bằng nước chè và bồng bế lên giường những cô gái thôn dã chanh cốm.

Năm 1958, trong thời gian thăm tỉnh Hồ Nam, đi theo xe Mao là một chiếc xe tải chở đầy dưa hấu mà Mao ưa thích. Chủ tịch rất thích đi những đôi giày vải, và nếu phải xuất hiện trước một cuộc tiếp xúc ngoại giao thì ông chọn giày da, trước đó những cận vệ tin cậy buộc hoặc cởi giầy cho ông. Mao chẳng bao giờ thích tắm. Thay vì đó, các vệ sĩ lau mình ông ta bằng khăn mặt ướt, điều này - theo lời bác sĩ Lý - dễ tăng sự nguy hiểm lây lan chứng bệnh giang mai trong số nhiều tỳ thiếp của lãnh tụ. Mao chỉ ngủ trên chiếc giường gỗ lớn, không bao giờ được rời ông. Ông mang theo nó trong các chuyến đi riêng của mình, mang nó theo ra dinh thự ngoại ô. Chiếc giường thậm chí còn đi theo ông trên máy bay trong chuyến đi tới Moskva.

Chủ tịch là thời gian quyền lực và là một cuốn lịch. Toàn bộ dinh thự làm việc và sống trong một nhịp điệu của chủ nhân, hoạt động chính của nó bắt đầu theo thường lệ vào lúc nửa đêm. Mao có thể gọi người phục vụ vào lúc hai, ba giờ đêm. Ông rất thích chu du đất nước, vì thế các cuộc gặp gỡ với giới lãnh đạo cao cấp và cuộc họp Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc có thể diễn ra ở hang cùng ngõ hẻm của Trung Quốc. Trong số Luận văn đạo Lão cổ ông biết rõ là con đường dẫn tới tới sự bất tử nằm ở quan hệ tình dục và say sưa đắm mình trong trác táng tình dục hoan lạc với vô số các cô gái trẻ đẹp.

Trong những ngày lễ chính thức ông chỉ công nhận kỷ niệm ngày quốc tế lao động 1-5 và ngày thành lập cộng hoà nhân dân Trung Hoa và cũng chỉ mời khách nước ngoài cao cấp. Trong những ngày này ông ăn mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn

Các phụ nữ chỉ được phục vụ ông một trong số các món ăn kiểm tra cẩn thận. Cuộc sống tình dục của ông phải chăng không rõ có phải trên cơ sở chăm sóc kiểu vua chúa hay không. Bên cạnh phòng rộng lớn cho hội nghị hiệp thương toàn quốc là một phòng đặc biệt dành riêng cho lãnh tụ để trong thời gian hội thảo mệt nhọc ông được xả hơi bằng tình dục. Các quan chức quân đội và đảng, những người luôn giữ nghiêm ngặt đạo đức xã hội đã kiếm cho Mao các cô trinh nữ duyên dáng xuất thân từ thành phần vô sản và nông dân.

Mao rất thích khiêu vũ, và thường tổ chức vũ hội, để sau đó các bạn nhảy của ông được vinh dự vui vầy với lãnh tụ trên giường. Những cô gái thạo ngón có quyền dẫn em gái trẻ của mình tới phòng Mao.

Mỗi bí thư đảng ở các địa phương đều xây cho Mao một vi-la tráng lệ. Mao không thích ngồi một chỗ và thường xuyên du ngoại trên đoàn tàu riêng. Mọi đoàn tầu trên đường đi của lãnh tụ đều bị ngừng lại, tại các ga mà tàu đi qua, công an canh chừng hành khách và dân buôn thúng bán mẹt.

Trong những năm đại nhảy vọt người ta bắt nông dân trồng lúa dọc theo đường tầu để lãnh tụ từ trong toa nhìn ra tận mắt có thể nhìn thấy vụ mùa bội thu, mặc dù nó chính nó rất tồi.

Mao rất thích ra ngoài dạo chơi ở vi-la của mình xây ở đảo nằm trên sông Châu Giang gần Quảng Châu. Thức ăn của lãnh tụ được trồng ở những trại đặc biệt cách Bắc Kinh không xa và được kiểm tra bằng những chuyên gia lành nghề. Trong những ngày nóng nực, căn hộ của Mao được làm lạnh bằng những chậu nước đá.

Quyền lực tuyệt đối đã ảnh hưởng tới thể lực và tinh thần của nhà độc tài và cướp đi sở thích đơn giản của ông là giao tiếp. Có lúc hàng tháng ông không rời khỏi giường, mặt tỏ ra lo âu mơ hồ. Tuy nhiên khi xảy ra biến cố chính trị nghiêm trọng thì ông tỏ ra hoạt bát lên, lấy đi sự thanh thản và thậm chí không ngủ nữa. Trong thời kỳ ấy cho lãnh tụ dùng lượng lớn thuốc ngủ barbiturat.

Căng thẳng chính trường thời gian ấy đã không làm yếu khả năng tình dục của Mao và đôi khi ngược lại còn tăng lên. Khi mà trong những năm đại nhảy vọt hàng chục triệu người chết đói, Chủ tịch để chuộc lỗi trước đảng, tạm thời ngừng ăn thịt, nhưng đàn bà thì ông không bỏ. Một trong số những thứ như thế đã mở mắt bác sĩ Lý là người cầm lái thực là vĩ đại về mọi phương diện, bao gồm thậm chí cả tình dục.

Chính sách nhà độc tài phụ thuộc vào tính cách cá nhân của ông. Trong thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội Trung Quốc duy nhất Mao đã tạo ra một đất nước nghèo khổ, lạc hậu dở sống dở chết chẳng giống với ai cả, lề lối quản lý kinh tế xã hội khác thường. Đối mặt với sự thù địch của phương Tây, Mao bắt đầu chơi với Moskva. Dù thế các thành tựu khoa học kỹ thuật của Mỹ và Châu Âu luôn luôn làm Mao ngưỡng mộ. Có thể là chính vì vậy Mao chọn Lý làm bác sĩ riêng. Trong đó lãnh tụ Trung Quốc muốn tìm thấy những người đối thoại thông minh và có học, đặc biệt hiểu được tiềm năng của mức kinh tế và kỹ thuật của các nước phương Tây phát triển. Khi trao đổi với Lý, Chủ tịch nhiều lần nhấn mạnh rằng quan hệ của Mỹ với Trung Quốc luôn luôn thiện chí, trong khi Liên Xô gọi cộng hoà nhân dân Trung Hoa là người em trai của mình và xem đó là đất nước vĩ đại có triển vọng. Mao có xu hướng khắc phục những yếu kém của mô hình xô-viết nguyên thuỷ của chủ nghĩa xã hội và xây dựng ở Trung Quốc chủ nghĩa xã hội kiểu mới, đưa đất nước đến mức các nước văn minh trên thế giới. Ông cho rằng nhờ đó có thể trở thành kinh điển chủ nghĩa Mác-Lê Nin và đóng góp nhiều bài học bởi sự sáng tạo nguyên bản mới.

Một trong những ý tưởng hiệu quả là chính sách đại nhảy vọt, và để cứu nó phải quay sang Cách mạng văn hoá.

Theo Mao, phát triển kinh tế của đất nước có thể chỉ đạt được bằng chủ nghĩa nhiệt thành của quần chúng. Mao Trạch Đông tin thành tâm vào hiện thực thực hiện kế hoạch lớn lao của mình. Điều này không khó vì chính lãnh tụ từng sống trong vùng cộng sản. Vào thời kỳ khi mà nhân dân Trung Quốc đói, lãnh tụ vẫn ngoan cố khẳng định về sự giàu có của đất nước, mà các nhà lãnh đạo đảng đã thông báo cho ông ta. Đảng kiểm soát kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và mọi cuộc sống của nhân dân…

Đảng lãnh đạo đã bác bỏ cách đi tiếp của lãnh tụ theo ý tưởng điên rồ để đẩy mạnh đất nước. Khi đó Mao ngừng lại, để chấp hành quyết định của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên lúc đó có cuộc đấu tranh dữ dội trong nội bộ, Mao ngoan ngoãn nghe lời đa số.

Giải quyết vấn đề cơ bản của đất nước là một nhóm ủy viên Ban chấp hành trung ương gồm 30-40 người. ảnh hưởng của họ đến ý kiến đa số trong lãnh đảng cộng sản Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào quan hệ qua lại với Mao Trạch Đông.

Trong cuốn sách của mình, bác sĩ Lý mô tả tỷ mỷ cấu trúc hệ thống chính trị của Trung Quốc bao gồm những người sáng lập và các cơ quan thuộc Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc: bộ máy thư ký, bộ máy an ninh, bệnh viện, giao thông, cung ứng và những cái khác.

Đối với giới chức cao cấp của đảng, người ta xây các thành phố ngầm, để các nhà lãnh đạo có thể chạy một cách dễ dàng từ nhà họ ra tới bất cứ điểm nào của Bắc Kinh.

Giống nhiều nhà thống trị, Mao không có bạn thực sự và chiến hữu tin cậy. Vây quanh ông là cả một đội ngũ thuộc hạ ngoan ngoãn, những thư ký… và những vệ sĩ lực lưỡng. Dù rằng có bộ sậu đông như thế, Mao vẫn cảm thấy đơn độc.

Tại đại hội VIII đảng cộng sản Trung Quốc năm 1956, nhân báo cáo Khơ-rút-sốp về tệ sùng bái cá nhân Stalin, người ta đã cố gắng hạ uy thế Mao Trạch Đông. Mao thẳng thừng chống lại vì ông hiểu quá rõ rằng làm thế ông sẽ mất ngai vàng mà ông giành được từ ngày cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời.

Nhiều năm trôi qua, hàng triệu sinh mạng bị thiệt hại.

Nhiều người trong số chiến hữu người cầm lái vĩ đại đã chết trong các trong trại cải tạo và nhà tù, còn dân chúng như trước đây vẫn ca tụng lãnh tụ trong các cuộc mit tinh hàng ngàn người giơ cao những bìa đỏ trích dẫn lời thần tượng của mình.

Trong số những người trước đây còn nắm chức vụ cao chỉ còn Lâm Bưu, từ 1969 chính thức trở thành trợ thủ duy nhất và người kế tục của Chủ tịch Mao.

Năm 1971 Lâm Bưu bị buộc tội đảo chính phản cách mạng và mưu sát Mao. Sau khi bại lộ, Lâm Bưu cùng vợ và con bay sang Liên Xô. Nhưng máy bay của ông bị rớt trên vùng đất Mông cổ mà cho đến nay không rõ nguyên nhân.

Sự phản bội và cái chết của Lâm Bưu đã giáng Mao một đòn nặng tới mức từ thời điểm đó bác sĩ Lý đã nhận thấy sự giảm đột ngột sức khỏe của Chủ tịch.

Trong những năm cuối đời, Mao Trạch Đông cố gắng dàn xếp quan hệ với phương Tây. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi việc tiến hành cải cách kinh tế do Đặng Tiểu Bình khởi xướng.

Sau khi Mao chết năm 1976, bác sĩ Lý bị đe dọa tính mạng - người ta có thể buộc tội ông giết lãnh tụ. Nhưng rất may mắn, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc biện hộ cho ông. Dù vậy, không tin vào sự ổn định trong nước, Lý Chí Thỏa di cư sang Hoa kỳ. Sau đó tên của bác sĩ riêng của Mao đã bị xoá bỏ khỏi lịch sử chính thức của cộng hoà nhân dân Trung Hoa.

Năm năm sau cái chết của Mao, Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc ra quyết định trong đó Mao được phong là nhà cách mạng vĩ đại đóng góp vào sự phát triển của Trung Hoa và giảm lỗi của Mao đi đáng kể. Trong cuốn sách này chứng minh ngược lại. Tác giả vững tin chứng minh rằng sự kết hợp quyền lực tuyệt đối với ý tưởng phiêu lưu chỉ đẻ ra tội ác vĩ đại. Không có một cuốn sách nào về tiểu sử người cầm lái vĩ đại lại tỷ mỷ và khách quan như hồi ký của Lý Chí Thỏa.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đời Tư Mao Trạch Đông PDF của tác giả Lý Chí Thỏa nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Cô Gái Đồng Trinh và Chàng Du Tử - D. H. Lawrence
Cô gái đồng trinh và chàng du tử là một tiểu thuyết ngắn rực rỡ, mãnh liệt. Nó thức tỉnh niềm đam mê, tình yêu và tự do. Ðó là cuộc thức tỉnh của nàng Yvette. Nàng sống trong nhà đạo của người cha mục sư. Nhưng đời sống thì ở bên ngoài. Mà đời sống thì khác, “tựa như một mặt trời quay nhanh và nguy hiểm” Một khát vọng thoát ly. Một cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa nàng và chàng du mục. Rồi cơn lũ ập đến. Ðến từ dòng sông. Ðến từ đời sống. Ðến từ tâm hồn nàng. Cơn lũ có sức mạnh hủy diệt. Cuốn phăng tòa nhà đạo. Nàng đối mặt với Nước, với Ðời, với Du Tử. Yvette ơi, nàng hãy sống! ***   David Herbert Lawrence (1885-1930) là một trong vài biểu tượng có ý nghĩa nhất trong văn học thế kỷ hai mươi. Ông đem đến cho văn học Anh và thế giới một cái nhìn mới về bản năng, thân xác và tình yêu, kể cả một cái nhìn mới về tiểu thuyết. Con trai và Người tình, Công Chúa, Cầu vồng, Người đàn bà đang yêu, Con rắn có lông, Người tình của phu nhân Chatterley Ông cũng viết nhiều truyện ngắn độc đáo, làm thơ và vẽ tranh. Lawrence nhìn tiểu thuyết như thế này“Tiểu thuyết là một khám phá vĩ đại… Tiểu thuyết là hình thức biểu hiện cao nhất mà con người có thể đạt tới. Tại sao? Bởi vì nó không thể tuyệt đối. Trong tiểu thuyết, mọi điều thì tương đối đối với mọi điều khác, nếu như tiểu thuyết đó ít ra là nghệ thuật. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Đồng Trinh và Chàng Du Tử của tác giả D. H. Lawrence.
Dịch Hạch - Albert Camus
Anbe Camuy (bút danh: Albert Camus - 1913 - 1960) là một trong những tên tuổi nổi bật trên văn đàn Pháp trong những thập kỷ giữa và sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tác phẩm của Camuy - tiểu thuyết, kịch, truyện ngắn, tùy bút và tiểu luận - gây nên những cuộc tranh luận sôi nổi ở Pháp và nhiều nước trên thế giới. Camuy được giải thưởng Noben về văn học năm 1957 vì sáng tác văn học của ông đã “đưa ra ánh sáng những vấn đề đặt ra cho lương tâm loài người ở thời đại chúng ta”. Trong số những tác phẩm của ông, cuốn tiểu thuyết “Dịch Hạch” (La Peste) được đánh giá cao hơn cả. Nội dung tác phẩm là nạn dịch hạch và cuộc chiến đấu thầm lặng, cực kỳ gian khổ để dập tắt nạn dịch, cứu sống thành phố Orăng trên bờ biển Angiêri. Thành phố đang sống thanh bình thì bỗng những con chuột lăn ra chết ở khắp nơi. Rồi đến một người, hai người, hàng chục, hàng trăm người bị chết. Orăng biến thành một địa ngục khủng khiếp, quằn quại trong nguy cơ bị diệt vong như bao thành phố trước kia ở châu Âu, châu Á, châu Phi. Giữa cái không khí chết chóc bi thảm ấy và bất chấp hiểm họa bị lây nhiễm, bác sĩ Riơ - nhân vật chính diện và trung tâm quán xuyến toàn bộ tác phẩm - cùng đồng nghiệp và bạn bè lao vào cuộc chiến đấu để cứu vớt nhân dân thành phố. Theo ông, chỉ có cách là dấn mình vào cuộc, cầm lấy vũ khí để đấu tranh, ngăn chặn, vì… “nếu không điên thì cũng mù, không mù thì cũng hèn nhát mới cam chịu buông tay trước dịch hạch”. Thái độ ông thật rõ ràng. Ông khẳng định khi có người bệnh thì cấp bách hơn hết là chữa bệnh cho họ. “Sức lực tôi đến đâu thì tôi bảo vệ họ đến đó…”. Và chính trong lúc vợ ông ốm đau đang đi điều dưỡng ở xa - và sau này chết mà ông không được gặp, - ông tổ chức việc cứu chữa những người bị dịch hạch và tự bản thân mình, tự hai bàn tay mình, làm phẫu thuật cho biết bao người bệnh. Để cứu sống họ, ông không tiếc công sức, hạnh phúc và cả tính mệnh. Lời nói và việc làm của Riơ thuyết phục và thu phục nhiều người khác. Trong đó đáng lưu ý hơn cả là nhà báo Rămbe và linh mục Panơlu. Rămbe đến Orăng với nhiệm vụ điều tra về đời sống của người Arập cho một tờ báo lớn ở Pari. Thế là anh bị mắc kẹt từ khi có lệnh đóng cửa thành phố vì dịch hạch. Anh làm mọi cuộc vận động để ra khỏi thành phố, trở về với người yêu đang ngày đêm mong ngóng. Nhưng đến khi có người thu xếp để anh ra về thì anh tình nguyện ở lại và trực tiếp tham gia cứu chữa người bệnh. Trở về với người thân là niềm hạnh phúc chính đáng, nhưng anh khước từ, vì như anh nói với Riơ: “Hưởng hạnh phúc lấy một mình thì thật đáng hổ thẹn”. Đặc biệt hơn nữa là trường hợp Panơlu. Giữa lúc dịch bệnh đang hoành hành, gieo rắc chết chóc và đau thương, thì Panơlu giảng cho con chiên phải yên lòng đón nhận lấy “sự trừng phạt” và “cơn giận” bất thần của Chúa để chóng được trở về với Chúa. Nhưng tấm gương hy sinh, tận tụy của Riơ, của Rămbe và của những người khác đã cảm hóa ông, nhất là sau khi ông chứng kiến cái chết thảm thương của một đứa trẻ bị dịch hạch. Trong một buổi cầu kinh thứ hai, khi nói với các tín đồ, ông dùng đại từ xưng hô “chúng ta” thay thế cho “các con” trước kia và nắm tay lại đấm mạnh vào mặt bàn, thiết tha kêu gọi: “Hỡi những người anh em, chúng ta phải là những người ở lại!”. Bản thân ông cũng tự nguyện xung vào đội cứu chữa, cuối cùng lây bệnh và chết. Cùng với Riơ, nổi bật trong tác phẩm là hình tượng Taru, một trí thức căm ghét xã hội, căm ghét bạo lực tư sản với những bản án tử hình ngàn lần đáng nguyền rủa. Là con trai một phó tổng chưởng lý, - người quyết hướng con đi theo sự nghiệp của mình - Taru đã bỏ nhà và từ giã cuộc sống nhung lụa của một gia đình quyền quý ra đi sau khi nghe những lời buộc tội độc ác của cha anh và chứng kiến tòa án kết tội tử hình bị cáo. Anh lưu lạc ở nhiều nước, tham gia nhiều cuộc chiến đấu. Trước nạn dịch hạch hoành hành, anh sốt sắng tự nguyện tổ chức những đội y tế, cùng với Riơ lao vào cuộc chiến đấu một mất một còn với vi trùng dịch bệnh. Mục đích của anh, tâm niệm của anh là sống vì con người, cho con người. Anh cho xã hội anh đang sống là một xã hội “dựa trên sự kết án tử tình”, và chiến đấu chống lại xã hội ấy, anh “chiến đấu chống lại sự giết người”. *** DỊCH HẠCH là một cuốn tiểu thuyết biểu tượng. Thông qua hình tượng nhân vật, hành vi và nhất là tâm tư cùng ngôn ngữ của họ, người đọc dễ dàng cảm nhận chiều sâu tác phẩm và ý định tác giả là phủ định chiến tranh và bạo lực, khẳng định ý chí chiến đấu chống tai họa đe dọa cuộc sống con người. Tác giả xây dựng một loạt nhân vật tích cực tuy đường đi nước bước có khác nhau nhưng cuối cùng đều tự nguyện xông vào trận tuyến chiến đấu chống dịch hạch, đem lại cuộc sống yên lành cho con người, trả lại hòa bình cho xã hội. Trong lúc một số người cho là làm gì cũng vô ích, chỉ nên quỳ gối cầu xin Thượng đế, thì Riơ, Taru và bè bạn đều khẳng định là phải chiến đấu bằng cách này hay cách khác, chứ không quỳ gối: “Toàn bộ vấn đề là ra sức ngăn cản không để người ta chết và vĩnh viễn xa nhau. Muốn vậy, chỉ có một cách duy nhất là chống lại dịch hạch”. Tinh thần cảnh giác toát ra từ tác phẩm cũng đầy ý nghĩa. Giữa tiếng nói cười hân hoan, rộn ràng của những người thoát dịch bênh, bác sĩ Riơ vẫn nghĩ đám người đang hò reo đó không biết rằng “vi trùng dịch hạch không bao giờ chết và mất hẳn. Nó có thể nằm yên hàng chục năm trong đồ đạc, áo quần, chăn chiếu…; nó kiên nhẫn đợi chờ trong các căn buồng, dưới hầm nhà, trong hòm xiểng… và một ngày nào đó, để gây tai họa và dạy cho họ bài học, dịch hạch có thể đánh thức đàn chuột của nó dậy và bắt chúng chạy đến lăn ra chết ở một đô thành nào đó đang sống trong hạnh phúc và phồn vinh. Tác giả mượn lời kể của bác sĩ Riơ để “tỏ rõ thiện chí” của mình “đối với các nạn nhân dịch hạch, để ghi lại ít nhất là một dấu vết của bất công và bạo lực, và nói lên cái bài học rút ra được giữa lúc gặp tai hoạ là trong loài người có nhiều điều đáng khâm phục hơn là cái đáng khinh ghét”. Rõ ràng nhân vật trung tâm của tác phẩm - bác sĩ Riơ - tượng trưng cho những con người kháng chiến, những con người hành động. Riơ mang hơi hướng của những năm kháng chiến chống phát xít Đức mà chính Anbe Camuy đã tích cực tham gia. Và tác giả đã thành công trong việc xây dưng nhân vật này để thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm: chiến đấu chống tội ác, chống khủng bố, chống chết chóc vì hạnh phúc và cuộc sống hòa bình của con người. Mời các bạn đón đọc Dịch Hạch của tác giả Albert Camus.
Báo Ứng - Philip Roth
Một tiểu thuyết về sự đau thương và mạnh mẽ. Như cách ta phản ứng lại cuộc đời này: một là gục ngã, và một là tạo ra giá trị của chính mình. *** Dựng lên một biểu tượng anh hùng rồi lạnh lùng kéo sập nó ngay trước mắt độc giả chính xác là điều mà Philip Roth đã làm trong cuốn tiểu thuyết "Báo ứng" - cuốn tiểu thuyết cuối cùng trong văn nghiệp của ông, Roth muốn bạn đọc có thể chiêm nghiệm thông điệp sâu sắc: không phải thành công tạo nên giá trị con người mà chính những lựa chọn của anh ta sẽ tạo nên điều đó. Ông đưa chúng ta quay về mùa hè oi ả năm 1944, tại thành phố Newark thuộc tiểu bang Illinois - nước Mỹ chính nơi đây ông đã khắc hoạ nên hình tượng Bucky Cantor - một giáo viên dạy thể dục, được biết đến như một siêu nhân tốt bụng, chính trực luôn sống có trách nhiệm, anh chính là tượng đài trong lòng của những cô cậu học trò bé nhỏ. "Chạy đà cùng cây lao giơ trên cao, cánh tay cầm lao đưa sâu ra đằng sau, rồi vung mạnh ra phía trước và buông cho ngọn lao bay đi tạo nên một đòn tấn công sấm sét - trong mắt chúng tôi thầy dường như bất khả chiến bại." Rồi "cơn ác mộng" mang tên sốt bại liệt ập đến, nó đã cướp đi khả năng vận động và sinh mạng của những đứa học trò anh yêu thương. Thế rồi tác giả đã thổi bùng lên trong anh nỗi đau thương mất mát, sự sợ hãi đến tuyệt vọng và đặt anh trước sự "đánh đổi" lớn nhất của cuộc đời. Vậy mà, đứng trước cuộc chiến thật sự của cuộc đời mình anh lại trở nên yếu đuối, anh đã không đủ mạnh mẽ để bảo vệ những điều tốt đẹp trong con người mình. Bằng những giá trị tốt đẹp mà anh được dạy để trở thành anh đã đấu tranh tư tưởng rất dữ dội, vậy mà cuối cùng anh lại thua cuộc, thua chính mình, thua thê thảm. Bucky đã từng rất thất vọng về bản thân và ghen tỵ với hai người bạn thân vì họ được ra chiến trường chiến đấu như những người hùng còn anh bị loại chỉ bởi thị lực kém, vậy mà giờ đây anh đã chọn trở thành kẻ "đào ngũ" ngay trên "chiến trường" riêng của cuộc đời mình. Anh bỏ đi vì không muốn đối mặt với những đứa trẻ anh yêu thương đang bị bại liệt tàn phá, anh sợ hãi căn bệnh sẽ huỷ hoại tương lại tươi đẹp của chính anh, nhưng Bucky đâu ngờ chính quyết định này sẽ là mồ chôn số phận con người chính trực và sống đầy trách nhiệm - con người mà anh đã từng là. Cuộc đời luôn cho chúng ta nhiều hơn một cơ hội nhưng hết lần này đến lần khác anh đã từ chối chiến đấu để tạo dựng lại giá trị cho bản thân. Tự hỏi rằng con người ta phải tỉnh táo và mạnh mẽ đến mức nào mới có thể đứng vững trước những bóng ma cám dỗ của số phận..? Tôi thật sự cảm thấy đau lòng và tiếc nuối cho Bucky. Anh sụp đổ, anh bắt đầu đổ lỗi cho Chúa trời, cho chính mình, anh không nhận ra rằng chỉ trong những thử thách nghiệt ngã nhất của số phận, những con người thật sự cao quý và mạnh mẽ mới được sinh ra. Có lẽ ai trong chúng ta cũng phải ít nhất một lần trong đời đứng trước những khúc quanh số phận như thế. Hãy luôn tỉnh táo, mạnh mẽ và hãy sống chính trực có trách nhiệm. Hãy can đảm trước khó khăn của mình và tử tế khi người khác gặp hoạn nạn. Chỉ con đường đó mới hiển lộ chân giá trị đẹp đẽ trong mỗi chúng ta. *** Philip Milton Roth sinh năm 1933 tại thành phố Newark, bang New Jersey, Mỹ trong một gia đình Do Thái nhập cư. ông tốt nghiệp ngành Ngữ văn tại Đại học Bucknell, sau đó học cao học Văn chương Anh tại Đại học Chicago. Roth dạy sáng tác tại Đại học Iowa và Princeton, dạy văn học so sánh tại Đại học Pennsylvania cho tới khi về hưu vào năm 1992. Philip Roth là nhà văn đương đại lớn của Mỹ với hai lần được tặng giải thưởng Sách Toàn Quốc (National Book Award), giải thưởng của giới phê bình sách toàn quốc (National Book Critics Circle Award) và ba lần đạt được giải thưởng PEN/Faulkner. Năm 2005, tiểu thuyết "The Plot Against America" (Âm mưu chống lại nước Mỹ) của ông nhận được giải của Hiệp hội Sử gia Hoa Kỳ (Society of American Historians) vì tác phẩm này "là cuốn tiểu thuyết lịch sử xuất chúng viết về đề tài nước Mỹ trong những năm 2003 - 2004." Ông cũng giành được hai giải thưởng cao quý nhất thuộc hệ thống giải Văn học PEN (PEN Literary Award): PEN/Nabokov và PEN/Bellow. Philip Roth là tiểu thuyết gia người Mỹ duy nhất ngay từ khi còn sống đã được thư viện Hoa Kỳ (Library of America) phát hành toàn tập tác phẩm. Tập cuối cùng - tập thứ chín được lên kế hoạch phát hành trong năm 2013. Mời các bạn đón đọc Báo Ứng của tác giả Philip Roth.
Thời Khắc - Michael Cunningham
Thời khắc (The hours) là cuốn tiểu thuyết đoạt giải Pulitzer của nhà văn Michael Cunningham từng được chuyển thể thành phim và là bộ phim xuất sắc nhất của năm 2002 với các giải thưởng: Oscar - 2002 dành cho nữ diễn viên chính; Quả Cầu Vàng - 2002 dành cho Phim tâm lý xuất sắc nhất, Nữ diễn viên chính trong phim bi xuất sắc nhất... lần đầu tiên được xuất bản tại Việt Nam. Tác phẩm liên kết số phận của ba người phụ nữ ở ba thời đại khác nhau. Mảng chuyện thứ nhất diễn ra năm 1929, ở thị trấn Richmond nước Anh, Virginia Woolf - một nữ nhà văn người Anh đang cố gắng bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết Mrs Dalloway. Mảng thứ 2 là năm 1951, ở California, Laura Brown - một người vợ hiền đang chuẩn bị chiếc bánh cho sinh nhật chồng. Trong khi chuẩn bị, tâm trí cô không khỏi bị phân tán bởi những điều cô đọc trong cuốn truyện Mrs Dalloway. Mảng cuối cùng là thời hiện đại ngày nay ở New York. Clarissa Vaughan - một phụ nữ tuổi ngũ tuần chuẩn bị bữa tiệc mừng cho giải thưởng người bạn - nhà thơ Richard - nhận được. Bà phân vân tình cảm mình dành cho Richard và người bạn gái đang chung sống cùng là Sally Lester. Mỗi người phụ nữ đã phải trải qua những khổ đau, suy sụp và có cả những giây phút hạnh phúc để nhận rõ giá trị từng khoảnh khắc trong cuộc đời họ. *** Tác giả: Michael Cunningham, một tiểu thuyết gia đương đại khá nổi tiếng tại nước Mỹ cũng như trên toàn thế giới, ở đâu ông cũng được tôn vinh như là một trong những nhà văn có tài năng kiệt xuất nhất trong số những người cùng thế hệ. Tác phẩm “The hours” của ông đã vẽ nên một bức tranh rất sáng tạo về cuộc đời cũng như về công việc của Virginia Woolf, một nữ nhà văn người Anh và để kể ra một câu chuyện về một nhóm các nhân vật đương thời đã phải vật lộn với sự khẳng định đầy xung đột về tình yêu, sự kế thừa, sự hy vọng và cả nỗi thất vọng. Những lời kể về những ngày cuối cùng của nữ nhà văn V.Woolf trước ngày bà tự tìm đến cái chết trong giai đoạn đầu tiên của cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai là khúc đối âm với những câu chuyện giả tưởng về Samuel, một nhà thơ Mỹ nổi tiếng, người đã có một cuộc đời bất hạnh bị phủ bóng dưới tài năng của chính ông với ký ức về một người mẹ đầy tai tiếng, và người bạn đời chung thủy của ông ấy, Clarissa, người đã cố gắng đến phi thường để giành lại một cuộc đời thỏa mãn và cân bằng giữa tiếng gọi của tình bạn, tình yêu và gia đình. Trong tác phẩm này, với lối hành văn sâu lắng, khúc triết và sự sáng tạo tuyệt vời, M. Cunningham đưa người đọc vượt qua tất cả sự chia cách của thời gian và không gian để đi đến những tình tiết chung nhất, đi đến cách lý giải logic nhất về chuỗi suy nghĩ của từng nhân vật. Không quá xa đà vào lối mô tả tình cảm ủy mị đơn thuần, không quá lạm dụng sự phê phán để làm nổi bật lên tính cách của từng nhân vật, M.Cunningham đã để cho những nhân vật của mình tự trò truyện và tranh luận với độc giả. Cách chơi chữ rất điều luyện và cách sử dụng ngôn từ gần như hoàn hảo đã dẫn dắt người đọc đi từ đầu đến cuối câu chuyện mà không hề phát hiện ra rằng ta đã bỏ quên khái niệm về không gian và thời gian. Điều kỳ diệu nhất trong cuốn sách này chính là thể hiện cá tính của từng nhân vật được kết hợp nhuần nhuyễn với những tình tiết liên quan đến những ngữ cảnh rất bình dị nhưng sâu sắc. Mỗi cuộc đời, mỗi con người trong tác phẩm này đều gắn chặt với cách suy luận, cách thể hiện những suy luận đó trên thực tại và hơn tất cả là chúng cùng hòa nhịp với nhau để tạo nên những tình huống đầy kịch tính nhưng cũng rất bình dị. Mời các bạn đón đọc Thời Khắc của tác giả Michael Cunningham.