Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghệ Thuật Nói Trước Công Chúng

Bạn có một ý tưởng rất hay nhưng không thể trình bày với sếp của mình? Bạn rất yêu một cô gái nhưng không biết tỏ tình làm sao? Bạn muốn xin một sự giúp đỡ? Rất nhiều tình huống trong cuộc sống mà khả năng trình bày của bạn có thể cứu sống chính bạn. Theo nghiên cứu thì con người ta còn sợ thuyết trình trước đám đông hơn là sợ chết? Người ta thà chết con hơn phải là đứng trước đám đông. Đơn giản vì bạn có thể nghĩ mọi người đang dò xét bạn. Bạn không tốt chỗ này, không tốt chỗ kia. Một tỉ câu chuyện cổ tích mà bạn có thể tự vẽ ra. Mà bạn quên mất một điều rằng mọi thứ đều có chiến lược, phương pháp để làm nó. Trong cuốn sách này tác giả sẽ chỉ cho bạn các bước chi tiết để có thể tạo ra một bài thuyết trình ấn tượng, mở ra nhiều cơ hội cho bạn. Giúp bạn quy phục lòng người, chinh phục thành công. Dale Carnegie sẽ chỉ cho bạn cách làm thế nào để: - Phát huy tính tự chủ - Lấy lại tự tin - Tăng cường trí nhớ - Bắt đầu và kết thúc một bài nói - Hấp dẫn và lôi cuốn người nghe - Hoàn thiện phong cách diễn đạt Nghệ Thuật Nói Trước Công Chúng: Đưa ra nhiều cách có giá trị thực tiễn trong việc cảm hóa những người đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của bạn như: Bạn bè, khách hàng, đồng nghiệp và cấp trên của bạn... Những kiến thức trong cuốn sách này đã được hơn một triệu học sinh các khóa học Dale Carnegie nổi tiếng thế giới đào tạo "nghệ thuật nói trước công chúng" và đã sử dụng thành công. Đây là cuốn sách cho tất cả những ai muốn tiến lên phía trước. Như những gì tác giả đã thể hiện trong cuốn sách, các kỹ xảo giúp bạn vượt qua sự e ngại khán giả, sẽ giúp bạn trong mọi tình huống trong cuộc sống. *** Trong rất nhiều năm. Dale Carnegie là tác giả nổi tiếng với những cuốn sách viết về cách có thêm bạn bè và thuyết phục người khác. “Cách có thêm bạn bè và thuyết phục người khác” là một trong những cuốn sách bán chạy nhất trong mọi thời đại và đã khiến Dale nổi tiếng khắp thế giới. Nhưng đó chưa phải cuốn sách được phát hành đầu tiên của ông. Năm 1926, Dale Carnegie viết cuốn sách có tựa đề “Diễn thuyết trước công chúng” và “Thuyết phục người khác trong kinh doanh”. Đây là cuốn sách về diễn thuyết trước công chúng, và đến nay vẫn được coi là giáo trình chính thức của những khóa học nổi tiếng do Dale Carnegie tổ chức về Diễn thuyết trước công chúng và Các mối quan hệ của con người. Đây cũng được coi như cuốn giáo trình cho khóa học diễn thuyết Y.M.C.A. Trong vòng mười năm, cuốn sách này đã bán được 600.000 bản và tổng số bản sách bìa cứng đã bán được trên toàn thế giới là 1.000.000 bản. Cuốn sách đã được xuất bản bằng khoảng hai mươi thứ tiếng trên thế giới và đã bán được hàng nghìn bản dưới các ngôn ngữ này. Tuy nhiên, đó vẫn chưa là cuốn sách được đa số công chúng độc giả biết đến. Các khóa học của Dale Carnegie đã diễn ở rất nhiều nơi trên thế giới và đã có hơn 1.000.000 người đã hoàn thành các khóa học này. Những khóa học đã giúp con người ta trở nên dũng cảm hơn, hạnh phúc hơn và thành công hơn trong cuộc sống do chúng đã giúp họ phát huy được khả năng của bản thân mình. “Diễn thuyết trước công chúng - cách giúp tăng sự tự tin và thuyết phục người khác” chứa đựng rất nhiều những lời khuyên khôn ngoan giúp người đọc đạt được các mục tiêu mà mình đề ra. Sau khi đọc kỹ lại cuốn sách, tôi đã biết được có bao nhiêu quy luật khôn ngoan để vượt qua nỗi sợ hãi và giành lấy sự tự tin trong cuốn sách này. Những phương pháp mang tính lý thuyết và những gợi ý đã bổ sung thêm những quy luật giúp mọi người gặp nhau, dù là cá nhân hay theo nhóm, và nói chuyện một cách thật hiệu quả. Tôi thật sự hy vọng rằng người đọc sẽ học được nhiều điều từ cuốn sách, giống như hàng ngàn học viên của các khóa học Dale Carnegie trên toàn thế giới trong nhiều năm qua. DOROTHY CARNEGIE. *** Từ năm 1912 đến nay, đã có hơn năm trăm nghìn người, cả nam lẫn nữ đã tham gia những khoá học diễn thuyết trước công chúng sử dụng phương pháp dạy của tôi. Rất nhiều người trong số họ đã từng viết thư cho tôi giải thích lý do họ tham gia khoá học đó và những gì họ mong đợi đạt được từ khoá học đó. Theo lẽ thường tình, mỗi người có cách diễn đạt khác nhau, nhưng đáng ngạc nhiên là, trong hầu hết các lá thư đó đều thể hiện một mong muốn như nhau. Người nào cũng viết đại ý: “Khi tôi bị gọi lên phát biểu, tôi bỗng cảm thấy rất lúng lúng, rất sợ hãi. Do đó tôi không thể suy nghĩ mạch lạc, không thể tập trung, không thể nhớ những gì tôi đã dự định sẽ nói từ trước. Tôi muốn trở nên tự tin, điềm tĩnh và có khả năng tự suy nghĩ. Tôi muốn sắp xếp các suy nghĩ của tôi theo một trình tự hợp lý và tôi muốn tôi có thể phát biểu ý kiến của mình một cách rõ ràng và thuyết phục trước công ty, câu lạc bộ hay trước rất nhiều người nghe”. Hàng nghìn người có ý kiến tương tự như vậy. Sau đây tôi sẽ kể cho các bạn nghe một trường hợp điển hình. Nhiều năm trước đây, đã có một quý ông trung niên tên là D. W. Ghent tham dự khoá học thuyết trình trước công chúng của tôi tại Philadenphia. Đây là người có một cuộc sống khá năng động. Ông đã thành lập và làm chủ một cơ sở sản xuất riêng, là người lãnh đạo trong các hoạt động quần chúng và trong các công việc của nhà thờ. Chỉ ít lâu sau buổi học đầu tiên, ông ta đã mời tôi cùng ăn trưa tại câu lạc bộ Manufacturer. Trong bữa ăn, ông ta ngồi dựa vào bàn và nói: “Đã rất nhiều lần tôi được đề nghị phát biểu trước đám đông, nhưng chưa bao giờ tôi có đủ khả năng làm được điều đó. Những lúc đó, tôi bỗng trở nên cuống quýt, đầu óc tôi trở nên trống rỗng và tôi luôn phải lẩn tránh việc này. Nhưng bây giờ, tôi đang giữ cương vị chủ tịch một hội đồng gồm ủy ban quản trị các trường đại học. Tôi phải làm chủ tọa các buổi họp của hội đồng. Và đương nhiên là tôi sẽ phải nói đôi điều gì đó trong các cuộc họp đó... Liệu ông có nghĩ tôi có thể học cách nói khi đã vào tuổi này rồi hay không?” “Ông hỏi tôi sẽ nghĩ như thế nào ư, ông Ghent?”, tôi đáp, “Vấn đề không phải là tôi nghĩ ra sao. Vấn đề là tôi biết ông có thể làm được điều đó, và tôi biết ông sẽ làm được, chỉ cần ông luyện tập và làm theo những chỉ dẫn của tôi mà thôi.” Ông ta rất muốn tin những gì tôi nói, nhưng dường như điều đó quá lạc quan, quá tốt đẹp. “Tôi e là ông chỉ nói như thế vì lòng tốt mà thôi”, ông ta trả lời, “và ông nói thế chỉ cố để khích lệ tôi mà thôi”. Sau khi kết thúc khoá học đó, chúng tôi mất liên lạc một thời gian. Sau đó, chúng tôi có dịp gặp lại và cùng ăn trưa với nhau tại câu lạc bộ Manufacturer. Hai chúng tôi lại ngồi ở góc cũ, đúng chiếc bàn mà chúng tôi đã ngồi trong lần đầu tiên đến đây cùng nhau. Nhắc lại câu chuyện trước đây, tôi có hỏi liệu tôi có đã quá lạc quan hay không. Để trả lời, ông ta lôi từ trong túi áo ra một cuốn vở có gáy màu đỏ và cho tôi xem một danh sách các ngày và buổi nói chuyện mà ông được mời tới diễn thuyết. Ông ta thừa nhận: “Và khả năng để thực hiện những điều này, niềm vui của tôi khi được làm những việc này, cùng những đóng góp của tôi đối với cộng đồng là một trong những gì khiến tôi cảm thấy hài lòng nhất trong cuộc đời tôi”. Sau đó ít lâu, một hội nghị quan trọng về giải trừ quân bị được tổ chức tại Oasinhtơn. Khi biết Thủ tướng Anh có kế hoạch sẽ tham gia hội nghị này, những người theo Đạo Tin Lành ở Philadelphia đã đánh điện mời Thủ tướng tới nói chuyện trong một cuộc gặp mặt của đông đảo quần chúng sẽ được tổ chức tại đây. Và ông Ghent đã thông báo cho tôi biết rằng, trong số tất cả những người theo Đạo Tin lành ở thành phố này, chính ông đã được chọn làm người giới thiệu Thủ tướng Anh với người nghe trong buổi gặp mặt hôm đó. Và đó chính là người đàn ông đã ngồi cùng một bàn với tôi gần ba năm về trước mà đã rất nghiêm túc hỏi tôi nghĩ thế nào về việc liệu ông ấy có thể nói trước đám đông được hay không. Nhưng như vậy có phải tốc độ phát triển kỹ năng nói của ông ta nhanh quá mức bình thuờng không? Không hẳn là như vậy. Đã có hàng trăm tình huống tương tự xảy ra. Câu chuyện tiếp theo đây sẽ là một ví dụ cụ thể khác. Nhiều năm trước đây, một bác sỹ điều trị ở Brooklyn, bác sỹ Curtis, đã nghỉ đông ở Florida, gần bãi tập của câu lạc bộ bóng chày Những người khổng lồ (Giants), vốn là một cổ động viên nhiệt tình của môn thể thao này, ông ta thường đến đây xem các cầu thủ tập luyện. Dần dần, ông trở nên quen thân với đội bóng, và đã được mời tham dự một bữa tiệc thân mật của đội bóng. Sau khi uống trà, một vài vị khách quan trọng được mời “phát biểu vài lời”. Đột nhiên, giữa lúc ồn ã đó, bác sỹ Curtis bỗng nghe người chủ tiệc bữa tiệc nói: “Hôm nay, trong bữa tiệc này có một bác sỹ điều trị cùng dự với chúng ta. Và sau đây tôi xin mời Bác sỹ Curtis sẽ nói với chúng ta về vấn đề Sức khỏe của các cầu thủ bóng chày”. Liệu Bác sỹ Curtis có biết về chủ đề đó không? Đương nhiên là có. Ông ấy biết rõ hơn bất cứ ai trên thế giới này: ông đã từng học về vệ sinh, đã thực hiện việc khám bệnh và điều trị đã gần một phần ba thế kỷ. Ông có thể ngồi tại chỗ và nói về chủ đề này suốt đêm cho những người ngồi xung quanh ông cùng nghe. Nhưng phải đứng dậy và nói trước một nhóm các khán giả như trong bữa tiệc này lại là vấn đề khác. Đó là vấn đề do tâm lý sợ hãi gây ra. Lúc đó, tim ông bỗng đập nhanh gấp hai lần bình thường, và cứ thế đập liên tục. Trong cuộc đời mình, ông chưa bao giờ diễn thuyết trước đám đông và tất cả những gì ông nghĩ đến lúc đó chỉ là làm thế nào để mọc cánh bay thoát ra khỏi chỗ đó. Ông ấy phải làm gì bây giờ? Khản giả vỗ tay ào ào, mọi người đều nhìn về phía ông. Bác sỹ Curtis lắc đầu, nhưng hành động này chỉ càng khiến khán giả vỗ tay to hơn. Mọi người hò reo yêu cầu bác sỹ Curtis phát biểu. Tiếng hô “Bác sỹ Curtis! Phát biểu đi! Phát biểu đi!” ngày càng to và cương quyết hơn. Bác sỹ Curtis lúc đó thật sự rất đáng thương. Ông hiểu ràng nếu ông đứng dậy nói, ông sẽ thất bại, vì ông không thể nói được quá sáu câu. Và thế là ông đứng dậy, nhưng không nói một lời nào, quay lưng lại với các bạn của mình và lặng lẽ rời khỏi phòng trong tâm trạng xấu hổ vô cùng và như vừa bị hạ nhục. Thế cho nên không có gì đáng ngạc nhiên là khi việc đầu tiên bác sỹ Curtis làm sau sự việc trên lúc trở về Brooklyn là tham gia lớp học về diễn thuyết trước công chúng của tôi. Ông không muốn bị xấu hổ ê chề như thế thêm một lần nào nữa. Mời các bạn đón đọc Nghệ Thuật Nói Trước Công Chúng của tác giả Dale Carnegie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hai Số Phận
Hai số phận (tên gốc tiếng Anh làKane and Abel) là cuốn tiểu thuyết được ông viết dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Truyện kể về hai người đàn ông với xuất thân địa vị xã hội và hoàn cảnh sống hoàn toàn khác nhau nhưng có chung một đức tính là luôn chiến đấu hết mình để chinh phục những điều mà mình đã đặt ra. Họ là những người có hoài bão, lý tưởng sống và trên hết họ có một tâm hồn cao quý. William Lowell Kane là một người mạnh mẽ và giàu có trong khi đó Abel Rosnovski là một người gốc Ba Lan phải đấu tranh từ lúc sinh ra và lớn lên cùng với những người nghèo khổ, cuối cùng di cư đến Hoa Kỳ…. William tiếp nối sự nghiệp của cha mình là Richard Kane, để trở thành một chủ ngân hàng thành công. Trong khi William vẫn còn là một đứa trẻ, cha của anh đã chết trong thảm họa tàu Titanic. Người cha mất đi đã biến anh trở thành người thừa kế của ngân hàng Kane and Cabot. William đã thể hiện là một con người có tính kỷ luật và thông minh như những học sinh khác của trường St. Paul's School và sau đó là ở Harvard… Hai số phận là câu chuyện cuộc đời của hai con người đã bằng những tài năng của mình làm giàu cho quê hương. Con mắt tinh đời với những phán đoán sắc sảo về lĩnh vực kinh tế trên hết họ đặt nguyên tắc kinh doanh lên hàng đầu để vượt lên bằng chính khả năng của bản thân. *** Nói về “Hai số phận” thì rất lâu rồi từ sau khi đọc “Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mới lại có một cuốn sách cuốn hút mình theo kiều như vậy. Nếu nói chính xác là kiểu cuốn hút gì thì thật sự mình không gọi được tên ^^ nhưng nó khác với cái cuốn hút khi mình đọc một cuốn trinh thám kiểu Higashino Keigo, hay kiểu lưu lạc không nhà như “Không gia đình” hoặc kiểu đọc gấp rút ko dừng được khi lật những trang đầu của “Triệu phú khu ổ chuột”, cứ sợ đọc chậm lại là ko theo kịp nhịp độ cuộc đời nhân vật. Chắc là do cách viết của tác giả, kể chuyện khéo léo và xây dưng nhân vật chỉn chu một cách bất ngờ. Lời nhận xét ở bìa sau của tác phẩm quả không sai ^^ : “Nếu có giải thưởng Nobel về khả năng kể chuyện, giải thưởng đó chắc chắn sẽ thuộc về Archer”. Với “Hai số phận” mình có thể đọc chậm một chút, vì không chậm thì có khi không ngẫm được hết cái lí lẽ trong cách hàng xử của nhân vật. Mà hai nhận vật chính trong truyện, William Kane và Able Rosnovski, thì thâm sâu và uyên bác tới không ngờ ấy. Hai nhân vật sinh cùng ngày tháng năm, tuy lớn lên trong hoàn cảnh quá trái ngược nhưng đều có những khả năng thiên phú riêng (chắc là do gen). Họ giỏi thật sự, và biết rằng mình giỏi,luôn tự tin và phấn đấu không ngừng. Về William Kane, cuộc đời người đàn ông này gần như hoàn hảo từ khi chào đời tới lúc sắp rời ghế tại ngân hàng Lester. Gần như hoàn hảo vì William sớm phải chịu mất đi những người thân yêu nhất, với mình thi ngay khi người mẹ tái giá là William đã mất mẹ rồi. Mình đọc mà nhìn William với một sự ngưỡng mộ nhiều, tất nhiên là ngưỡng mộ tư tưởng ấy, cách hành xử cao thượng và tầm nhìn quá tuyệt vời của ông. Đối với Abel Rosnovski thì khác chút vì quá lắm thăng trầm, nên khiến mình lưu tâm nhiều hơn ấy. Ban đầu là khâm phục khả năng chịu đựng và mưu trí của cậu bé, dần dần là tâm đắc với sự ham học hỏi và nỗ lực vươn lên từ hai bàn tay trắng, sau cuối lại hơi bất bình vì cái ý tưởng trả thù cứ đeo đẳng Abel. Nhưng đoạn tác giả viết về tấm lòng của Abel khi nhất định là ra trận, vì lòng tự tôn dân tộc, vì mong muốn cống hiến cho đất nước không chỉ về tài chính mà còn về sức lực, đoạn này hay thật sự, khiến mình cộng thêm bao nhiêu điểm cho Abel luôn. Chốt lại thì “Hai số phận” là cuốn sách rất rất rất lôi cuốn và đáng đọc nhé các bạn, chẳng biết cảm thán thế nào cho vừa vì cho dù đã đọc xong mấy hôm rồi nhưng dư âm vẫn còn đọng lại khá nhiều khiến mình chưa thể ngay lập tức cầm một cuốn sách khác. À nhân tiện nói về bản dịch, mình thấy mọi người nói nhiều về bản dịch của dịch giả Nguyễn Việt Hải ( NXB Văn học 2018), đúng là bản này dịch hay và cập nhật dễ hiểu, nhưng mình có đọc cả bản dịch của dịch giả Anh Thư ( NXB Văn học 2011) nữa ( vì đi làm không chịu được nên tìm sách đọc onl thì có bản dịch 2011 nè). Mình thấy kết cấu hai bản dịch hơi khác nhau một chút, theo mình thì bản 2018 có nhỉnh hơn về logic sắp xếp và câu từ nhưng bản 2011 cũng có rất nhiều đoạn dịch rất hay và mượt đó. Đây là lần đầu mình viết review sách, mong được các bạn góp ý nếu có sai sót nhé. Cảm ơn các bạn đã đọc bài viết dài lê thê lướt thướt như thế này. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ nha. Trang Nguyen *** Jeffrey Archer (sinh ngày 15/04/1940) là nhà văn người Anh và cũng là một chính trị gia. Ông từng là một thành viên Quốc hội (1969-1974), và Phó Chủ tịch Đảng Bảo thủ (1985-1986). Jeffrey Archer sáng tác cuốn tiều thuyết Hai số phận (có tên gốc tiếng Anh là Kane and Abel) vào năm 1979. Tựa đề “Kane and Abel” dựa theo câu chuyện của anh em Cain và Abel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Tác phẩm được xuất bản tại Vương quốc Anh vào năm 1979 và tại Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1980 và cuốn sách đã được phổ biến trên toàn thế giới. Sách đạt danh hiệu sách bán chạy nhất theo danh sách của từ New York Times và năm 1985 nó được đưa lên chương trình truyền hình miniseries của CBS cũng với tên là Kane & Abel. ***   Mời các bạn đón đọc Hai Số Phận của tác giả Jeffrey Archer & Nguyễn Việt Hải (dịch).
Một Linh Hồn
Một linh hồn là tiểu thuyết đầu tay của Thụy An, in năm 1941-Nhà xuất bản Đàn Bà (76 pho Wiélé Hà Nội). Theo Bùi Thụy Băng (con Thụy An), Một linh hồn in năm 1943 (1). Cuốn sách này được Vũ Ngọc Phan đánh giá cao: “Một linh hồn cũng đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn”. Ông cũng định vị Thụy An trong tư cách nhà văn: “Hàn Mặc Tử đã đem vào thi ca Việt Nam lòng tin tưởng ở đạo Gia-Tô với một giọng say sưa đầm ấm. Thụy An cũng xây dựng cho tiểu thuyết của bà có những nhân vật tin cậy ở đẳng cấp Đấng Cứu Thế ở Đức Mẹ Đồng Trinh và sẵn lòng nhịn nhục, hi sinh”.  *** Bài giới thiệu của Nhà thơ Viên Linh:   Nữ sĩ Thụy AnThụy An Hoàng Dân là một nhà văn nữ nổi tiếng từ trước 1945, vừa qua văn chương vừa bởi cách sống, song danh vọng đã không rực rỡ, số phận lại còn gian lao; bà vào tù ra khám nhiều lần, một đời văn không ngừng va chạm với sắt máu, kể cả với chính mình khi tự cầm đũa chọc thủng một con mắt giữa nhà tù Hỏa Lò Hà Nội.        Thụy An là bút hiệu của bà Lưu Thị Yến, sinh năm 1916 ở Hà Nội, từng viết cho báo Phụ Nữ Tân Văn do Phan Khôi chủ trương, và trên hai tờ Đàn Bà Mới và Đàn Bà đều do chính bà chủ trương, xuất bản ở Sài Gòn và Hà Nội, khoảng từ 1939 tới năm chiến tranh chống Pháp bùng nổ. Trong Nhà Văn Hiên Đại, khi viết về cuốn tiểu thuyết Một Linh Hồncủa Thụy An, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã dùng câu sau đây để kết luận 8 trang sách về bà: “Một Linh Hồn… đáng kể là một tiểu thuyết xuất sắc nhất của phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay: tác giả đã giàu tưởng tượng, truyện lại xây dựng một cách vững vàng, chắc chắn.”        Khoảng đầu thập niên ’50, nhà hoạt động cách mạng Đỗ Đình Đạo, từng là quân ủy trung ương của Việt Nam Quốc Dân Đảng, sau lúc bôn ba qua Trung Hoa trở về thì bị ám sát chết; vụ thanh toán gây sôi nổi trên báo chí Hà Nội lúc ấy, và một số bài báo có nhắc đến tên Thụy An Hoàng Dân như là người trách nhiệm chính. Trong trí nhớ đã phai mờ, tôi hình dung câu chuyện như một truyện tình, tuy rằng có thể đó là một vụ khai trừ vì chính kiến. Giờ này, không rõ tờ báo đọc hồi nhỏ có đáng tin không, tường thuật có chính xác không (không nhớ đó là tờ Tia Sáng hay tờ Giang Sơn, hay tờ Tiếng Dân), tôi đã đi tìm đọc những tác phẩm của nhà văn nữ ấy, như Vợ Chồng, như Bốn Mớ Tóc.       Những năm cuối thập niên ’50, tên Thụy An Hoàng Dân lại được báo chí nói đến, cả ở Hà Nội lẫn ở Sài Gòn. Lần này bà bị chính quyền Miền Bắc qui tội gián điệp, bị bỏ tù 15 năm. Đó là sau vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, – bề ngoài là vụ án hữu khuynh chống Đảng, song thời gian đang cho thấy đây nhiều phần là vụ thanh toán các nhà văn gốc Miền Bắc bởi Tố Hữu, một cán bộ văn vần kém cỏi nhưng đắc thế, đầu óc nặng nề địa phương tính, lệt sệt mặt đất vì mặc cảm thua tài nhưng lại ở đỉnh cao của Đảng, phóng dọi qua lăng kính chủ nghĩa để thành cao viễn mà nạn nhân 99% là trí thức văn nghệ sĩ quê quán vùng Sông Hồng: Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Thụy An, Hoàng Cầm, Văn Cao, Quang Dũng, Nguyễn Bính, Trần Dần… [gốc Bắc mà thoát nạn là vì biết sợ như Nguyễn Tuân, im lặng như Thế Lữ, hay thỏa hiệp từ đầu như Nguyễn Đình Thi]. Tố Hữu tuy đã chết, song chủ trương của đồng bọn / có thể ví như bọn kiêu binh tam phủ thời Hậu Lê / vẫn còn đang hoành hành từ Bắc vào Nam. Trong vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, 304 người bị gọi đi tập trung chỉnh huấn, nhưng có 4 người chống lại không đi, trong có Thụy An Hoàng Dân.       Bị tù vì tội gián điệp (vì liên hệ với một người bạn ngoại quốc), bà Thụy An đã khắc lên tường phòng giam số 12 ở nhà pha Hỏa Lò câu sau đây: “Tại nơi này, tôi dã dùng đũa chọc, hủy bỏ một con mắt của tôi để phản đối chế độ cộng sản phi nhân, đàn áp dã man văn nghệ sĩ.” Bà từ trần ngày 10 tháng 6.1989 tại Sài Gòn. Truyện ngắn Giết Chó sau đây, đăng lần đầu trên Tạp chí Phổ Thông của Hội cựu Sinh viên Trường Luật Hà Nội, (số đôi 19-20, tháng 6-7.1953, trang 109), cho thấy Thụy An đã chống Cộng sản ngay từ lúc ấy. Đương thời, hoạt động vào ban đêm của Việt minh Cộng sản thường bị chó phát giác; như phát giác trộm đạo, nên họ đi tới đâu, chó sủa tới đó, vì vậy chó trở thành kẻ thù sớm nhất của “cách mạng”. Truyện này viết cách đây đúng nửa thế kỷ cho thấy Thụy An Hoàng Dân vẫn xứng đáng là nhà văn nữ xuất sắc nhất Việt Nam, như lời Vũ Ngọc Phan viết về tác giả Một Linh Hồn từ năm 1942. *** Thụy An sinh tại Hà Nội, nhưng quê gốc ở làng Hòa Xá, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội), là con ông Lưu Tiến Ích và bà Phùng Thị Tôn. Có khiếu thơ văn từ nhỏ nên năm 13 tuổi, bà đã có thơ đăng trên báo Nam Phong (1929) và 3 năm sau, lại nhận được giải thưởng văn chương của Triều đình nhà Nguyễn. Chồng Lưu Thị Yến là nhà văn, nhà giáo Bùi Nhung bút hiệu là Băng Dương, em ruột học giả Bùi Kỷ. Nhưng sau khi bà sinh được 6 người con, thì ly thân với chồng từ 1949. Người tình của Lưu Thị Yến là ông Đỗ Đình Đạo, một nhân vật quan trọng của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau ông Đỗ Đình Đạo chết vì một nguyên do còn nhiều nghi vấn. Trong thời kỳ Nhân Văn–Giai Phẩm, nhà văn Phan Khôi nhận Lưu Thị Yến là con nuôi. sau khi báo Nhân Văn và Giai Phẩm bị đình bản, bà bị bắt năm 1958 và trong phiên tòa ngày 21 tháng 1 năm 1960 xét xử bà tại Hà Nội, nhiều nhân chứng đều cho rằng bà đã có ảnh hưởng không nhỏ đối với một số văn nghệ sĩ tham gia phong trào này. Tuy nhiên, những người trong cuộc như Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt phủ nhận sự tham gia của bà trong nhóm. Bà bị kết án cũng như Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù. Năm 1973, Lưu Thị Yến cùng với Nguyễn Hữu Đang, cũng bị tù vì vụ Nhân Văn–Giai Phẩm, được thả trong diện "Đại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris". Vào Thành phố Hồ Chí Minh, bà quy y ở Chùa Quảng Hương Già Lam năm 1987 và mất năm 1989, tại nhà riêng ở đường Lê Văn Sỹ. Mời các bạn đón đọc Một Linh Hồn của tác giả Thụy An.
Đám Ma Tôi
"Đám ma tôi" được nhà xuất bản Tân Việt ấn hành lần thứ nhất vào tháng 11 năm 1940, khi thi sĩ Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi. Song nhiều ý kiến cho rằng, có thể tập văn xuôi này được ông viết sớm hơn hoặc có ý định viết từ mấy năm trước đó. Nội dung "Đám ma tôi" thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống - chết ở đời. Điều đặc biệt là thay vì chọn làm người sống để nói về người chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng làm ngược lại, chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”. Cụ thể, trong tập văn xuôi, thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ. “Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa. Bằng giọng văn giễu cợt không chút kiêng kỵ trong “Đám ma tôi”, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay... Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”. *** Viết về cái chết, trước Đinh Hùng (1940) có thi sĩ Hàn Mạc Tử với những vần thơ ngập tràn cô đơn và cõi chết đau thương. Đọc 'Đám ma tôi', đặc biệt đoạn gần cuối, khi người thiếu nữ Hoài yêu say, yêu đắm năm xưa vô tình lạc bước, nàng để ý đến một nấm mồ vì nó điêu tàn nhất nhưng lại bỏ qua dòng chữ khắc mờ trên mộ chí mà chàng Hoài Điệp nằm đó từ năm 17 tuổi, không khỏi liên tưởng đến những câu thơ rất liên quan của Hồ Dzếnh “Nằm im dưới gốc cây tơ/ nhìn xuân trải lụa trên tờ lá non”, và bài thơ tuyệt diệu “Tưởng chuyện ngàn sau”: “Nằm đây, tưởng chuyện ngàn sau/ lung linh nến cháy hai đầu áo quan/ gió lìa cành lá không vang/ tin ta vĩnh quyết trần gian hững hờ!” “… Ta nằm trong ván trông ra/ tủi thân vì thấy người hoa vẫn cười!/ ta toan... giận dỗi xa đời/ chợt hay: khăn liệm quanh người vẫn thơm/ nát thân, không nát nổi hồn/ lẫn trong cái chết vẫn còn cái đau!” 'Đám ma tôi' của tác giả Hoài Điệp (tức thi sĩ Đinh Hùng), do Tân Việt ấn hành lần thứ nhất năm 1940, vừa được Công ty sách Thư Books và NXB Phụ nữ liên kết tái bản tháng 7.2021. - Cảo Thơm - *** Tập văn xuôi Đám ma tôi của tác giả Hoài Điệp (thi sĩ Đinh Hùng), quan niệm về sự sống, cái chết do Tân Việt ấn hành lần thứ nhất năm 1940, vừa được Thư Books và NXB Phụ nữ cho tái ngộ độc giả sau 81 năm. Thi sĩ Đinh Hùng thể hiện câu chuyện người con trai 17 tuổi kể trong lúc cậu đang nằm chết, cậu chết đi trong một buổi chiều khi còn là đứa trẻ ngây thơ: " Tôi chết nằm im trên giường, hai tay buông xuôi, mắt nhắm nghiền, ngực không còn thoi thóp.” Chết là việc thản nhiên với cậu bởi có sống ắt sẽ có chết, điều đáng mừng là cậu không phải sống đến tám mươi năm trời ngục thất như lời của ông thầy tướng năm xưa. Cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay trong một hoàng hôn nắng tắt, từng chứng kiến nhiều cuộc sinh ly tử biệt, từng khóc cho những người đi mãi không về nhưng cậu vẫn chưa thể lý giải được ý nghĩa của sự ly trần. Những trăn trở của cậu được thể hiện qua ngòi bút tài hoa của thi sĩ Đinh Hùng. Đám ma tôi ra mắt độc giả năm 1940, khi Đinh Hùng vừa mới 20 tuổi, cũng có thể được viết sớm hơn khi ông mới 16 - 17 tuổi, thể hiện cách nghĩ của chàng trai trẻ đối với đời sống xung quanh, về quan niệm sống-chết ở đời. Thay vì chọn làm người sống để nói về kẻ chết như cách tư duy thông thường, Đinh Hùng chọn làm người chết để nói đến “từng những đời sống rải rác ở đây, ở đó, từng những cuộc đời chiêm bao”. Tập văn xuôi tràn ngập chất thơ, định danh một “thi sĩ Đinh Hùng” Trong câu chuyện của thi sĩ Đinh Hùng, nhân vật của ông sao nhiều nước mắt quá, nào là mẹ góa, chị gái, anh trai… ai cũng nức nở, sụt sùi, mắt đỏ hoe. Với cậu con trai, chết là sự sung sướng, giản dị hơn cả việc làm quan hay lấy vợ đẹp. Thân xác bất động trên giường kia được mặc cho áo đẹp, chỉnh tề, hương trầm bay nghi ngút, tiếc là không thể lượn lờ đi chơi với bộ cánh người ta mặc cho. Cậu bất lực nhìn người thân họ hàng chọn cho mình nào quan tài, xe ngựa, nơi chôn cất… Khi mặt trời ló dạng, mọi người đều thức giấc, riêng cậu vẫn thờ ơ với buổi bình minh “vì đã đi hết cuộc đời, sang đến hoàng hôn”. Cậu nằm đó, chứng kiến “tình thương” của người thân và những cuộc “thương vay” của hàng xóm láng giềng, bạn bè của họ và của cậu. Cậu trai mới mấy ngày trước còn chơi bời vui vẻ nay tỏ ra giác ngộ, “có chết đi mới biết rằng người ta yêu nhau!”. Nếu không nằm bất động, e là cậu không có dịp chứng kiến bạn bè mình tập trung lại đông đủ cùng một lúc như thế, chuyện có lẽ chỉ xảy ra khi cậu nảy ra ý định cưới vợ nếu còn sống thêm, nhưng lúc này cậu đã chết rồi, mang theo những món nợ trần gian, tiền bạc chưa kịp trả. Cậu nằm đó, lắng nghe những cuộc đối đáp, than van, Đinh Hùng viết: “người nào cũng tìm được câu để nói, nhưng người nào giỏi thì tìm được thêm nguồn sầu để khóc, và khóc với đủ tự do cá nhân”. Cái bản mặt cậu dưới tờ giấy bản có lẽ là sự hiếu kỳ lớn đối với người đến thăm viếng, ai cũng muốn nhìn mặt người chết lần cuối, dù đã nhẵn mặt, với vẻ kính cẩn lạ kỳ. “Chết đi, bạn ạ, chết đi để được hưởng những thú vị quái lạ”. Một cái xác bất động, tưởng như bỏ đi, sai khiến cùng lúc mọi người làm những việc khác nhau, hoặc nằm nghe tiếng não nùng của con gà tận số nào đó vừa bị cắt tiết. Vì không có việc gì làm, cậu trở nên triết lý: “Thì ra cũng có cái chết nầy và cái chết khác, nếu không sao lại có khi hàng vạn con người chết chôn một lúc mà chẳng lôi theo được một mạng con gà?” Cái “tôi” nằm đó với hai bàn tay trắng nhận lấy tặng phẩm của đời lần cuối, chết đi để lại niềm tiếc thương trong lòng người ở lại trần gian và cả những lời tán thưởng không đáng có, không bao giờ có khi còn sống… Chết với cậu là hết, không lời trối trăng bởi lúc sống đâu có ai nghe tiếng lòng cậu nói, không vướng víu nợ đời như những người đang vây quanh cậu lúc này. Người sống tỏ ra thương hại người chết, người chết thì thương hại người sống một cách thành thực. Cỗ quan tài bắt đầu rời nhà cậu, đi vào một con đường thanh vắng, “hai bên đường có cây xanh. Đằng xa là dáng buồn lả lướt của những cánh đồng lúa non”. Nơi cậu nhập tịch thật tịch mịch, xa tiếng ngựa xe thành thị. Những đôi mắt không hẹn cùng trào lệ, những lời sau cuối được thốt ra trước khi hạ huyệt. “Ở đây ai khóc thương được hãy cứ khóc thương, ai thản nhiên được hãy cứ thản nhiên cho nhiều”, linh hồn cậu bâng quơ nghĩ ngợi khi người phu đào huyệt đắp đất lên cỗ quan tài đang nằm sâu dưới lòng đất. Người sống từ giã người chết lần cuối, một lần trong muôn thuở. Khi họ rời đi, linh hồn cậu rồi sẽ bắt đầu những chuỗi ngày lưu lạc, linh hồn ấy không vội rời đi liền theo gót chân đoàn người đưa tang để lại cái xác đơn chiếc làm gì. Một ngày gần nào đó, linh hồn cậu sẽ “đi đây, đi đó, ra ngoài đất khách, ra ngoài quan san… Rồi mùa đông sau biết đâu nó chẳng trở về nhìn cuộc điêu tàn đời nầy kết liễu?” Tấm linh hồn lưu lạc viễn xứ để lại cái xác dưới hố sâu cô đơn khinh đời nằm vắt từ bình minh này sang đến hoàng hôn khác, để lại dưới huyệt sâu cái thân xác trong lòng đất ẩm thấp, “cái xác khô có rùng mình hay không, nào ai được biết?” Xác thân cậu nằm đó, ngày này qua tháng nọ, “ngày xưa trong cái vô tình của lòng người sống, ngày nay trong cõi lạnh lùng của đất thờ ơ”. Như một lẽ tự nhiên, rồi sẽ có lúc người ta cũng thờ ơ với những dòng chữ đìu hiu khắc mờ trên mộ chí. Tập văn xuôi về sự chết nhưng tràn ngập chất thơ, chất thơ về sau định danh một “thi sĩ Đinh Hùng” lừng danh trên thi đàn muôn thuở. Qua Đám ma tôi, qua giọng văn giễu cợt mọi thứ không chút kiêng kỵ, Đinh Hùng đã sáng tác một bài thơ chia ly “để thấy lòng mình đơn chiếc”, “vẽ phác bóng một rừng người qua mắt để trông, nhìn vài cảnh tượng hay hay… Tôi sống trước để mà cảm trước, tôi chết từ khi đang sống để hiểu thêm ý nghĩa đời này”.   Mời các bạn đón đọc Ðám Ma Tôi của tác giả Hoài Điệp.