Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Pháp Đơn Giản - 108 Ẩn Dụ Về Pháp (Ajahn Chah)

Thú thật, chúng tôi chọn dịch quyển sách này vì nghĩ rằng chắc sẽ dễ dịch và cũng dễ đọc đối với nhiều người. Tuy nhiên vì là văn nói nên có nhiều câu, nhiều ý trùng lặp, dễ khiến ta mất kiên nhẫn. Bạn nên đọc sách này khi thanh thản, không bận rộn để tưởng tượng vị lão sư đáng kính đang dạy ta những bài học thâm thúy, bằng những lời rất ư gần gủi, rất ư chân chất. Tuy nhiên vì một số đoạn là trích từ các bài pháp thoại dài hơi hơn, nên có những đoạn văn mở đầu dường như bất chợt, những ẩn dụ hơi khó hiểu.

Nhưng có ai bảo, đọc sách thiền là mình phải hiểu hết mọi điều trong đó. Có những bài, có những điều có lẽ mình cần thêm thời gian để thẩm thấu, cần thêm trải nghiệm để nắm bắt. Cũng xin đừng nghĩ rằng người dịch là phải hiểu hết ngọn ngành… Công việc dịch đối với chúng tôi chỉ là một cách học Pháp, còn hành thì phải tự nhận rằng mình chỉ mới thấy được biển khơi trước mặt, còn chạm tới được mặt nước biển, hẳn còn phải bao nhiêu a-tăng-kỳ kiếp nữa!

Nhưng thôi, hãy vui mừng, hãy biết ơn rằng mình còn có duyên lành được nghe, được đọc chánh pháp từ một vị trưởng lão thiền sư quá ư đạo hạnh. Hiểu được một chút gì đó trong trùng điệp hiểu biết của ngài cũng đã là phước báu trong kiếp này, cũng sẽ làm hành trang cho kiếp tái sinh của ta thêm đủ đầy.

Lần nữa xin cảm niệm công đức cao thượng của ngài thiền sư Ajahn Chah về những lời dạy quý báu, tỳ kheo Thanissaro về công phu chuyển ngữ, Ajahn Karunadhammo, sư trụ trì thiền viện Abhayagiri đã cho phép chúng tôi được dịch tác phẩm này, cô Huỳnh Như đã góp ý về việc dịch thuật, các đạo hữu gần xa đóng góp về vật chất cũng như tinh thần để sách được đến tay người đọc dưới dạng ấn tống như bao lần trước.

Nếu có chút công đức nào trong Pháp thí này, xin hồi hướng cho tất cả. Mong tất cả chúng ta đều tìm được niềm vui, hạnh phúc trong việc chia sẻ, có được duyên lành với Phật pháp trong nhiều đời, nhiều kiếp. Nguyện cho chánh pháp của Đức Phật luôn trường tồn và phát triển đến mọi con tim. Tìm mua: Pháp Đơn Giản - 108 Ẩn Dụ Về Pháp TiKi Lazada Shopee

Diệu Liên Lý Thu Linh

11-2019

Lời Giới Thiệu

Thiền sư Ajahn Chah rất thiện xảo trong việc sử dụng các ẩn dụ vừa chính xác và vừa lạ để giải thích các Pháp. Đôi khi ngài làm rõ một điều trừu tượng với một hình ảnh thật đơn giản, sống động; khi thì ngài ‘tiếu lâm’ hóa sự ám chỉ trong một hình ảnh khiến ta có thể nhận ra nhiều tầng ý nghĩa bên trong đó, giúp ta nắm được ý nghĩa tiếp theo đó. Nói cách khác, đôi khi các ẩn dụ cho ta lời giải đáp, đôi khi chúng đặt ra những vấn đề cho ta suy gẫm.

Kể từ khi thiền sư viên tịch, nhiều sưu tập về các bài giảng ẩn dụ đã được gom góp từ các bài thuyết pháp của ngài. Bản dịch từ tiếng Thái này được tập hợp phần lớn từ bộ sưu tập của các đệ tử của ngài xuất bản năm 1995, có tựa tiếng Thái là Myan kab cai, klaai kab cit (Giống như Tâm, Tựa như Trí). Tôi nói “phần lớn” là vì tôi có chỉnh sửa một số chỗ như sau:

-Có ba ẩn dụ trong bộ sưu tập gốc đã được thay thế, dựa trên bài Pháp, “Hãy nhàm chán điều mình ưa thích” (Byya khawng thii chawb). Đó là: “Nước đóng chai, Nước ở suối nguồn”; “Hàng rào”; và “Trong khuôn hình tròn”. Hai trong ba ẩn dụ được thay là do các ẩn dụ gốc trùng lặp với các ẩn dụ khác trong bộ sưu tập. Ẩn dụ thứ ba được thay thế do nó có ý nghĩa lịch sử nhiều hơn là sự thực dụng.

-Một số tựa của các ẩn dụ được thay thế cho phù hợp với ngôn ngữ tiếng Anh.

-Thứ tự của các ẩn dụ được thay đổi để tạo ra cảm giác cân bằng, thống nhất và rõ ràng. Ngoài ra, trong phần biên soạn có chỉnh sửa này, tôi cũng đã thêm vào hai thay đổi khác:

+ Vì một số ẩn dụ gốc dựa trên các bản thảo đã được biên tập từ các pháp thoại của ngài Ajahn Chah, tôi đã cố gắng -ở bất cứ đâu mà tôi nhận ra như thế- chỉnh sửa lại để có được các bản thảo mới từ các pháp thoại và dịch lại các ẩn dụ để chúng gần gũi hơn với những lời dạy gốc của ngài Ajahn Chah. Ngoài các đề từ, các ẩn dụ được chỉnh sửa bao gồm: “Ly bể”; “Giọt nước, dòng nước”; “Khỉ”; và “Lặng yên, nước chảy”.

+ Tôi đã thay bản gốc của “Lò Nung” (The Kiln) với một bản đầy đủ hơn của cùng một ẩn dụ có trong bộ sưu tập, Khwaam Phid Nai Khwaam Thuuk (Cái Sai trong cái Đúng) - What’s Wrong in What’s Right).

Khi chuyển ngữ các ẩn dụ này, tôi đã cố gắng không trau chuốt chúng nhiều, vì chính tính chất thô sơ, mộc mạc của chúng lại bộc lộ đúng nhiều tầng lớp ý nghĩa chứa đựng trong đó, khiến chúng thật ấn tượng. Tôi mong là công trình dịch thuật sang tiếng Anh này thành công trong việc phản ảnh cùng tính chất ấy khiến người đọc phảl tiếp tục suy gẫm.

Nhiều vị xem qua bản thảo gốc, đã cho tôi nhiều lời góp ý để chỉnh sửa tốt hơn. Tôi đặc biệt biết ơn Ajahn Pasanno, Ginger Vathanasombat và Michael Zoll.

Mong là tất cả mọi độc giả khi đọc bản dịch này sẽ nhận ra chủ ý của ngài Ajahn Chah là luôn giảng Pháp bằng những điều đơn giản và đầy hình ảnh.

Tỳ khưu Thanissaro

Tháng Năm, 2013Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Ajahn Chah":Hương Vị Của Giải ThoátThân Và TâmLẽ Sinh Diệt, Lý Tu HànhThiền ĐịnhSuối Nguồn Tâm LinhNhững Lời Dạy Vượt Thời GianChẳng Có Ai CảChỉ Là Một Cội CâyTâm Tĩnh LặngThiên Nhiên TâmSự Bình An Không Gì Lay ChuyểnPhật Tại TâmTrong Vòng Sinh DiệtPháp Đơn Giản - 108 Ẩn Dụ Về Pháp

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Pháp Đơn Giản - 108 Ẩn Dụ Về Pháp PDF của tác giả Ajahn Chah nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Bách Gia Chư Tử
Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó. Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn. Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó.Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu. Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất. Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu.Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia. Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.
THẦN, NGƯỜI VÀ ĐẤT VIỆT! - TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG
Chuyên khảo Thần, người và đất Việt trình bày sự hình thành và biến chuyển của các hệ thống thần linh của người Việt từ cổ đại tới cận đại, từ hệ thống các nhiên thần (các thần cây, đá; các thần sông nước) đến các nhân thần sơ khai, tiếp đó là các hệ thần mới, nảy sinh do tiến trình hình thành thể chế quân chủ tập quyền, đồng thời do sự giao lưu với tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc phương Bắc và phương Nam trong tiến trình lịch sử của cộng đồng Việt. Chuyên khảo Thần, người và đất Việt trình bày sự hình thành và biến chuyển của các hệ thống thần linh của người Việt từ cổ đại tới cận đại, từ hệ thống các nhiên thần (các thần cây, đá; các thần sông nước) đến các nhân thần sơ khai, tiếp đó là các hệ thần mới, nảy sinh do tiến trình hình thành thể chế quân chủ tập quyền, đồng thời do sự giao lưu với tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc phương Bắc và phương Nam trong tiến trình lịch sử của cộng đồng Việt. Không chỉ là một công trình quan trọng nghiên cứu cách thức suy nghĩ và ứng xử của người Việt trong đời sống tâm linh, ‘Thần, người và đất Việt’ còn là một bức tranh đa sắc về các hệ thống thần linh Việt; mỗi trang trong sách như một mảng màu miêu tả những biến chuyển văn hóa ẩn sâu dưới lớp hỗn độn của thần thoại, huyền sử và tín ngưỡng. Từng gương mặt nhiên thần rũ bỏ vàng son tô vẽ, trở lại nét nguyên sơ trong sự vọng tưởng về văn hóa bản địa linh thiêng. Hiểu rằng thẳm sâu trong tâm thức người Việt luôn có một quan niệm về sự tồn tại thế giới siêu nhiên, ‘Thần, người và đất Việt’ đã không dừng lại ở những khảo sát hệ thống thần linh thủa sơ khai, mà còn đặt những bước đi đầu tiên trong việc làm sáng tỏ chiều hướng kết tập thần linh mới. Không chỉ là một công trình quan trọng nghiên cứu cách thức suy nghĩ và ứng xử của người Việt trong đời sống tâm linh, ‘Thần, người và đất Việt’ còn là một bức tranh đa sắc về các hệ thống thần linh Việt; mỗi trang trong sách như một mảng màu miêu tả những biến chuyển văn hóa ẩn sâu dưới lớp hỗn độn của thần thoại, huyền sử và tín ngưỡng. Từng gương mặt nhiên thần rũ bỏ vàng son tô vẽ, trở lại nét nguyên sơ trong sự vọng tưởng về văn hóa bản địa linh thiêng. Hiểu rằng thẳm sâu trong tâm thức người Việt luôn có một quan niệm về sự tồn tại thế giới siêu nhiên, ‘Thần, người và đất Việt’ đã không dừng lại ở những khảo sát hệ thống thần linh thủa sơ khai, mà còn đặt những bước đi đầu tiên trong việc làm sáng tỏ chiều hướng kết tập thần linh mới.
NGÔN NGỮ CỦA CHÚA
Ngôn ngữ của Chúa: Một nhà khoa học trình bày chứng cứ cho đức tin (nguyên ngữ tiếng Anh: The Language of God: A Scientist Presents Evidence for Belief) là một tác phẩm của Francis Collins có tên trong bản liệt kê sách bán chạy nhất của tờ New York Times, trong đó ông bày tỏ lập trường ủng hộ thuyết tiến hóa hữu thần. Francis Collins là bác sĩ y khoa và nhà di truyền học người Mỹ, nổi tiếng do những khám phá nổi bật về các loại gen bệnh cũng như khả năng lãnh đạo của ông trong Dự án bản đồ gene người (HGP). Collins hiện đang phục vụ trong cương vị Giám đốc Viện Y tế Hoa Kỳ. Trong quyển Ngôn ngữ của Chúa, Collins tóm lược những trải nghiệm của mình khi trở nên một tín hữu Cơ Đốc cũng như luận bàn ý niệm về Thiên Chúa trong những lĩnh vực như sinh học, vật lý học vũ trụ, tâm lý học, và các chuyên ngành khác.[1][2] Ông cũng trưng dẫn nhiều nhà tư tưởng nổi tiếng, nổi trội hơn hết là C. S. Lewis bên cạnh những nhân vật khác như Augustine, Stephen Hawking, Charles Darwin, Theodosius Dobzhansky....
PHẬT LỤC - TRẦN TRỌNG KIM
"Phật Lục" là sách nói về truyện nhà Phật. Sách này không phải là sách bàn về lý thuyết cao siêu của đạo Phật, mà cũng không phải là sách nói về lịch sử rất phức tạp của đạo Phật. Đạo Phật sâu rộng vô cùng, không thể lấy cái học thức thô thiển và cái ý kiến tầm thường mà bàn luận cho tinh tường được. là sách nói về truyện nhà Phật. Sách này không phải là sách bàn về lý thuyết cao siêu của đạo Phật, mà cũng không phải là sách nói về lịch sử rất phức tạp của đạo Phật. Đạo Phật sâu rộng vô cùng, không thể lấy cái học thức thô thiển và cái ý kiến tầm thường mà bàn luận cho tinh tường được. Song vì chúng tôi thấy nhiều người tuy nói là tín đồ nhà Phật nhưng ngoài mấy câu kinh câu kệ và sự đi đến chùa lễ bái để cầu phúc, cầu đức ra, hỏi đến Phật đến Bồ Tát là thế nào, thì chưa hầu dễ đã có mấy người biết rõ mà nói được. Thậm chí đến cách bày trí ở trong chùa, thấy có tượng thì gọi là tượng Phật, tượng Thánh mà thôi, chứ không biết đích xác là ngôi tượng nào thờ vị nào và bày ra như thế là có ý nghĩa gì. Chúng tôi thấy thế, cho nên mới làm ra quyển sách nhỏ này, nói lược qua mất cái đại ý về đạo cứu thế của nhà Phật cùng cái ý nghĩa thờ phụng chư Phật và chư Bồ tát ở trong chùa, để giúp thêm cho sự hiểu biết của các tín đồ và họa may có bổ ích được một đôi chút cho những người muốn biết đại khái đạo Phật là thế nào chăng? Cái mục đích sách "Phật Lục" này chỉ thiển cận như thế thôi. Nhưng lúc làm chúng tôi cũng đã kê cứu cẩn thận và có nhờ ông Nguyễn Trọng Thuật tìm giúp các điển tích để tránh khỏi sự sai lầm. Vậy xin có lời cảm tạ ông Thuật và mong rằng cái việc làm này, tuy nhỏ mọn nhưng cũng không đến nổi vô ích cho sự Phât học của nước nhà. (MẤY LỜI NGỎ CÙNG ĐỘC GIẢ của TRẦN TRỌNG KIM)