Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Anthem Bài Ca Cho Tôi (Bài Ca Tư Tưởng) - Ayn Rand

Câu chuyện này được viết năm 1937. Tôi đã biên tập lại nó cho lần xuất bản này (năm 1946-LND), nhưng đã chỉ sửa về văn phong; tôi sửa lại từ ngữ trong một số đoạn và cắt bỏ một vài chỗ dư thừa ngôn từ. Không hề có một ý tưởng hay một sự biến nào được thêm vào hay bỏ đi; chủ đề, nội dung, và cấu trúc được giữ nguyên. Câu chuyện vẫn được duy trì như lúc đầu. Tôi đã chỉ gọt dũa bề mặt chứ không động gì tới cốt lõi hay tinh thần của quyển sách; vì không cần phải sửa sang gì đối với những điều này. Một số người đọc câu chuyện ngay lần xuất bản đầu tiên đã có ý cho rằng tôi bất công đối với những lý tưởng của chủ nghĩa tập thể; họ nói, chủ đích hay giáo điều của chủ nghĩa tập thể không phải như trong sách đã nêu; những người theo chủ nghĩa tập thể không hề có ý cổ xúy hay chủ trương như thế; không ai biện hộ cho họ cả. Tôi sẽ đơn giản chỉ ra rằng cái câu khẩu hiệu "Sản xuất để sử dụng chứ không vì lợi nhuận" giờ đây (tác giả viết lời bạt này năm 1946 -LND) đang được nhiều người chấp nhận như một điều hiển nhiên, và đây là điều hiển nhiên khẳng định một mục tiêu cụ thể đáng khao khát. Nếu có thể tồn tại một ý nghĩa thông thái nào đó trong khẩu hiệu này thì nó là cái gì nếu không phải là cái ý cho rằng động cơ làm việc của con người phải là vì nhu cầu của người khác, chứ không phải nhu cầu, hay mong muốn, hay quyền lợi của chính anh ta? Lời hiệu triệu lao động cưỡng bức giờ đây đang được thực hiện hay cổ xúy ở nhiều quốc gia trên trái đất này. Nó dựa trên cái gì nếu không phải là trên ý tưởng cho rằng nhà nước là người xứng đáng nhất trong việc định đoạt xem một người có thể hữu ích cho người khác hay không, cái điều hữu ích ấy là điều đáng quan tâm duy nhất, và những mục tiêu, khao khát, hạnh phúc của chính anh ta nên bị gạt sang bên vì chẳng có chút quan trọng nào? Chúng ta có Hội đồng Nghề nghiệp, Hội đồng Ưu sinh, đủ thứ hình thức Hội đồng, bao gồm cả một Hội đồng Thế giới và nếu những thứ này chưa nắm giữ toàn bộ quyền lực trùm phủ chúng ta thì phải chăng đó là do chưa có dụng ý? "Những thành quả xã hội", "mục tiêu xã hội"… đang trở thành thuốc an thần trong ngôn ngữ hàng ngày của chúng ta. Sự cần thiết của tính hợp lý xã hội đối với mọi hoạt động và mọi dạng thức tồn tại giờ đây đang được tin là hiển nhiên. Một người vẫn có thể được lắng nghe đầy thán phục và được tán đồng nếu như anh ta tuyên bố theo một kiểu mơ hồ rằng đó là vì "điều tốt đẹp cho mọi người" dù thực ra anh ta chẳng nêu được đề xuất nào đáng chú ý. Một số người có thể nghĩ (còn tôi thì không) là chín năm trước đã có một vài biện hộ cho những người không muốn nhìn thấy con đường mà thế giới đang theo đuổi. Ngày nay có những chứng cớ hiển nhiên cho thấy không ai có thể biện hộ gì được nữa. Những người từ chối không chịu nhìn thấy giờ đây đã rõ là không phải mù, cũng chẳng phải ngây thơ. Tội lỗi lớn nhất ngày nay là do ở những người chấp nhận chủ nghĩa tập thể theo kiểu mặc nhiên giáo điều; những người tìm kiếm sự bảo vệ từ tính cần thiết của việc có một chỗ đứng, bằng cách phủ nhận với chính họ cái bản chất của những gì họ đang chấp nhận; những người ủng hộ mấy kế hoạch được thiết kế đặc biệt để đạt tới chế độ nông nô, nhưng điều này được che giấu bên dưới vỏ ngoài mỹ miều rằng họ là những người yêu chuộng Tự do, một từ ngữ được dùng mà chẳng có chút ý nghĩa cụ thể nào; những người tin rằng nội dung của lý tưởng ”của chủ nghĩa tập thể" là không cần khảo sát, rằng các nguyên tắc không cần phải định nghĩa, và rằng có thể lược giản sự kiện thực tế bằng cách nhắm một bên mắt lại. Họ kỳ vọng rằng, khi họ tìm thấy mình trong một thế giới của những tàn phá đẫm máu và của trại tập trung, họ có thể thoát khỏi trách nhiệm đạo đức bằng cách gào lên: "Tôi có định làm thế này đâu!" Những ai muốn chế độ nô lệ chắc hẳn đã có đủ lịch lãm để gọi nó bằng cái tên chính xác của nó. Họ phải đối diện với ý nghĩa đầy đủ của những gì họ đang cổ xúy hay dung thứ; cái ý nghĩa chính xác, đầy đủ, cụ thể của chủ nghĩa tập thể, của những ẩn ý luận lý của nó, của những nguyên lý hình thành nó, và của những mắt xích cuối cùng mà những nguyên lý này nhắm tới. Họ phải đối diện với nó, rồi quyết định xem đó có phải là những gì họ muốn hay không. Tháng tư, 1946 Ayn Rand *** Ayn Rand là một nhà tiểu thuyết và triết gia quốc tịch Mỹ sinh tại Nga. Bà nổi tiếng vì đã phát triển học thuyết Chủ nghĩa khách quan và vì đã viết một số tác phẩm như We the Living (Chúng ta những kẻ sống), The Fountainhead (Suối nguồn), Atlas Shrugged (Người khổng lồ nghiêng vai), For the new Intellectual (Vì giới tri thức mới) và tiểu thuyết ngắn Anthem. Là người gây ảnh hưởng rộng lớn tới nước Mỹ hậu chiến tranh thế giới thứ 2, các tác phẩm của Rand đã tạo nên sự mến mộ nhiệt thành cũng như phê phán nghiêm khắc. Tác phẩm của Rand nhấn mạnh các quan niệm tư tưởng về hiện thực khách quan, lý trí, chủ nghĩa vị kỷ, và chủ nghĩa tư bản tự do, trong khi tấn công những gì mà bà coi là không hợp lý và phi đạo đức của lòng vị tha, chủ nghĩa tập thể (collectivism) và chủ nghĩa cộng sản (communism). Bà tin rằng con người phải chọn cho mình các giá trị và hành động theo lý trí; và rằng cá nhân có quyền để tồn tại vì lợi ích của chính bản thân mình, không hy sinh bản thân cho người khác hoặc người khác vì mình; và rằng không ai có quyền chiếm đoạt những gì thuộc về người khác bằng bạo lực hay lừa dối, hoặc áp đặt tiêu chuẩn đạo đức của mình lên người khác bằng bạo lực. Tính chất lý luận của Rand được mô tả là chủ nghĩa tiểu chính phủ (minarchism) và theo chủ nghĩa tự do (liberalism), mặc dù bà không bao giờ sử dụng thuật ngữ minarchism và ghê tởm chủ nghĩa tự do. Mục tiêu rõ rệt của tiểu thuyết của Rand là miêu tả anh hùng của mình được lý tưởng hoá, một người có những khả năng và sự độc lập mâu thuân với xã hội, nhưng luôn bền gan quyết chí đạt được mục đích của mình. *** Ngay khi được đọc quyển sách đầu tiên tìm thấy trong ngôi nhà, tôi thấy từ "tôi." Và đến khi hiểu được cái từ ấy, quyển sách rơi khỏi tay, và tôi khóc. Tôi, kẻ chưa từng bao giờ biết đến nước mắt. Tôi đã khóc trong sự giải thoát và trong niềm thương xót đối với con người. Tôi hiểu được cái điều phúc mà tôi đã gọi là lời nguyền của tôi. Tôi đã hiểu được tại sao những gì tốt nhất của tôi lại trở thành tội lỗi và phạm giới; và tại sao tôi không bao giờ có cảm giác tội lỗi đối với lỗi lầm của mình. Tôi đã hiểu được rằng nhiều thế kỷ của xiềng xích và roi vọt không hề hủy diệt được tinh thần của con người cũng như cảm nhận về sự thật trong anh ta. Tôi đọc rất nhiều sách trong nhiều ngày. Rồi tôi gọi Kim Nhân, và tôi nói với cô ấy rằng tôi đã đọc và tôi đã hiểu. Cô ấy ngước nhìn tôi và từ đầu tiên mà cô ấy thốt ra là: "Em yêu người." Rồi tôi nói: "Người thương quý nhất của ta, thật không phải lối chút nào khi con người ta không có tên. Đã từng có một thời trong đó mỗi người có một cái tên để phân biệt anh ta với những người khác. Vậy thì hãy chọn tên cho chúng ta. Ta có đọc về một người đã sống cách đây nhiều ngàn năm, và trong số rất nhiều tên trong mấy quyển sách này thì tên của người đó là cái tên mà ta thích nhất. Anh ta đã lấy ánh sáng của các vị thần để trao cho loài người, và anh ta chỉ cho loài người cách để trở thành thần thánh. Và anh ta đã phải chịu hình phạt nặng nề. Tên anh ta là Prometheus." ... Mời các bạn đón đọc Anthem Bài Ca Cho Tôi (Bài Ca Tư Tưởng) của tác giả Ayn Rand.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bố, Hãy Là Một Người Đàn Ông - Janine Boissard
Câu chuyện kể về một đứa trẻ không muốn thừa nhận sự hèn nhát của cha mình. Jean Rémi, nhân vật chính trong tác phẩm, sinh ra và lớn lên ở vùng biển Morbian và luôn mơ ước được trở thành người làm vườn. Anh rất say mê thiên nhiên cây cỏ. Nhưng vào lúc anh sắp sửa thực hiện giấc mơ của mình thì anh gặp Olivia, người con gái Paris duyên dáng tóc vàng, thông minh, chị là luật sư quốc tế. Vì tình yêu, anh đã khước từ giấc mơ của mình để đến sống với người đẹp tại Paris. Anh được cha của Olivia nhận vào làm việc và thực thi thứ công việc mà anh ghét nhất: bán xe hơi. Qua năm tháng, do tính cách kiêu ngạo và hống hách của người đàn bà mà anh không còn yêu chị nữa, còn chị khi ấy lại rất coi thường anh, cho anh là kẻ đần, không có chí tiến thủ, gọi anh là looser. Anh cố cứu vãn cuộc hôn nhân vì những đứa con, muốn tặng cho các con một cuộc sống có đủ cả cha lẫn mẹ trong cùng một mái nhà. Nhưng anh lại không hiểu rằng những đứa con của anh phải chịu đựng sự lạnh nhạt giữa bố mẹ chúng một cách khổ sở. Eric, 17 tuổi bắt đầu nổi loạn, giao lưu bạn bè đến mức quá trớn. Tom, 11 tuổi thì luôn âu sầu buồn bã, cậu đành tìm quên bằng những trang sách, hay các buổi chiếu phim truyền hình dài tập trên ti vi, còn bé Colline, 3 tuổi, thì luôn nhìn lên trời tìm máy bay bay ngang cửa sổ để ngóng mẹ về hàng tuần sau những chuyến công cán dài ngày trên khắp hành tinh. Cho đến một ngày Olivia không còn chịu nổi nữa, chị tuyên bố sẽ ly dị, nhưng Jean-Rémi vẫn im lặng chịu đựng. Trong truyện, những đứa trẻ đối đáp với bố mẹ chúng thật thẳng thắn, với những lời lẽ đôi khi có phần đắng chát. Jean-Rémi có thể chịu đựng được tất cả nhưng anh không chịu đựng được cái nhìn thương hại của những đứa con. Tom buồn rầu, Cédric coi thường anh… Hơn lúc nào hết, anh cần phải hành động thôi.  Anh muốn chứng minh cho các con trai mình thấy rằng anh đang thực sự nối lại với niềm say mê của mình, nghề làm vườn và qua đó nối lại với nguồn cội của mình, trên vùng quê hương cách xa Paris phồn hoa đô hội, một vùng đầy nắng và gió. Nhưng trên hết, anh muốn lấy lại đựơc sự kính trọng của chúng, niềm tin tưởng và giành lại vị trí của người cha trong tim chúng. Cuốn tiểu thuyết là một bức tranh về gia đình thật sống động, phản ánh rất đúng sự phức tạp cũng như sức mạnh của các mối quan hệ trong gia đình. Một cuốn tiểu thuyết xúc động, đầy tình thương yêu… Mời các bạn đón đọc Bố, Hãy Là Một Người Đàn Ông của tác giả Janine Boissard.
Tôi Vẫn Nghe Tiếng Em Thầm Gọi - Takuji Ichikawa
Tiểu thuyết của Ichikawa Takuji giờ đây không còn chỗ cho sự kỳ diệu hay phép màu, chỉ còn lại những kỷ niệm trong không gian và thời gian. Có nỗi đau không mang tên, êm dịu nhưng sắc lẹm cứa vào lòng người. Tình đầu vụ vỡ của những tâm hồn méo mó nhưng đã từng ngập tràn yêu thương. Con người ta suốt cuộc đời vẫn luôn mơ về mối tình đầu, dù bất kể là nam hay nữ. Bóng dáng ấy mạnh mẽ tới nỗi đôi lúc lại trở thành một nỗi niềm ám ảnh. Hoa anh đào rơi năm centimet trên một giây. Con số ấy không chỉ là vận tốc của những cánh hoa đang thả mình mà còn là vận tốc khi chúng ta lặng lẽ bước qua đời nhau, đánh mất bao cảm xúc thiết tha nhất của tình yêu. Vậy mới nói tình yêu là điều lạ lùng nhất thế gian, tưởng chừng nhanh lẹ mà chậm dãi, tưởng chừng vững bền trường cửu nhưng lại hóa mỏng manh. Tôi vẫn nghe tiếng em thầm gọi là tác phẩm đầu tay của nhà văn Ichikawa Takuji khi ông mới bắt đầu tham gia văn đàn. Cuốn tiểu thuyết đặt những viên gạch đầu tiên cho sự thành công của Takuji, người luôn lồng ghép tình tiết kỳ bí, thần ảo để tạo ra những câu chuyện tình đau đớn, đẹp đẽ tới lặng người. Mười bảy tuổi, bị bủa vây trong bóng đen cái chết của người thân, Yuko và Satoru đã tình cờ tìm thấy nhau, như “tay phải tìm ra tay trái”. Những tưởng từ đây họ có thể khép lại những tháng ngày lạc lõng giữa thị trấn nhỏ, nơi mọi thứ luôn dừng lại ở thì quá khứ, nhưng rồi Satoru mắc bệnh và Yuko phải lên Tokyo học, tay phải cùng tay trái lại một lần nữa rời xa nhau... Là tác phẩm đầu tay của Ichikawa, cuốn sách đầy những giằng xé mãnh liệt giữa gặp gỡ và chia ly, một đặc trưng tiếp tục được nối dài trong những tiểu thuyết về sau của ông. Nhưng cũng như chính tác giả vẫn nói, sự dung hợp về tâm hồn mới là điều đáng kể, nên mặc cho những bất trắc và mất mát vẫn cứ trải dài suốt thời gian và không gian, dư âm đọng lại bao giờ cũng thế, là một tình cảm còn sâu nặng hơn cả tình yêu. *** Takuji Ichikawa sinh ngày mùng 7 tháng Mười năm 1962 tại Tokyo. Ông tốt nghiệp trường đại học Dokkyo. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Separation, xuất bản năm 2002. Cuốn Em sẽ đến cùng cơn mưa (xuất bản tại Nhật với tên Ima Ainiyukimasu) in lần đầu năm 2003, là một trong những tiểu thuyết thành công nhất Nhật Bản, được chuyển thể thành truyện tranh, kịch, phim truyền hình ở Nhật và điện ảnh tại Mỹ. Một số tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt nam: Nơi em quay về có tôi đứng đợi Tôi vẫn nghe tiếng em thầm gọi Nếu gặp người ấy cho tôi gửi lời chào Em sẽ đến cùng cơn mưa Bàn tay cho em Tấm ảnh tình yêu và một câu chuyện khác ...   Mời các bạn đón đọc Tôi Vẫn Nghe Tiếng Em Thầm Gọi của tác giả Takuji Ichikawa.
Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson
Cuộc phiêu lưu ly kỳ, tiểu sử lôi cuốn và nghiên cứu đáng ngạc nhiên về nhân vật xứ Scotland, Kidnapped (Bắt cóc) của Robert Louis Stevenson năm 1886 chưa bao giờ mất đi vị thế của nó.  Kidnapped là “tiểu thuyết cho các chàng trai” và được xuất bản lần đầu tiên dưới dạng từng kỳ trên tạp chí Young Folks từ tháng Năm tới tháng Bảy 1886. Cuốn tiểu thuyết được in thành sách lần đầu tiên bởi Cassel and Company tháng Bảy 1886. Trong Tuyển tập Stevenson, tác phẩm sở hữu cái tên dài nhất và công phu nhất trong lịch sử văn học Anh: “Hồi ký về hành trình của David Balfour năm 1751; Anh đã bị lạc như thế nào; Sống sót trên đảo hoang; Chuyến đi đến Highlands hoang dã; Làm quen với Alan Breck Stewart và những chàng Jacobite khét tiếng xứ Highlands; Mọi thứ khổ ải dưới bàn tay người chú, Ebenezer Balfour của rừng sâu giả dối. Do chính anh viết và được Robert Louis Stevenson thuật lại với lời dẫn bởi bà Stevenson”. Kidnapped được đón nhận khi xuất bản và đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà văn từ Henry James, người đã khen ngợi sức mạnh kể chuyện của tác phẩm, Jorge Luis Borges và Seamus Heaney, cùng nhiều người khác. Phần sau không tốt bằng, Catriona, được xuất bản năm 1893. Kidnapped là kiệt tác của ông, một tiểu thuyết hành động không thể nào quên đã truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn từ Joseph Conrad, John Buchan, Graham Greene đến Muriel Spark. Đây cũng là một sự trù tính hoàn hảo cho sự phức tạp của nhân vật người Scotland, nửa Celt, nửa Saxon. Giống như trong Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde, ông cũng bị ám ảnh bởi một phần nhân cách của mình, và vào năm bỏ phiếu độc lập, Kidnapped vẫn được xem là tác phẩm thiết yếu cần đọc. Tôi chọn tác phẩm này để thể hiện tính đặc Scotland của Stevenson cũng như tài năng văn chương của ông. Cuốn tiểu thuyết đơn giản đến khó tin. Mặc dù miêu tả câu chuyện của những chàng trai, với nguồn gốc từ sự thật lịch sử, nhưng tác phẩm đồng thời thể hiện nghệ thuật khéo léo của Stevenson. Quả thực Kidnapped đã hoàn thành đồng thời ba sứ mệnh đó. Thứ nhất, đó là chuyến phiêu lưu hành động đáng kinh ngạc, nơi giọng kể của Stevenson, thứ văn xuôi vô cùng súc tích, có sức mạnh mê hoặc lòng người. Ông khiến cho độc giả phải ngạt thở trong phấn khích và ngưỡng mộ. Henry James không ngờ lại là một người hâm mộ cuồng nhiệt của chuỗi chương “The Flight in the Heather” (Cuộc chiến dưới cây thạch nam). Lật đến chương X, “The Siege of the Round House” (Sự vây hãm của ngôi nhà vòng tròn) sẽ tìm thấy văn hứng của tác giả. Thứ nhì, Kidnapped lấy gốc từ một sự thật lịch sử, vụ ám sát ở Appin, Scotland tháng Năm 1752, cái chết của “con cáo đỏ”, biến đổi thành một câu chuyện phổ biến cho phần lớn độc giả lần đầu bắt gặp trên tạp chí Young Folks. Và Stevenson tiếp tục khai thác thể loại ông đang viết. Kidnapped, giống như Đảo giấu vàng, đi kèm với một tấm bản đồ, để thuyết minh rõ hơn cho câu chuyện; tựa đề các chương cũng được thiết kế để nói lên hành trình của ông: “I Run a Great Danger in the House of Shaws” (Tôi gặp nguy ở ngôi nhà trong rừng); “The Man with the Belt of Gold” (Người đàn ông với chiếc thắt lưng bằng vàng); và “The House of Fear” (Ngôi nhà sợ hãi). Cuối cùng, Kidnapped là một nghiên cứu đầy sức thuyết phục và khó quên về hai tính cách của nhân vật người Scotland. David Balfour, thuộc đảng Whig, là một chàng trai xứ Lowland Scotland dòng Presbyterian, bị bắt cóc khi bắt đầu hành trình giành quyền thừa kế từ tay người chú xấu xa Ebenezer. Alan Breck (Stewart), được Balfour mô tả là “một kẻ nổi loạn đáng kết tội, một kẻ đào ngũ, và là tay sai cho vua Pháp”, đại diện cho niềm tự hào của người Highlands sau cuộc nổi loạn Jacobite năm 1745, nóng tính, khinh suất, lãng mạn và bất hạnh, với những khúc thoại đáng nhớ. Cặp nhân vật này cùng hành động, cãi nhau, cùng nổi loạn (với Stevenson) với phong cách rất Scotland. Như bánh trái của một quốc gia giàu có, Kidnapped đơm hoa với vô số phương ngữ, “ain” (một), “bairn” (đứa trẻ), “blae” (ủ rũ), “chield” (gã bạn), “drammach” (bột yến mạch), “fash” (phiền), “muckle” (to lớn), “siller” (tiền), “unco” (vô cùng) , “wheesht!” (suỵt!), và hàng tá nữa. Tiếng vùng Scotland bằng cách nào đó giúp Kidnapped có một sức mạnh không bao giờ mệt mỏi, nhưng bên trong lại ảm đạm. Stevenson, qua giọng Balfour, bày tỏ điều này khi anh thoát khỏi “phần tăm tối nhất của cuộc hành trình… Ransom ở bên dưới, Shaun chết trên sàn nhà, hay Colin Campbell (con cáo đỏ) túm lấy ngực áo khoác của hắn…” Tất nhiên Balfour đã sống sót, nhưng tất cả mọi người khác đều có số phận phải chết. Còn Stevenson đột ngột ra đi bởi một cơn đột quỵ trên biển Samoa ngày 3/12/1894, năm 44 tuổi. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Tác phẩm: Bắt Cóc Mũi Tên Đen Đảo Giấu Vàng Bác sĩ Jekyll và ông Hyde ... *** Mời các bạn đón đọc Bắt Cóc của tác giả Robert Louis Stevenson.
Người tình Hoa Bắc - Marguerite Duras
7 năm sau thành công với “Người tình”, Marguerite Duras một lần nữa trở lại với câu chuyện tình yêu ám ảnh giữa cô bé người Pháp mới lớn và chàng thanh niên Trung Hoa. Tiểu thuyết “Người tình Hoa Bắc” của bà vừa được xuất bản bằng tiếng Việt. Mở đầu cuốn Người tình Hoa Bắc, Duras viết: “Tôi được biết anh ấy đã qua đời. Đó là vào tháng 5/1990, cách đây một năm. Tôi chưa bao giờ từng nghĩ đến sự ra đi của anh ấy. Người ta còn nói với tôi rằng anh được an táng tại Sa Đéc, rằng ngôi nhà màu xanh vẫn luôn ở chỗ đó, nơi gia đình và con cái anh cư ngụ”. Cuốn sách ra đời năm 1991 - một năm sau khi ông Huỳnh Thủy Lê - nguyên mẫu người tình của nhà văn mất. Cái chết của ông dường như đã làm sống dậy những ký ức đã trôi qua hơn nửa thế kỷ trong tâm hồn cô bé da trắng. Một lần nữa khai thác lại mối tình cũ, nhưng theo dịch giả Lê Hồng Sâm, Người tình Hoa Bắc thể hiện những cảm nhận khác biệt về nhân vật, về lối viết. Theo bà, nhân vật người tình trong cuốn tiểu thuyết thứ hai của Duras “táo bạo hơn, cường tráng hơn, tuấn tú hơn”. Nếu như trong cuốn Người tình, nhà văn trao nhiều quyền chủ động chèo lái chuyện yêu cho cô gái 15 tuổi thì ở tác phẩm mới này, người tình Trung Hoa đã bớt rụt rè, bớt mặc cảm chủng tộc hơn. Bà Lê Hồng Sâm tỏ ra ngạc nhiên khi mà Người tình Hoa Bắc - được viết 60 năm sau khi Duras rời khỏi Việt Nam - vẫn tái hiện được những ký ức đầy sống động về xứ sở Đông Dương trong vẻ đẹp của những đêm mùa khô, của những cơn mưa gió mùa, của mênh mang đồng ruộng, của xóm ghe thuyền, của bầy trẻ đánh xe trâu, của màu chiếc quần lụa đã nhợt nhạt. Người tình Hoa Bắc khác biệt với Người tình còn ở tính chất kép của tác phẩm. Nhà văn xác định: “Đây là một cuốn sách. Đây là một bộ phim”. Chuyên gia văn học Trần Hinh cũng phát hiện ra tính chất lai tạo giữa văn học và điện ảnh trong tác phẩm của Marguerite Duras. Ông cho rằng, Duras phải chăng không hài lòng với các nhà làm phim Người tình chăng nên với Người tình Hoa Bắc, bà muốn tạo nên một cuốn tiểu thuyết có khả năng đọc như một kịch bản phim? ***     Marguerite Duras (1914 - 1996) tên thật là Marguerite Donnadieu. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Ga-ronne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. Bà sinh tại Gia Định, Đông Dương (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha là giáo sư toán mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm Marguerite mới lên bốn tuổi. Mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Escole de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trương Vương ngày nay). Mẹ bà ở vậy nuôi bà người con trong cảnh khốn khó. bà có một người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. Trải qua tuổi thơ và thời thiếu niên ở Việt Nam, nhưng kỷ niệm nơi đây đã gợi nhiều cảm hứng và in đậm trong các tác phẩm của bà. Năm mười tám tuổi, Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luận và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ năm 1935 tới năm 1941. Năm 1950, Duras được biết tới lần đầu tiên với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau này của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với người tinh (l’ Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nông nàn và lãng nạm giữa bà với điền chủ gốc hao giàu có, Huỳnh Thủy Lê, tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và được dựng thành phim năm 1992. Tác phẩm của Duras bao gồm khoảng bốn mưới tiểu thuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les- enfants. Cuộc đời của bà giống như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết vê những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và cả sự im lặng... Những tác phẩm đầu tay của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã từng bị nhà văn Raymond Quene-au chỉ trích), nhưng kể từ Monderato Cantabile, bà đã thử những lỗi viết mới, đặc biệt là cắt bổ những đoạn văn dài nhằm làm tăng tầm quan trọng của những gì không được viết ra. bà được xếp vào phong trào tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, nhưng không phải để kể lại mà để ám chỉ những chuyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở paris, được chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. BachvietBooks Mời các bạn đón đọc Người tình Hoa Bắc của tác giả Marguerite Duras.