Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người Đan Chữ Xếp Thuyền - Miura Shion

Đó là một góc nhỏ giữalòng Tokyo, bị bỏ quên giữa sự nhộn nhịp của một trong những đô thị sầm uất và hiện đại bậc nhất. Góc nhỏ ấy là thế giới của cậu chàng Majime vụng về nhút nhát, của cô gái Kaguya hay chàng Nijime đào hoa phóng túng… Một thế giới nhỏ với con số xác định những địa danh quen thuộc, những sự việc lặp đi lặp lại như một vòng bất biến, và những cuộc đời mà ngày qua ngày ta càng thêm thấu hiểu. Majime là một anh nhân viên phòng kinh doanh của một công ty sách nọ. Anh chàng lập dị cao lênh khênh, mái trên đầu lúc nào cũng rối tung về các hướng, kính cận màu xanh lá cây mà điệu bộ lúc nào cũng như đang phiêu diêu ở một chân trời khác. Giữa phòng kinh doanh, Majime là chàng người ngoài hành tinh dị biệt, và anh chàng vẫn sẽ tiếp tục đóng vai kẻ lập dị cho tới ngày anh gặp bác Araki - vị trưởng phòng biên tập từ điển vừa đến tuổi về hưu. Bác Araki đã nhìn thấy được từ những khuyết điểm của Majime ưu điểm thích hợp hoàn hảo cho công việc biên soạn từ điển. Chàng được thuyên chuyển về phòng biên tập từ điển, trở thành đồng nghiệp của bác Araki, của chàng Nijime, chị Suzuki và giáo sư Matsumoto đáng kính. Từ đây, cuộc đời chàng Majime đã bước sang một trang mới. Rất nhẹ và rất êm, như con thuyền giấy nhẹ trôi trên mặt hồ, như cánh hoa anh đào trôi lửng lơ trong một chiều xuân nhiều nắng ấm và gió thoảng, những nhân vật trong Người đan chữ xếp thuyền thay phiên nhau cất lên tiếng nói của mình, để giãi bày, để được lắng nghe, và cùng chia sẻ. Góc nhìn của mỗi mảnh ghép sự kiện ấy đều phản ánh rõ nét tính cách của người kể - nhân vật chính, cho thấy những vấn đề trăn trở riêng của họ, và cả niềm đam mê của họ dành cho công việc mà mình đang theo đuổi. Niềm đam mê ấy chính là ngọn hải đăng sáng rực rỡ, xâu chuỗi, dần dắt những phần ban đầu tưởng như rời rạc trong cuốn sách vào một hình dáng, một câu chuyện cụ thể. Nếu ví von cuộc đời mỗi nhân vật trong Người đan chữ xếp thuyền như một đoá hoa anh đào, thì ngày mà đoá hoa ấy vào độ mãn khai rực rỡ nhất, chính là ngày cuốn từ điển Đại hải trình - “đứa con chung” được chắt chiu từ bao năm tháng của họ được ra mắt. Khoảnh khắc ấy có thể ngắn ngủi - như chính độ khai nở rực rỡ nhất của một bông hoa anh đào, nhưng điều ấy nào đâu phải thứ gì bi kịch. Ngắm nhìn những cánh hoa rơi - mà như trôi lững lờ trong không gian không phải là một khung cảnh tuyệt diệu hay sao? Vẻ đẹp ấy tuy ngắn ngủi nhưng chói sáng, và luôn khiến người ta khao khát mong chờ. Mùa Xuân có những cánh hoa anh đào bay ấy chính là đích đến của chuyến hành trong Người đan chữ xếp thuyền. *** ▹ Bìa sách có phần kém sự chỉn chu so với nội dung cuốn truyện (nếu đã đọc quyển này rồi thì không thể ưa thêm cái bìa được nữa). Tớ lướt goodread thấy bìa sách bản dịch tiếng anh và Hàn vừa đẹp vừa có sự liên quan tới nội dung sách, hoặc bản bìa xanh đậm giản dị của Nhật mà giàu ý vị. Tựa tiếng nhật là “舟を編む” dịch tạm là “Đan một chiếc thuyền”; bên Hàn là “배를 엮다” – Đan thuyền; tựa tiếng Trung là “啟航吧!編舟計畫” tạm dịch nghĩa là Kế hoạch giương buồm; bản dịch tiếng Anh hơi lái một chút là “The Great Passage” – có thể hiểu là “Đại hải trình”; tựa tiếng Việt của chúng ta là “Người đan chữ xếp thuyền”, thú vị nhỉ? (Mấy từ trên là tớ nhờ nhiều bạn dịch hộ nhé, chứ không phải Muỗng biết nhiều thứ tiếng đâu =))) ▹ Muỗng có recommend? Có ???? Khi đọc được một phần nhỏ của ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’, Muỗng đã phải đi tìm lại cuốn từ điển tiếng việt duy nhất mà tớ có trong hai mươi mấy năm trời đèn sách, và bạn biết gì không? Cuốn từ điển be bé của NXB Từ điển Bách Khoa mà cô giáo bắt (có thể dùng từ ‘yêu cầu’ cho lịch sự nhưng thôi tớ trung thực :))) cả lớp mua từ hồi lớp hai nay đã bung gáy, nằm phủ đầy bụi dưới một góc ở giá sách của chị gái, nơi tớ không bao giờ mò tới. Nhớ lại thì khi mới mua từ điển, tớ đã xin mẹ dán nhãn màu những đầu mục chữ cái: a, b, c… để tiện cho việc tra cứu, lại dán thêm băng dính để bảo vệ hai mặt bìa. Hôm nào có tiết Tiếng Việt là sẽ sắp nó vào cặp, khi cô giá bảo các em hãy tra từ này, từ kia là lại lật giở từng trang, có khi cũng ngồi nghịch ngợm tra tra từ, hoặc khi nhàm chán mà đọc vài trang từ điển. Rồi sau đó ? Cuốn từ điển ấy dần chìm vào lãng quên, bởi đơn giản là khi công nghệ thông tin phát triển, người ta sẽ tra từ bằng cách google, hoặc hỏi người xung quanh cho tiện chứ ít khi giở cuốn từ điển giày cộp ra mà tra cứu. Có lẽ Muỗng còn có thể lãng quên cuốn từ điển màu vàng có hình trống đồng ấy thêm một khoảng thời gian dài nữa nếu không đọc ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’. Một câu chuyện kể về quá trình dài 13 năm để biên tập cuốn từ điển Daitokai của các thành viên phòng biên tập từ điển công ty sách Genbu. Vào những năm 90 với lý do kinh tế Nhật Bản suy thoái, công ty sách Genbu liên tục trì hoãn quá trình biên tập và xuất bản Daitokai, mọi việc còn khó khăn hơn khi nhân viên phòng biên tập từ điển người thì về hưu, người thì là nhân viên hợp đồng hoặc là cố vấn ngoài công ty, anh chàng nhân viên chính thức duy nhất là Nishioka lại lông bông quá thể. Bác Araki trước khi nghỉ hưu đã hứa với người thầy Matsumoto rằng sẽ tìm được  người có năng lực, yêu từ điển để thay bác biên tập cuốn từ điển Daitokai. Với gợi ý của Nishioka và sự kiểm chứng của Araki, Majime Mitsuya, chàng trai kỳ lạ ở phòng kinh doanh đã được điều về làm biên tập viên từ điển. Vốn là người có lối suy nghĩ chẳng giống ai, lại kiệm lời khiến Majime khó hòa nhập với mọi người, những ngôn từ và kinh nghiệm mà anh tích cóp được trong gần 30 năm cũng không đủ để sử dụng trong quá trình biên tập từ điển. Đã thế anh chàng còn vô cùng bối rối khi chót đem lòng yêu mến cô cháu gái xinh đẹp của bà chủ nhà trọ, những ngày tháng mới làm việc ở phòng biên tập từ điển khiến Majime nản lòng rồi nghi hoặc về chính bản thân mình. Nhưng nhờ sự ủng hộ của bà chủ nhà và các đồng nghiệp mà Majime đã vực dậy chuyên tâm học hỏi và biên tập từ điển, anh cũng bạo dạn mà bày tỏ với Kaguya qua thư: “Những gì không nói được bằng lời thì nên viết ra.” Majime đã nghĩ vậy đấy. Thế nhưng quá trình biên tập Daitokai bị trì hoãn do công ty sách muốn phòng biên tập từ điển phải cải đính các cuốn từ điển đã xuất bản trước đó, lại còn cắt giảm nguồn lực đã vốn eo hẹp của phòng. Ai cũng âu sầu nhưng không vì thế mà từ bỏ Daitokai, mỗi thành viên trong tổ biên tập từ thầy Matsumoto, bác Araki, cô Suzuki và Majime đều cố gắng hết sức để làm phần việc của mình, ngay cả anh chàng màu mè Nishioka mà bác Araki coi nhẹ cũng vậy, dù y vừa thán phục lẫn ghen tị với Majime. “Mình cũng muốn dùng thành ý của mình để đáp lại thành ý của đối phương.” Nishioka tự nhủ. Sau bao tháng ngày bị trì hoãn, Daitokai cuối cùng cũng đã được công ty đồng ý xuất bản, vì vậy mà họ cử Kisibe, một quý cô sành điệu của tạp chí cho nữ giới sang phòng biên tập từ điển. Ngỡ tưởng mình sẽ không tài nào hòa nhập được với công việc biên tập từ điển khô khan mà phức tạp, lại thêm ông chủ nhiệm Majime kỳ cục nhưng Kisibe lại dần làm quen được với công việc nhờ sự giúp đỡ của đồng nghiệp và một vị tiền bối. Lại qua nhiều tháng ngày thẩm định kỹ càng và công sức của bao con người, cuốn từ điển Đại Độ Hải – Daitokai cuối cùng cũng đã được xuất bản dưới niềm hạnh phúc, tự hào và cả nuối tiếc của những con người đã góp phần xây dựng nên cuốn từ điển này. Song không vì vậy mà quá trình biên tập từ điển đã kết thúc, con thuyền Daitokai sẽ còn được cải đính trong tương lai để thêm vững chắc mà vượt trên biển ngôn từ bao la… Daitokai – Đại Độ Hải là công sức, là một phần linh hồn của thầy Matsumoto, bác Araki, cô Suzuki, Majime, Nishioka, Kisibe, của các phòng ban khác trong công ty sách Genbu, của những vị cộng tác viên nhiều kinh nhiệm và những bạn sinh viên, của công ty sản xuất giấy Akebo… Chiếc thuyền Daitokai đã được những con người cần mẫn ấy tạo dựng nên từ cái khung, nét sơn rồi liên tục được cân nhắc, suy tính tỉ mỉ để đan đầy nó bằng ngôn từ như vậy đấy. Đọc ‘Người Đan Chữ Xếp Thuyền’ mới thấy việc biên tập từ điển khó khăn mà quan trọng đến mức nào: Phải căn chỉnh sao cho lượng từ đúng chuẩn trên một trang giấy, phải xem xét tính phổ biến của từ ngữ, phải tìm cách giải nghĩa và cho ví dụ chuẩn và hợp lý, đến giai đoạn in ấn thì cũng phải lựa chọn loại giấy in phù hợp, vân vân… Từ điển được tạo ra là để mọi người tra cứu dễ dàng, tham khảo và lấy làm chuẩn mực nhất định. Thời trước các cụ khi đặt tên cho con cháu là hay giở sách vở, từ điển để chọn tên hay nghĩa đẹp mà gửi gắm mong ước của mình cho thế hệ sau. Giờ đây từ điển không còn có vị thế quan trọng như xưa nhưng Muỗng nghĩ trong khoảng 10 năm tới – khi mà Tiếng Việt đang được nghiên cứu và bổ xung thì sớm muộn người ta cũng nên làm một cuốn từ điển mới và hoàn thiện hơn. Tuy rằng Majime mới là nhân vật chính nhưng tớ thích Nishioka hơn, những đoạn biến chuyển tâm lý của anh này đọc rất vui và cảm động. Trong mắt người khác Nishioka luôn có vẻ phất phơ đỏm dáng, không bao giờ dành tâm huyết để làm một việc gì cả nhưng thực ra anh chàng rất tinh ý và cố gắng làm những việc cần thiết để giúp đỡ đồng nghiệp. Đọc mà mong một ngày mình cũng dần trưởng thành và biết sẻ chia như Nishioka ???? *** Cuộc đời của Araki Kouhei - nếu các bạn nghĩ rằng dùng từ “cuộc đời” là hơi cường điệu - vậy thì nên sửa lại thành: nếu nói sự nghiệp của Araki Kouhei chỉ để cống hiến cho việc biên tập từ điển, thật không phải nói quá. Araki từ thuở bé đã rất có hứng thú với ngôn từ. Tỉ dụ như từ “chó” chẳng hạn. Tuy thấy nó ở đó, nhưng lại không có*. Ha ha, buồn cười thật đấy. Giả mà bây giờ bác nói như vậy thì thể nào cũng bị các nữ nhân viên bảo, Nguyên văn là そこにいるのに, いぬ (Soko ni iru noni, inu). Câu này bác Araki chơi chữ: động từ iru gần đuôi phủ định -nu vào sẽ từ “có” thành “không có”. Nhưng từ “inu” trong tiếng Nhật cũng có nghĩa là “con chó”. Vậy câu này có thể hiểu theo 2 nghĩa: 1. “Ở đó có con chó.” Và 2. “Nó ở đó, mà lại không ở đó.” “Araki à, anh có ngưng ngay trò đùa của mấy ông già đó đi không”, nhưng nếu hồi còn nhỏ mà đã nghĩ ra được câu này, hẳn bác sẽ rất khoái chí. “Chó” không phải chỉ đơn thuần là từ chỉ một loài động vật. Trong một bộ phim mà bác được bố dẫn đi xem lúc bé, có một gã xã hội đen do bị phản bội nên lâm vào cảnh thập tử nhất sinh, khi hắn ta máu me đầy mình đã thét lên rằng, “Lũ chó chính phủ!” Lúc đó Araki đã ngộ ra rằng, mấy tên nội gián được tổ chức đối địch cài vào cũng bị gọi là “chó”. Ông trùm khi nhận được tin báo đàn em của mình đang hấp hối, liền đứng phắt dậy nói, “Tụi bây còn đứng trơ ra đó làm gì! Mang dao ra đây! Tao phải cho thằng đó chết không bằng chó!”. Lúc đó Araki lại ngộ ra rằng, từ “chó” cũng mang hàm ý tương đương với “chết một cách vô nghĩa”. Đối với con người, loài chó là một người bạn vừa khôn ngoan, lại vừa đáng yêu và đáng tin cậy. Ấy vậy mà, cùng một từ “chó” lại có thể dùng để chỉ tên nội gián vô lại hoặc sự vô nghĩa của một việc thì thật là khó hiểu. Loài chó vốn trung thành, đôi khi đến mức lệ thuộc. Đặc tính nổi bật của chúng là luôn cố gắng tận sức vì loài người mà không cần báo đáp. Có lẽ cũng vì thế nên từ “chó” mới bị gán cho những nghĩa tiêu cực như trên. Tuy Araki đã sớm nảy sinh hứng thú với những chuyện này, nhưng nhận thức của bác về từ điển đến muộn hơn một chút, đó là khi bác được người chú tặng cho quyển “Từ điển quốc ngữ Iwanami” làm quà mừng vào cấp II. Lần đầu tiên Araki được sở hữu một quyển từ điển của riêng mình, bác rất lấy làm thích thú và thường xuyên giở nó ra tra cứu. Mời các bạn đón đọc Người Đan Chữ Xếp Thuyền của tác giả Miura Shion.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mùi Hương - Patrick Suskind
Tên ebook: Mùi Hương (full prc, pdf, epub) Tác giả: Patrick Suskind Thể loại: Best Seller, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây   Công ty phát hành: Nhã Nam   Nhà xuất bản: NXB Văn Học   Trọng lượng vận chuyển: 440 grams   Kích thước: 14x20,5 cm   Dịch giả: Lê Chu Cầu   Số trang: 348   Ngày xuất bản: 09/2007 Nguồn: e-thuvien.com Ebook: Đào Tiểu Vũ's eBooks - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Mùi Hương Giới thiêu: Đây có phải là câu chuyện của một kẻ giết người không, xin bạn đọc hãy tự kiểm tra. Tuy nhiên, qua đánh giá của dư luận thì rõ ràng đây là một cuốn sách hay, hấp dẫn, từng nằm trong danh sách bestseller. Mùi hương cũng vừa được dựng thành phim năm 2006, tại Đức; và hiện đã có đĩa DVD ở VN. Với tất cả những thông tin trên, thoạt qua chúng ta sẽ cảm tưởng rằng đây là một cuốn sách mới. Kỳ thực Mùi hương đã được in tại Đức từ năm 1985 và sau đó đã xuất bản nhiều nơi trên thế giới. Hơn 20 năm, một cuốn sách hay mới đến tay bạn đọc VN. Nói một cách nào đó, chúng ta đang đọc một... cuốn sách cũ. Việc chúng ta đang đọc những cuốn sách cũ, hình như đang là một "xu hướng". Năm 2005, NXB Hội Nhà văn ấn hành cuốn Những mẩu chuyện nước Ý của Macxim Gorki; theo lời dịch giả Nguyễn Thụy Ứng thì bản dịch đầu tiên đã được in vào năm 1968 bởi NXB Văn hóa. Cuốn sách sau gần 40 năm đã được dịch lại một cách kỹ lưỡng hơn trước khi cho tái bản. Nhưng vào thời điểm 40 năm trước, Những mẩu chuyện nước Ý cũng không phải là mới; bởi nó đã được in ở Nga vào năm 1920. Cũng tương tự như thế, năm 2006 NXB Đà Nẵng & Nhà sách Kiến thức cho in cuốn tiểu thuyết Rừng thẳm của nhà văn người Pháp Julien Gracq (Hoàng Hà Constant dịch), thì cuốn sách này đã được xuất bản ở Pháp từ năm 1958; năm 2006, NXB Văn học cho in cuốn tiểu thuyết Zorba-con người hoan lạc của nhà văn người Hy Lạp Nikos Kazantzakis (bản dịch Dương Tường) thì trước đó cuốn này đã được in nhiều lần; với bản in bằng tiếng Anh đầu tiên vào năm 1965; năm 2006, độc giả VN đón nhận một cách hứng khởi cuốn tiểu thuyết Hạt cơ bản của Michel Houellebecq (NXB Đà Nẵng; bản dịch Cao Việt Dũng) với tất cả sự mê hoặc, mới mẻ của nó; thì cuốn này đã được in ở Pháp vào năm 1998 v.v... Hầu hết những cuốn sách in lại đều cẩn thận viết lời giới thiệu, chú thích bản in lần thứ mấy, để độc giả có đối sánh và soi rọi tốt hơn. Chọn lựa những dịch giả giỏi, có "gu" riêng với từng tác giả, từng dòng văn học để có những ấn phẩm tốt nhất là điều mà các NXB và những người làm sách hết sức cân nhắc. Thông thường là dùng lại những bản dịch cũ của những dịch giả giỏi đã được thẩm định qua thời gian. Chẳng hạn, khi đọc Chân dung chàng nghệ sĩ trẻ của James Joyce (Hoàng Hạc -1970) thì khó có thể chê bản dịch của Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh; đọc Của chuột và người (tải eBook) của John Steinbeck hẳn rất thích thú với bản dịch của Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập, từng được giới thiệu trên Tập san Văn (1967)... Cho nên những bản in lại sau này đều chọn phương án tối ưu là sử dụng lại những bản dịch cũ ấy. Cũng có những trường hợp, người làm sách cho dịch lại bản sách đã in. Nhưng trong tình trạng chúng ta đang "neo" dịch giả giỏi, tâm huyết với nghề như hiện nay thì những bản dịch mới thường không mấy thành công. Ví dụ cuốn Tự do đầu tiên và cuối cùng của Krishnamutri đã được dịch lại, nhưng nếu được phép chọn lựa, người mê sách hẳn vẫn thích đọc bản dịch của Phạm Công Thiện (An Tiêm -1968). Đối với mảng sách văn học nước ngoài, bên cạnh việc giới thiệu một cách kịp thời một số tác phẩm đoạt những giải thưởng danh giá, như Nobel, Goncourt, Booker…; thì có thể nói chúng ta vẫn đang đọc hầu hết những cuốn sách cũ. Việc giới thiệu kịp thời những tác phẩm đoạt những giải thưởng văn học danh giá là cần thiết. Nhưng, chúng ta ai cũng biết là có những cuốn sách rất hay mà không hề nhận được giải thưởng nào. Mời các bạn đọc đọc Mùi Hương của tác giả Patrick Suskind.
Của Chuột và Của Người
Là tác phẩm nổi tiếng nhất của John Steinbeck, "Của Chuột Và Người" được coi là khuôn mẫu tiểu thuyết xuất sắc cho văn chương Mỹ. Câu chuyện khắc họa nỗi cùng khổ của những người dân lao động trong bối cảnh Đại khủng hoảng kinh tế, của những thân phận tột cùng cô độc giữa một xã hội đầy rẫy bất công. Ở đó, ước mơ và hoài bão mắc cạn trong cái vòng luẩn quẩn, còn khát khao làm chủ số phận chỉ là một ảo giác an thần kéo lê những đôi chân trĩu nặng không ngừng bôn ba xê dịch. Với lối kể chuyện giản dị, giàu cảm xúc, cùng cấu trúc ba hồi khúc chiết như một vở kịch, "Của Chuột Và Người" đã góp phần đưa John Steinbeck trở thành nhà văn sáng tác về tầng lớp lao động xuất sắc nhất nước Mỹ. *** Của Chuột và của Người là một cuốn truyện vừa của John Steinbeck, nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel văn học năm 1962. Lần đầu tiên tôi đọc cuốn truyện này là vào trước năm 1975, không rõ là năm nào. Lúc ấy, tôi còn đang học cấp 2, đâu khoảng 13, 14 tuổi gì đó, và không thực sự hiểu câu truyện này lắm. Tôi chỉ nhớ ấn tượng rõ nét nhất của tôi về cuốn sách này là nhân vật Lennie to con nhưng ngốc nghếch, một thằng khờ đúng nghĩa nhưng rất dễ thương, rất thích chơi với những con vật nho nhỏ, mềm mềm như thỏ, chuột, và hầu như lúc nào cũng dấu trong người một con chuột (thường là đã chết) để vuốt ve thỏa thích. Chỉ có vậy thôi, còn toàn bộ câu truyện thì tôi không ấn tượng gì lắm, và dường như tôi đã bỏ dở không đọc đoạn chót. Sau này, khi trưởng thành vào học tại ĐH Tổng hợp TP HCM Khoa Ngữ văn nước ngoài (ngành Anh văn) sau năm 1975 (tôi vào đại học năm 1978) thì tác giả John Steinbeck với các tác phẩm của ông lại nằm trong danh sách các tác giả mà bọn tôi được học.  Chính vào lúc ấy - ở tuổi 20 - tôi đã đọc lại đầy đủ và kỹ lưỡng cuốn tiểu thuyết này, hiểu nó một cách sâu sắc, và nhận ra rằng cuốn truyện không dài của John Steinbeck về một thằng khờ có tên Lennie và người bạn thân thiết (đồng thời cũng là người bảo vệ, che chở) của cậu ta là một lời tố cáo rất sâu sắc những bất công, sự tàn bạo và bất nhân tồn tại trong xã hội Mỹ vào thời ấy. Cuốn tiểu thuyết Của Chuột và của Người này được dịch ra tiếng Việt lần đầu tiên là vào năm 1967, 30 năm sau khi tác phẩm ra đời, bởi hai dịch giả ở miền Nam là Hoàng Ngọc Khôi và Nguyễn Phúc Bửu Tập. Chính các dịch giả này đã là "thủ phạm" đã dịch cái tựa "of mice and men" ra thành "của chuột và người", mà có người cho là chưa chính xác. Chưa chính xác, bởi vì giới từ "of" trong cái tựa dường như không hề có nghĩa sở hữu (của), mà có nghĩa là "liên quan đến" hoặc "về". Thì rõ ràng cuốn tiểu thuyết ấy là nói về những con chuột và những người đàn ông mà lại. Cho nên những dịch giả sau này có sửa cái tựa lại thành "Về chuột và người". Đúng hay sai chưa bàn đến vội, nhưng vì cái tựa đã được các dịch giả đầu tiên dịch ra thành "của chuột và người" rồi nên cách dịch này đã được mọi người quen và chấp nhận, thậm chí lại thấy hay (chính tôi trước đây cũng nghĩ "của" là sai, nhưng vẫn thích vì thấy nó ... hay hay vì có gì đó có vẻ bí hiểm). Mãi cho đến sau này tôi mới biết từ "của" ở đây không hề sai mà còn rất đắt, vì cái tựa đã được đặt theo một câu thơ mà bạn sẽ được đọc trong những phần giới thiệu cuốn sách. Mời các bạn đón đọc Của Chuột và của Người của tác giả John Steinbeck.  
Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi - Gabriel Garcia Marquez
Tên ebook: Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi (full prc, pdf, epub) Tác giả: Gabriel Garcia Marquez Thể loại: Sách hay, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây   Người dịch: Lê Xuân Quỳnh   Công ty phát hành: First News - Trí Việt   Nhà xuất bản: NXB Tổng hợp TP.HCM   Trọng lượng vận chuyển: 200 grams   Kích thước: 14.5x20.5 cm   Dịch giả: Lê Xuân Quỳnh   Số trang: 128   Đánh máy: Venus   Biên tập: tovanhung   Tạo prc: tovanhung   Nguồn: thuvien- ebook.net   Ebook: Đào Tiểu Vũ's eBook - http://www.dtv-ebook.com Bìa sách Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi Giới thiệu: “Mỗi một cuộc sống, mỗi một số phận đều có những nỗi niềm, những suy tư, trăn trở riêng và đáng để ta suy ngẫm…” - First News phối hợp với Nhà xuất bản Tổng Hợp phát hành một tác phẩm nổi tiếng "Hồi Ức Về Những Cô Gái Điếm Buồn Của Tôi" dựa trên tác phẩm nổi tiếng “Memoria de mis putas tristes” của nhà văn Gabriel García Márques do Lê Xuân Quỳnh dịch và Nhà báo Hoàng Hoài Sơn hiệu đính. Mọi người biết đến Gabriel García Márques – nhà văn vĩ đại người Colombia qua những tác phẩm nổi tiếng như: “Ngài đại tá chờ thư”, “Tình yêu thời thổ tả” (tải eBook), “Tướng quân giữa mê hồn trận”, “Trăm năm cô đơn” (tác phẩm đoạt giải Nobel Văn Học năm 1982) - tải eBook, và gần đây là tác phẩm Sống để kể lại… Ông không chỉ là một nhà văn nổi tiếng mà còn là một phóng viên chiến trường kỳ cựu với những kí sự nổi tiếng thập niên 70’, 80’, 90’. Các tác phẩm của ông đều mang đậm bản sắc châu Mỹ La- tinh, toát lên sự giản dị của tâm hồn hay sự nhạy cảm của nội tâm. Ông như sống với trăn trở của từng nhân vật, từng số phận trong tác phẩm của mình; chính vì vậy bạn đọc luôn đón nhận tác phẩm của ông với sự trân trọng. Với tư duy nghệ thuật độc đáo, Márquez đã thể hiện trong các tác phẩm của mình một tình yêu vừa thơ ngây vừa sâu sắc, mãnh liệt đối với con người, với cuộc đời. Ông đã từng nói: “Trên thực tế, mỗi nhà văn chỉ viết một cuốn sách. Cuốn sách mà tôi đang viết là cuốn sách về 'Cái cô đơn.” Quả thực, sau hơn 50 năm cầm bút, Márquez vẫn viết về cái cô đơn trong một câu chuyện khác, tác phẩm “Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi”. Hồi Ức Về Những Cô Gái Điếm Buồn Của Tôi là câu chuyện của một nhà báo già, sinh ra trong một gia đình trung lưu nhưng ông sớm mồ côi cha mẹ. Trong căn nhà cũ kỹ, ông đã sống một cuộc sống hoàn toàn cô độc, không vợ con, không bạn bè. Ông đã từng dạy ngữ pháp tiếng La tinh và Tây Ban Nha. Sau đó, ông biên tập tin tức và viết bình luận âm nhạc cho một tờ báo địa phương đến năm 90 tuổi. Và chính trong buổi sáng kỷ niệm sinh nhật lần thứ 90 của mình, ông bỗng ao ước có một đêm tình ái nồng say với một thiếu nữ còn trinh nguyên. Cái ý muốn kỳ lạ đó thôi thúc tâm trí ông đến độ ông phải tìm cách liên hệ với một người đàn bà mối lái mà ông quen từ ngày còn trẻ, nhờ bà ta giúp đỡ bất chấp nỗi xấu hổ. Ông đã đến nơi hẹn với một cô bé đang ngủ say. Khi ra về, ông đặt lên trán cô nụ hôn vĩnh biệt và lời cầu Chúa giữ hộ trinh tiết cho cô. Thế nhưng, chính sự cô đơn của tuổi già đã khiến ông nhiều lần nữa đến gặp cô bé. Mỗi lần, ông lại thêm yêu thương cô. Ông đem những bức tranh, những bó hoa, những cuốn sách… bày trong căn phòng để sớm mai, khi thức dậy, cô bé cảm thấy ấm cúng. Ông hát ru cô bé về Delgadina – cô công chúa út được vua cha yêu quý. Ông gọi cô là Delgadina. Ông nhận thấy sự hiện diện vô hình của cô trong căn nhà vắng lặng của mình. Cuộc sống nhàn tẻ, nghèo cực của ông như có một ý nghĩa, đó là niềm yêu thương, lo lắng cho tương lai của cô bé. Lần đầu tiên, ông nhận ra rằng: “Niềm thích thú thực sự là khi được ngắm nhìn thân thể người phụ nữ ngủ say mà không bị áp lực của dục vọng hay bối rối vì ngượng ngùng.” Tác phẩm Hồi Ức Về Những Cô Gái Điếm Buồn Của Tôi của G. G Márquez khiến người đọc nhớ đến “Người đẹp say ngủ” của nhà văn Kawabata (Nhật Bản). Những ông già – nhân vật trong tác phẩm của hai nhà văn, trong cố gắng tuyệt vọng để tìm lại tuổi trẻ đã tìm thấy một tình cảm khác. Đó là niềm thương xót với thân phận con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Nhân vật của Kawabata khi đến ngủ bên người phụ nữ đã có ý nghĩ: “Đến đấy ngủ giống như ngủ với Đức Phật nấp kín đâu đây vậy”. Trong một cách hành xử khác, một cách diễn đạt khác, nhân vật của G. G. Márquez cũng đạt được tình cảm thanh khiết đó. G. G. Márquez viết về “Cái cô đơn” của một con người, một dòng họ, một đất nước chính là để “sáng tạo ra một huyền thoại khác hẳn, một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình, ngay cả trong cách thức chết, nơi Tình yêu có lối thoát và Hạnh phúc là cái có khả năng thật sự và nơi những dòng họ bị kết án Trăm năm cô đơn sẽ có vận may để tái sinh trên mặt đất Mời các bạn đón đọc Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của tác giả Gabriel Garcia Marquez.