Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bãi Bờ Hoang Lạnh

Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khoác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu Lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Trong số đó thì Bãi bờ hoang lạnh cũng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với những câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Cuốn tiểu thuyết mở ra với bối cảnh là một bãi bờ ven biển heo hút thời hòa bình, chỉ vỏn vẹn bốn căn chòi với ba người đàn ông độc thân sinh sống. Ba người họ mang trong mình những số phận riêng biệt, đều là những nỗi khổ, dằn vặt nhưng không có ai có thể san sẻ cùng ai. Bãi biển đã chết, sự có mặt của ba người này càng làm cho nó quạnh quê giá lạnh hơn. Thế rồi một ngày, cô họa sĩ Dung - một người đàn bà đẹp đã từ thành phố xuống và nhậm cư vào cái xóm nhỏ ven biển này. Cô gái ấy là ai? Liệu giữa họ đã từ có sợi dây ràng buộc gì trong quá khứ? Cuộc sống nơi đây từng chút từng chút một thay đổi cùng với sự xuất hiện của cô Bãi bờ hoang lạnh nhưng tình người thật ấm áp. Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cụng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thưc. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Vào lúc nửa đêm, không gian chỉ toàn những gầm gào của sóng của gió và thời gian lại dường như ngưng đọng đạc sệt, dẻo quánh, người đứng đầu thị trấn đột nhiên bị dựng dậy bởi hàng loạt những tiếng đập cổng bấn loạn vô hồi. Chưa đến ba mươi tuổi, tráng kiện săn rắn hệt một gã thuyền chài chuyên đi săn bắt cá lớn ở khơi xa, không thích lấy vợ nhưng lại ưa dính dáng đến đán bà, chủ tịch thị trấn nhanh tỉnh như sáo, cây súng ngắn nhét hờ dưới gối được chuyển thành thạo lên tay. Tiếng đập cổng vẫn riết róng đến vô lễ, đến hỗn hào. - Cái gì thế? Cái gì vậy? - Chủ tịch hỏi gay gắt. Một bóng người cao lớn, ở trần, mặc độc chiếc quần cụt đã đứng choán ngay trước mặt anh. Trong đêm tối chỉ thấy một đôi mắt trợn ngược, một hàm răng nhe ra trắng ởn, một đống những râu và tóc dữ tợn rậm rì. Giọng chủ tịch thị trấn chợt dịu xuống: - Có gì không Quang? Vào nhà đã? Đừng đứng đó lạnh. Một tiếng cười khô và nhạt thếch. Sau đó là tiếng nói khàn khàn vọng âm như được phát từ trong đất đai, trong chum vại: - Bạn bè coi thường nhau hả? Sao lại không có gì? Không có gì mà dám đến đá cổng lão chủ tịch lúc nửa đêm này à? Láo! - Ừ thôi, cho xin lỗi đi! - Chủ tịch nhăn nhó - Mình vừa đi họp về, mệt quá! Vào nhà uống bậy ly rượu cho ấm bụng đã rồi có gì ta tính. - Bây giờ không phải lúc - Con mắt trắng đã xếch lên - Chủ tịch mà chỉ lo uống rượu say mèm trong khi ngoài bãi chúng nó đang tụ tập làm bạo loạn hả? Láo! - Cái gì? Ai bạo loạn? Ở đâu bạo loạn? Bãi nào? - Chủ tịch hỏi giật giọng. - Khắc ra khắc biết. Vui lắm! Ông cố nội nó! Nói xong, để văng ra một tiếng cười nhạt thếch nữa, bóng đen ngoắt người đi luôn. Vai rộng, bụng thon, đùi nhái… Anh ta đi xiêu xiêu ra biển, in vào nền trời màu cháo loãng, đẹp như một pho tượng đá biết chuyển dịch trong thế giới cổ tích, huyền thoại âm thầm. Nhoáng lát, guồng máy bạo lực của thị trấn được bôi trơn phát nổ rầm rầm. Hơn năm chục con người súng ống tua tủa, nai nịt đầy người, đằng đằng sát khí đã tề tựu đầy đủ. Với cây súng nhỏ xíu trên tay, chủ tịch Lân trực tiếp chỉ huy trận càn mang ý nghĩa tổng lực vào đêm tối, nom anh đẹp ra đáng. Bộ quân phục năm xưa còn giữ được tóc bay tung, giày Adidas đế mềm, khuôn mặt vuông vức sáng láng khá hấp dẫn, anh lao lên trước, giò xoải dài hệt một chú ngựa chiến. Hơn năm chục con người cả trai lẫn gái ưu tú của thị trấn bươn bả theo sau. Một tiếng thét lạnh khí tử thần sắp vang lên: Những tiếng nổ chát chúa sắp xuyên vào da thịt con người… Một cảnh bao bủa gầm ghì rồi tiếp liền một cảnh đầu hàng còm róm… Kết cục bao giờ cũng xảy ra gọn sạch như trong băng hình VIDEO. Thường là như thế. Nhưng lần này cái màn chót mang tính bi kịch tất yếu không xảy ra. Nằm dang chân dang tay giữa vòng người thở dốc lại không phải ai khác ngoài Quang, kẻ báo tin, bức tượng âm thầm đang tạc dở. Gió mát hây hẩy, trăng bắt đầu lên… Những con người nắm bạo lực trong tay thoáng lặng đi. Vẻ đẹp hoang sơ của người đàn ông một chân đạp vào cát mịn, chân kia thọc sâu vào nước, mắt nhắm thiêm thiếp, tóc bồng bềnh, vồng ngực vuông vức đẫm ánh trăng và cát sáng, và ngoài kia sóng lại sóng cứ từng đợt, từng đợt dội về như mơn man, như khảm bạc, như muốn cuốn lấy, rủ rê đứa con của biển, của bóng đêm trở về cõi thân thuộc vĩnh hằng đá tưới rảy vào trái tim họ, cái góc trong cùng của mọi điều bừa bộn lo toan chút tĩnh lặng mơ hồ. - Thôi về nghỉ! Cám ơn các bạn. Coi như đêm nay ta tập trận giả nhân thể ngắm trăng dạo mát. Câu nói có duyên của vị chủ tịch được tán thưởng bằng sự tản ra nhanh chóng của vòng người. Thoáng thấy vài ba ánh mắt con gái kín đáo nhìn lại … Chủ tịch Lân nấn ná ở lại sau cùng. Anh khẽ khàng đắp lên tấm thân trần đang sáng dần lên chiếc áo bludông màu bộ đội vừa được cởi ra của mình, lầm bầm nói một câu gì đó rồi đứng dậy rảo bước theo dòng người. Mời các bạn đón đọc Bãi Bờ Hoang Lạnh của tác giả Chu Lai.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

3.3.3.9 Những Mảnh Hồn Trần
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách 3.3.3.9 Những Mảnh Hồn Trần của tác giả Đặng Thân. Đỗ Lai Thúy (Nhà lý luận phê bình văn học) Trước Đổi mới và Mở cửa, 1986, một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu như “Bến quê”, “Bức tranh”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”… gây cho người đọc nhiều băn khoăn, bối rối. Báo Văn nghệ bấy giờ, tôi nhớ, đã mở một hội thảo, triệu các nhà văn, nhà phê bình khả kính về để cùng đọc cho ra. Vốn quen với những truyện có cốt truyện, con người có tính cách, nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, chủ đề tư tưởng rõ ràng…, nay đọc Nguyễn Minh Châu thấy khó hiểu cũng phải. Đọc văn mới, quả thực, phải có mã đọc mới, mà mã đọc này, xét cho cùng, lại phụ thuộc vào mã văn hóa thời đại. Công lao của Đổi mới, có thể nói, đã mở ra một thức nhận: không có mã đọc vĩnh cửu, thời nào có mã đọc ấy. Chả thế, chỉ một hai năm sau đó, các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài được người đọc tiếp nhận một cách dễ dàng, hồ hởi, mặc dù “khó đọc” hơn Nguyễn Minh Châu nhiều. Ấy vậy mà hiện nay, chỉ chừng khoảng hai mươi năm sau, người đọc lại đang đứng trước một thách đố mới. Văn mới mới (nếu có thể gọi như vậy) xuất hiện ngày một nhiều. Mà khởi xướng cho lần này đa số là các nhà văn trẻ, thậm chí rất trẻ. Các tác phẩm của họ đa số là tiểu thuyết, một thể loại vốn quá ngưỡng với tư duy văn học Việt Nam… Chừng ấy những cái “ngoại biên”, “phi/chưa chính thống”, “giải trung tâm”… đó càng làm khó cho sự tiếp nhận văn học hậu-Đổi mới, tức đổi mới (không viết hoa) từ dưới lên, này. Tiểu thuyết 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân là điển hình của văn chương hậu-Đổi mới. Nó có đầy đủ những đặc điểm của tiểu thuyết hậu-hiện đại. Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra hai đặc điểm: sự phân mảnh và tính diễu nhại. Sự phân mảnh này làm cho cái Một, cái Duy nhất trở thành cái nhiều, chứ không phải cái-không-có-gì. Một câu truyện, mà thường là “chuyện lớn”, trở thành nhiều câu chuyện, một trung tâm trở thành nhiều trung tâm, một tư tưởng trở thành nhiều tư tưởng. Mà câu chuyện nào, trung tâm nào, tư tưởng nào cũng đều quan trọng như nhau cả, nếu có hơn kém là tùy ở hệ quy chiếu của người đọc. Nhân vật của 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] cũng vậy, thực ảo lẫn lộn. Trong đó, tác giả không phải chỉ là kẻ dẫn chuyện, mà là một nhân vật trong truyện, như các nhân vật khác. Có thể, vị thế “chân trong chân ngoài”, hoặc hoàn toàn là “người trong cuộc” này làm cho tính diễu nhại Đặng Thân trở thành tự diễu nhại. Người đọc cũng tự diễu nhại. Biết nhìn mình như một kẻ khác, nhất là có thái độ với mình vừa nghiêm túc vừa hài hước, bao dung là bước đầu của sự thức tỉnh. Tiểu thuyết Đặng Thân, tuy là một cuốn sách in để đọc, nhưng lại có kết cấu như thể của một tiểu thuyết mạng. Câu chuyện trôi chảy tự nhiên, nhiều khi phụ thuộc vào những nhân vật chen ngang. Đó là một tác phẩm mở. Nếu coi những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là văn chương hiện đại, thì tiểu thuyết Đặng Thân là hậu-hiện đại. Xã hội ta chưa đi hết con đường hiện đại hóa. Hiện đại vẫn vừa là ga đến cũng lại là ga đi. Nên, người đọc Đặng Thân hôm nay mới bước đầu có sự bức xúc xã hội và những bức xúc thẩm mỹ hậu-hiện đại, chưa có được bề dày như của người đọc Nguyễn Huy Thiệp ngày xưa. Nhưng, công nghệ tin học bây giờ đang san phẳng thế giới. Một mã đọc mới phù hợp với thời-hiện-nay đã hình thành trong văn học thế giới và đang hình thành trong văn học Việt Nam. Nên điều không thể, hoặc tưởng như không thể, đang lừng lững trở thành có thể. 1/2010 – Đ.L.T *** Tóm tắt 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tiểu thuyết hậu hiện đại của nhà văn Đặng Thân, được xuất bản năm 2009. Tác phẩm gồm 60 chương, được viết theo lối phân mảnh, không có cốt truyện thống nhất, nhân vật không có tính cách rõ ràng, không có chủ đề tư tưởng rõ ràng. Câu chuyện xoay quanh một nhóm bạn trẻ, gồm: Thiện: Một nhà văn trẻ, đang vật lộn với cuộc sống và sự nghiệp của mình. Trang: Một cô gái xinh đẹp, nhưng có cuộc sống nội tâm phức tạp. Dũng: Một chàng trai giàu có, nhưng có lối sống buông thả. Quyên: Một cô gái ngây thơ, nhưng có trái tim nhân hậu. Bên cạnh đó, tác phẩm còn có sự xuất hiện của nhiều nhân vật khác, như: Nhà tiên tri: Một người đàn ông bí ẩn, luôn xuất hiện trong những giấc mơ của Thiện. Cô gái trong gương: Một hình ảnh phản chiếu của Thiện, tượng trưng cho những mặt tối trong tâm hồn anh. Chú mèo đen: Một biểu tượng của sự ma mị và bí ẩn. Review Theo nhà lý luận phê bình văn học Đỗ Lai Thúy, 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tác phẩm điển hình của văn chương hậu hiện đại. Nó có hai đặc điểm nổi bật là sự phân mảnh và tính diễu nhại. Sự phân mảnh thể hiện ở chỗ tác phẩm không có cốt truyện thống nhất, không có nhân vật chính, không có chủ đề tư tưởng rõ ràng. Câu chuyện được kể theo lối đa tuyến, nhiều nhân vật, nhiều tình tiết, không theo một trật tự nhất định. Điều này khiến cho người đọc phải tự tìm cách giải mã, liên kết các mảnh ghép lại với nhau để tạo thành một bức tranh toàn cảnh. Tính diễu nhại thể hiện ở chỗ tác phẩm sử dụng nhiều thủ pháp trào lộng, giễu cợt để châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu của xã hội. Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh, ngôn từ gây sốc để tạo ra hiệu quả châm biếm mạnh mẽ. Ý nghĩa 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tác phẩm mang tính chất phản ánh hiện thực xã hội một cách sâu sắc và đa diện. Tác phẩm đã thể hiện một cách chân thực những mâu thuẫn, xung đột trong cuộc sống của con người hiện đại. Bên cạnh đó, tác phẩm còn mang tính chất phê phán, lên án những thói hư tật xấu của xã hội. Đánh giá 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tác phẩm văn học xuất sắc, có giá trị nghệ thuật và tư tưởng cao. Tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, tác phẩm cũng có một số hạn chế, như: Nội dung và ý nghĩa của tác phẩm còn khá mơ hồ, khó hiểu đối với một số người đọc. Tác phẩm sử dụng nhiều ngôn từ gây sốc, có thể khiến một số người đọc cảm thấy khó chịu. Nhìn chung, 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] là một tác phẩm đáng đọc, đặc biệt là đối với những người yêu thích văn học hậu hiện đại.   Mời các bạn mượn đọc sách 3.3.3.9 Những Mảnh Hồn Trần của tác giả Đặng Thân.
Thoạt Kỳ Thủy
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Thoạt Kỳ Thủy của tác giả Nguyễn Bình Phương. Thoạt kỳ thủy, tác phẩm mới nhất của Nguyễn Bình Phương, viết xong từ tháng 8 năm 1995, nhưng đến tám năm sau, tháng 8 năm 2003, tác giả mới "chỉnh sửa" lại để in và để được in, nhà xuất bản Hội Nhà Văn đã phát hành tại Hà Nội đầu năm 2004. Nghe đâu, phần "chỉnh sửa" cũng mất hàng trăm trang. Đối với một cuốn sách nhỏ, 163 trang, "chỉnh sửa" như thế là nhiều và có lẽ đó là một trong những lý do khiến người đọc đôi lúc có cảm tưởng hụt hẫng, không hiểu gì cả. Nếu Thoạt kỳ thủy được in cùng thời với tập trường ca Khách của trần gian (nxb Văn Học, Hà Nội, 1996) thì có lẽ người đọc dễ tiếp nhận hơn, vì thơ "dẫn" cho văn, văn "vận" vào thơ, bởi Bình Phương là nhà văn có "căn" thơ và giữa hai tác phẩm lấp ló những đầu mối chung của một "luận đề", nếu chúng ta công nhận có một luận đề trong Thoạt kỳ thuỷ. Thoạt kỳ thủy là một cuốn tiểu thuyết khác thường, khó đọc, bởi lối hành văn và cấu trúc truyện rất lạ, một thứ "thoạt kỳ thủy" trong văn chương mang dấu ấn sáng tạo. Nhưng sáng tạo nếu chỉ lạ, chỉ kỳ không chưa đủ, còn phải có gì khác nữa. Vậy đâu là những yếu tố "khác" trong tác phẩm "kỳ thủy" này? Trước tiên, trong Thoạt kỳ thủy, Bình Phương không liên lạc sự kiện, diễn biến với nhau. Trước mỗi bối cảnh, người viết như muốn ở cùng vị trí với người đọc, để cùng quan sát, tiếp thị. Tác giả không đứng ở vị thế chủ thể sáng tạo, mà chỉ muốn là một kẻ ghi chép, không hơn không kém. Mấy ai để ý đến những đứa trẻ? Đến những đứa trẻ chết già này? Ai biết Bình Phương sinh ngày 29/12/1965? Ai biết bối cảnh vào đời, hay vào cõi của những người khách trần gian cùng chung một "thoại kỳ thủy" như Tính? Vậy bây giờ chúng tôi mời bạn vào thăm vùng đất ấy, vùng chôn rau cắt rốn của Tính và những đứa trẻ chết già: Thoạt kỳ thủy, màn mở, chưa thấy người, nhưng bạo lực đã xuất hiện: con cú bị một vật gì bằng ngón tay cái ném trúng ngực, rơi xuống sông, và dòng nước -vẫn thong thả chảy như chẳng có chuyện gì xảy ra- vô tình băng bó vết thương cho con vật. Rồi người xuất hiện, với cử chỉ thô tục (vạch quần đái) làm ô uế dòng nước, làm vẩn đục môi trường, làm tha hóa dương gian với những cục cằn và tàn nhẫn, bằng lời nói và hành động. Phước, người cha, kẻ thống trị trong gia đình, hơi có máu điên, là một tay nghiện ngập, thô lỗ, chỉ biết thượng cẳng chân hạ cẳng tay, lúc thèm rượu gặm đít chén canh cách, sẵn sàng tặng cho con (còn trong bụng mẹ) những cú đá điếng người và thích cho nó nghe (vẫn từ trong bụng mẹ) những âm thanh cục cằn, những lời lẽ coi rẻ mạng người như rác. Những lời khinh mạn khi nói về mạng người "Thiếu đếch gì, còn khối!", vừa như muốn dọa trước: mày còn muốn "chào đời" nữa không? vừa biểu hiện "mặt bằng" của một xã hội lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh nhân mạng, bởi từ trên xuống dưới, chẳng ai coi mạng người ra "cái đếch" gì. Liên, người mẹ, sau khi bị đánh, đi vào núi Hột đập đá. Và nàng cứ chung thân sống kiếp khổ sai đập đá. Liên không có khả năng phản hồi, trong nàng, tất cả đều tê liệt. Trăm phầm trăm tê liệt: Liên thuộc lớp người cầu an, thấp cổ bé miệng, bị ngược đãi, bị bạo hành, nhưng không có cách gì khác ngoài việc cộng sinh với kẻ bạo hành, đẻ ra đứa con là Tính. Liên và Hiền, vợ Tính sau này, là hai người phụ nữ, biểu dương tâm thức cộng đồng, tâm thức bầy đàn, chịu trận. Muốn yên, họ đành câm nín, chịu đựng, sống cho qua ngày. Người tạo ra bạo lực, người dồn nhau trong bạo lực, người sống trong bạo lực, nhưng không chỉ có người dồn người trong bạo lực. Ở đây, cả đến cây, cỏ, chim chóc, cả đá cũng bị bạo hành. Núi Hột bị đập, bị khoét vẹt một nửa "như một cơ thể bị mất thịt, rướm máu".  Thoạt kỳ thủy là một bài thơ dài đẫm máu và nước mắt, đẫm tang thương, đầy huyễn mộng, viết về hành trình của một cộng đồng, dù đã nửa phần điên loạn, vẫn không biết mình đang đi dần đến toàn phần điên loạn. Khởi đi từ cá nhân một đứa trẻ, lọt lòng mẹ vô tội, đến trưởng thành máu mê, tự diệt. Thoạt kỳ thủy là hậu quả việc trồng người trong môi trường thường trực kích động chiến tranh. Là chuyện nhỡn tiền nhân quả. Là thế giới con người trong vòng u mê, tử khí. Thoạt kỳ thủy khởi tố những cách dìu dắt trẻ thơ về những con đường chém giết, là hồi chuông cảnh tỉnh, báo hiệu những nguy cơ của mảnh trần gian lấy bạo lực và dốt nát làm cẩm nang giáo dục con người. *** Tiểu sử     Ông Phước: Người nhỏ, đầu nhỏ, tóc cứng. Cao 1 mét 50, tiếng khàn, da tái, có ba nốt ruồi ở dái tai phải. Nguồn gốc gia đình không rõ. Chết vì cảm lạnh. Thọ 53 tuổi.   Bà Liên: Cao, đẫy, tóc dài, cằm nhọn, mặt nhiều nếp nhăn. Xuất thân từ gia đình công nhân. Sơ tán sang Linh Sơn cùng cô Nheo. Kém ông Phước 4 tuổi. Cuối đời bị mù. Chết vào 2 giờ sáng ngày 8 tháng Chín. Thọ 58 tuổi.   Ông Sung: Chức vụ: Xã đội trưởng. Vợ liệt, không con, không họ hàng thân thích. Ghét rượu, ghét đàn bà. Thích súng và có nhu cầu được trọng vọng. Sau đợt đưa tân binh lên biên giới phía Bắc, không thấy quay về xã.   Cô Nheo: Người như củ nhân sâm. Sơ tán sang Linh Sơn cùng bà Liên. Không có đặc điểm gì đáng chú ý. Chết vì bệnh.   Ông Ðiện: Thấp, da hồng hào, bóng, một mắt mắc tật nháy. Giỏi nghề mổ lợn. Yêu quý vợ, con. Chết cháy.   Nam: Trẻ, thực dụng. Nghe đồn hy sinh ở Trùng Khánh.   Ông Thụy: Bần cố nông, quê gốc ở Thanh Hóa. Từng đi phu cho Pháp. Mắt dài, tai to, răng móm. Chân rộng bản, thẳng, chắc. Sau khi ông Ðiên chết thì ông Thuỵ chính thức trở thành người giết lợn thuê cho cả vùng.   Ông Mịch: Cao, trắng, đẹp trai, giọng nhỏ nhẹ, kỹ tính. Sở trường: Giỏi trồng mía, trồng cà phê.   Ông Bồi: Cả gia đình sống bám vào chiếc bè vó lênh đênh trên sông, ngoài ra còn tăng gia thêm rau xanh. Không rõ nguyên nhân què. Hiện còn sống.   Bà Châu Cải: Gầy, trắng xanh. Gia đình tư sản thất thế. Sống độc thân. Mất cùng ngày, cùng giờ với ông Phước. Chôn tại bãi Nghiền sàng.   Ông Khoa: Gia đình công giáo duy nhất ở xã. Người dong dỏng, mắt sáng, cử chỉ chậm chạp. Thích nhịn. Kiếm sống thêm bằng nghề hoạn lợn.   Chú Mười: To, khỏe, da đồng hun, mũi sư tử, răng hô. Dáng ngũ đoản. Ðộc thân. Hiện còn sống.   Hưng: Con trai duy nhất của ông bà Xuân. Thương binh chống Mỹ, nhưng không có thẻ, nhiều người nghi là thương binh giả. Sống độc thân. Ðôi khi sốt đột ngột.   Hiền: Tóc đen, dày. Vai tròn, hông nở, trán mịn, đuôi mắt vút dài, hơi nheo ở cuối. Tròng mắt đen pha nâu. Khi bà Liên chết, Hiền bỏ đi đâu, không ai rõ.   Tính: Cao 1 mét 68, nặng 56 ki-lô-gam. Tai dài, lưng dài, chân ngắn. Lông tay đỏ hồng, ngón không phân đốt. Lông mày nhạt, hình vòng cung ôm nửa mắt. Tai nhỏ, mồm rộng, răng cải mả. Tiếng nói đục. Ði như vượn, ngồi như gấu. Không biết chữ.   Cú mèo: Lông hoa mơ, sải cánh dài 40 phân. Mỏ khoằm, sắc. Bị bắn rụng lúc 11 giờ 15. Bay lên lúc 12 giờ. Không rõ bay tới đâu.   Ông Phùng: Nhà văn ở Hà Nội đi kháng chiến. Sau hoà bình lập lại, không về, làm lều ở Linh Sơn để sáng tác. Có lời nguyền là khi nào đoạt giải thưởng thì mới về Hà Nội. Hình dáng ông Phùng biến hóa, không ai nhớ nổi. Bản thảo sáng tác trong thời gian sống ở Linh Sơn đã bị thất lạc hết, chỉ tìm thấy duy nhất một truyện có tên là Và cỏ.   Cô Nhai: Người quắt, giọng kim, da đồi mồi. Mắc tật hay nhổ nước bọt bậy. Hiện còn sống. Mời các bạn mượn đọc sách Thoạt Kỳ Thủy của tác giả Nguyễn Bình Phương.
Ông Bạn Đẹp
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Ông Bạn Đẹp của tác giả Guy de Maupassant & Phùng Văn Tửu (dịch). Lời giễu nhại sâu cay ẩn giấu sau một câu chuyện đời kỳ lạ và phi thường. Georges Duroy, nhân vật chính của câu chuyện, là một người... Lời giễu nhại sâu cay ẩn giấu sau một câu chuyện đời kỳ lạ và phi thường. Georges Duroy, nhân vật chính của câu chuyện, là một người đàn ông có ngoại hình xuất sắc, tương phản với tài năng và phẩm chất của anh. Vốn là điển hình của những tấm gương thất bại, anh ham vật chất, trọng sắc đẹp, yêu thích sự thoải mái, ham muốn giàu sang nhưng lại không cần mẫn và thiếu khả năng làm việc. Trong một lần được người bạn giới thiệu vào bữa tiệc của giới thượng lưu, Duroy nhận được cơ hội viết báo nhờ khả năng nói chuyện đầy thu hút của mình. Tuy nhiên, anh nhận ra mình không có sở trường về viết lách và cuối cùng anh phải nhờ đến sự trợ giúp của người vợ anh bạn thân Forestier. Bài báo đạt được tiếng vang nhất định khiến anh ngủ quên trên chiến thắng, rũ bỏ quá khứ và tiêu xài đồng lương một cách phung phí mà quên mất rằng, thành công của anh vốn không phải do một mình anh tạo nên. Từng chương truyện là từng nấc thang leo lên cấp bậc cao hơn của cuộc đời Georges Duroy. Có thể nói, đây như một phiên bản Lộc Đỉnh Ký của người Pháp, với toàn bộ giễu nhại sâu cay và những lời mỉa mai lên án thời đại. Ở đây, một người tầm thường như Duroy, nhờ những lời ngon ngọt và khuôn mặt đầy mê hoặc của mình, đã xóa bỏ lằn ranh giàu nghèo, vượt qua cả giai cấp để gặt hái địa vị và thành công trong cuộc sống. Những thứ Duroy muốn, anh luôn đạt được một cách vô cùng dễ dàng. Các thiếu nữ đổ rạp dưới chân anh, những bà quý tộc quyền quý thầm ao ước anh, cả những cô gái nhỏ cũng nghe lời anh. Phải nói, thành công lớn nhất của Duroy chính là sở hữu một khuôn mặt đẹp để trở thành "Ông bạn đẹp" của tất cả mọi người. Ở một mặt nào đó, truyện phản ánh bản chất thật sự của con người: luôn yêu thích cái đẹp. Vì vậy, trong xã hội, dù là Pháp hay Việt Nam, dù là cận đại hay hiện đại, những người có ngoại hình đẹp và một chút tài ăn nói sẽ dễ dàng có được cảm tình của người khác và đạt được nhiều thành công hơn. Đây chính là một câu chuyện mang phong cách hiện thực, với đủ loại gia vị của cuộc sống hiện đại. Nếu ai mong chờ một nhân vật chính hoàn mỹ, thành công nhờ sự cố gắng và năng lực của bản thân, có lẽ quyển truyện này sẽ không phù hợp với bạn. Qua câu chuyện, ta còn thấy được sự mục nát của giai cấp thượng lưu trong xã hội Pháp nửa sau thế kỉ XIX. Những người phụ nữ có chồng dễ dàng yếu lòng có người tình, những ông chồng nhắm mắt vờ như không hay biết, những cái nắm tay bí mật, câu chuyện trò lén lút trong những bữa tiệc xa hoa nhằm xây dựng quan hệ. Dường như những hào nhoáng bên ngoài đã khiến mọi người xem nhẹ các giá trị tinh thần và tình cảm, khiến sự mất mát khi một con người lìa đời cũng chỉ như một cái chớp mắt. Đây là một tác phẩm thú vị, hài hước, nhẹ nhàng nhưng cũng đầy thâm thúy. Không chỉ ở thế kỉ XIX tại nước Pháp ta mới có thể thấy được "Ông bạn đẹp", mà chắc hẳn lẩn khuất đâu đó trong xã hội hiện đại, đã và đang có những "Ông bạn đẹp" khác đi lên nhờ nhan sắc, cũng như tồn tại đó những môi trường mà khuôn mặt của bạn sẽ quan trọng hơn hết thảy những thứ khác. *** Tóm tắt Ông bạn đẹp là một tiểu thuyết hiện thực của nhà văn người Pháp Guy de Maupassant, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1885. Tác phẩm kể về câu chuyện của Georges Duroy, một người đàn ông trẻ tuổi có ngoại hình đẹp đẽ nhưng thiếu tài năng và phẩm chất. Nhờ vào ngoại hình và khả năng nói chuyện khéo léo, Duroy đã nhanh chóng thăng tiến trong xã hội, từ một người lính vô danh trở thành một nhà báo nổi tiếng, một nghị sĩ và cuối cùng là một thượng nghị sĩ. Đánh giá Ông bạn đẹp là một tác phẩm giàu ý nghĩa, mang đến cho người đọc nhiều bài học sâu sắc. Trước hết, tác phẩm là một lời phê phán gay gắt về xã hội thượng lưu Pháp nửa sau thế kỷ XIX, nơi mà con người bị tha hóa bởi vật chất và danh vọng. Trong xã hội đó, những người có ngoại hình đẹp đẽ và khả năng nói chuyện khéo léo có thể dễ dàng đạt được thành công, bất kể họ có tài năng hay phẩm chất như thế nào. Thứ hai, tác phẩm cũng là một lời cảnh tỉnh về sự nguy hiểm của việc chạy theo vật chất và danh vọng. Duroy đã đánh mất bản thân và trở thành một con người hoàn toàn khác khi đạt được thành công. Anh ta trở nên ích kỷ, tham lam và sẵn sàng làm mọi thứ để đạt được mục đích của mình. Cuối cùng, tác phẩm cũng là một lời khẳng định về sức mạnh của ngoại hình. Trong xã hội hiện đại, ngoại hình vẫn là một yếu tố quan trọng giúp con người đạt được thành công. Tuy nhiên, chúng ta cần phải hiểu rằng ngoại hình chỉ là một phần, và tài năng và phẩm chất mới là những yếu tố quyết định thành công của mỗi người. Ưu điểm Truyện có tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, khiến người đọc không thể rời mắt. Nhân vật Duroy được xây dựng một cách chân thực, sinh động, phản ánh những mặt trái của xã hội thượng lưu Pháp nửa sau thế kỷ XIX. Tác phẩm có nhiều bài học sâu sắc về cuộc sống. Nhược điểm Một số chi tiết trong truyện có thể khiến người đọc cảm thấy khó chịu. Truyện có thể gây nhàm chán đối với những người không thích thể loại hiện thực. Kết luận Ông bạn đẹp là một tác phẩm đáng đọc, mang đến cho người đọc nhiều bài học sâu sắc về cuộc sống. Mời các bạn mượn đọc sách Ông Bạn Đẹp của tác giả Guy de Maupassant & Phùng Văn Tửu (dịch).
Những Đứa Trẻ Chết Già
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Những Đứa Trẻ Chết Già của tác giả Nguyễn Bình Phương. Tiểu thuyết Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương khắc họa cuộc đời của những con người có cảnh sống éo le, đồng thời đặt ra câu hỏi dường như không bao giờ cũ về sự tồn tại, cái hữu hạn của đời người trong thời gian vô hạn. Văn phong đậm chất Việt, nhưng không thiếu những phẩm chất chung của các tác phẩm văn chương thế giới, kết hợp tài tình giữa cái huyền ảo hoang đường và hiện thực trần trụi, Những đứa trẻ chết già thực sự là một tác phẩm xuất sắc trong dòng tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Nếu bạn từng thích Garcia Marquez hay thấy gần gũi với những nhân vật của Nam Cao, hẳn là bạn sẽ thích Những đứa trẻ chết già của Nguyễn Bình Phương. *** Nguyễn Bình Phương sinh tại Thái Nguyên từng nhiều năm công tác tại biên giới phía Bắc. Từng biên kịch tại đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị, biên tập văn học tại Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hiện công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội.  Nguyễn Bình Phương xuất thân lính. Thi đậu trường viết văn Nguyễn Du khóa 4 anh vẫn mang quân phục lính. Ra trường chuyển về đoàn kịch quân đội, và sau đó là Nhà Xuất bản QÐND. Ở cương vị này Nguyễn Bình Phương là bà đỡ cho nhiều nhà văn với mảng văn học chiến tranh.  Những năm 90, “Những đứa trẻ chết già” là một bước tiến vượt bậc của Nguyễn Bình Phương nhưng giới văn chương tiếp nhận dè dặt, cánh phê bình im tiếng. Chỉ khi Phương thành danh với một loạt tiểu thuyết không lẫn vào ai thì họ mới ào ạt tiếp cận với đủ chủng loại lý luận gán vào thậm chí là phong thánh cho tác giả một mình một ngựa một con đường này. Sau “Những đứa trẻ chết già”, Phương tiếp tục cho ra đời một loạt tiểu thuyết cùng một phong cách không lẫn vào người khác như “Người đi vắng”, “Thoạt kỳ thủy”, “Ngồi”…và mới nhất là cuốn tiểu thuyết có số phận kỳ lạ, “Mình và họ”. Ðây là cuốn tiểu thuyết được Phương viết xong năm 2010 nhưng bị các nhà xuất bản trong nước từ chối in ấn và nó được xuất bản ở Mỹ dưới cái tên “Xe lên xe xuống”. Mãi đến năm 2014 nó mới được nhà xuất bản Trẻ chấp nhận. Ngay lập tức “Mình và họ” nhận được hoan nghênh hưởng ứng của giới văn chương và độc giả.  Mời các bạn mượn đọc sách Những Đứa Trẻ Chết Già của tác giả Nguyễn Bình Phương.