Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngự Lâm Pháo Thủ Toàn Tập - Alexandre Dumas

Ba chàng lính ngự lâm (tiếng Pháp: Les trois mousquetaires) là một tiểu thuyết của nhà văn người Pháp Alexandre Dumas cha, là cuốn đầu tiên của bộ ba tập truyện gồm: Ba Chàng Lính Ngự Lâm Hai Mươi Năm Sau Cái Chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm eBook Ngự Lâm Pháo Thủ Toàn Tập này gồm trọn bộ ba cuốn trên. Bộ tiểu thuyết kể về những cuộc phiêu lưu của chàng lính ngự lâm d'Artagnan, từ lúc anh còn trẻ cho đến lúc già. "Ba người lính ngự lâm" là cuốn nổi tiếng nhất và cũng là hay nhất trong bộ ba, đã được dựng thành phim nhiều lần, cũng như phim truyền hình, phim hoạt hình Pháp, và hoạt hình Nhật Bản. *** Lời người làm ebook:   Hiện tại ebook và đọc online của bộ ba tác phẩm này trên tất cả các trang web đều sai nhiều (đều cop bản đánh máy bên Vnthuquan). Bản ebook này đã được sửa lại các sai sót dựa theo sách in, và điều khác sách in là các từ phiên âm đã được trả về theo nguyên tác. P/s: Trước đây tôi đã sửa cho 2 cuốn đầu, nhưng khi làm cuốn 3 tôi đã sửa thêm lỗi. Nếu ai đọc phát hiện sai sót, hãy thông báo, tôi sẽ sửa tiếp. - A Còng Văn Càng. • Đã sửa: - Thay thế toàn bộ từ phiên âm - Bổ sung các đoạn thiếu và gõ sai câu văn - Sửa lỗi chính tả - Sắp xếp lại các lời thoại lộn xộn - Chỉnh danh từ, địa danh, tước vị sai • Nguồn text: Vnthuquan • Ebook: @inno14  • Bìa: @inno14 & @Ngọc Sơn • Thay từ phiên âm: @V/C & @chichi.myluckycharm • Soát sửa & Biên tập: @V/C *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Dumas nức tiếng là người thay nhân tình như thay áo. Quả thật, ông cưới vợ chỉ một lần, gia đình này tan vỡ rất nhanh. Ông dan díu với 25 người đàn bà, có nhiều con hoang, mỗi con của một mẹ. Chỉ 3 con được công khai, trong đó con trai, cũng tên Alexandre Dumas, thường được gọi Alexandre Dumas con, trở nên một nhà văn lừng danh. Con gái thứ hai thì cuộc đời lỡ làng, con gái út - mà mẹ cô trẻ hơn Dumas đến gần 40 tuổi - thì chết cô đơn năm 1936 ở một làng quê trong nghèo khổ và không được ai biết đến là con gái cưng của một trong những vĩ nhân của nước Pháp. Mãi gần đây, người ta mới vỡ lẽ rằng Dumas đến với nhiều phụ nữ là do thương họ. Ông đồng thời chu cấp tiền nong đầy đủ cho vài người. Alexandre Dumas Dumas là người hết sức quý trọng tình bạn. Trừ Balzac và Musset, các nhà văn cùng thời đều chơi với ông, thân nhất là Victor Hugo, người đã đánh giá chính xác vai trò của ông ngay khi ông qua đời. Hugo viết: “Trong thế kỷ này, không ai được dân chúng yêu mến sâu rộng và thắm thiết bằng Alexandre Dumas. Các thành công của ông đều tầm cỡ hơn thành công nói chung nhiều. Đó là những đại thắng lợi. Đó là những ngọn đèn pha”. Ông cũng là người đại lượng, năm 1831, do ghen tức với thành công của vở Antony của ông, Hugo cho người viết báo chê bai. Hai người giận nhau. Song năm 1834, ông chủ động giảng hòa. Để hoàn toàn chủ động trong hoạt động sân khấu, ông bỏ ra một món tiền lớn để xây dựng Nhà Hát Kịch Lịch Sử của riêng ông. Khán giả rất nồng nhiệt, song không bù đắp nổi chi phí bỏ ra, nên cuối cùng nhà hát đóng cửa. Từ năm 1848, ông đã ra tờ báo đầu tiên. Sau đó, ông còn ra nhiều tờ báo nữa. Nhưng do quản lý kém, bị kiểm duyệt gây khó dễ, các tờ báo ấy tồn tại không bền, và ngốn của ông rất nhiều công sức và tiền bạc. Ông cũng hai lần ứng cử vào Nghị Viện đều thất bại, ứng cử vào Hội Quốc Ước thì chỉ được 261 phiếu, trong khi các đối thủ được 220.000, rồi phải sang Bỉ lưu vong năm 1851, sau cuộc đảo chính của Napoléon III. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) Mời các bạn đón đọc Ngự Lâm Pháo Thủ Toàn Tập của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tố Tâm
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tố Tâm của tác giả Hoàng Ngọc Phách. Quyển tiều thuyết TỐ TÂM ra đời cũng là một việc ngẫu nhiên nghĩa là chưa đinh thời kỳ xuất bản mà xuất bản. Nguyên lúc ông Song An còn ở trường Cao Đẳng Sư phạm, ông thường cùng tôi đàm luận về luân lý giáo dục theo tân học ngày nay. Ông hay đưa tôi xem những điều ông đã sao tập được lúc ông viết quyển tiểu thuyết TỐ TÂM này đưa tôi đọc, tôi cũng phục cái tài trước thuật của ông và biểu đồng tình một vài vấn đề ông phân giải. Tôi khuyên ông đưa đăng vào tập ký yếu của hội Cao đẳng Ái hữu để các bạn cùng bình phẩm, vì trước khi đem in đã nhiều người xem và cũng đồng ý như tôi vậy. Nhưng tác giả vẫn có ý ngần ngại, một là ông không muốn xuất bản tiểu thuyết như ta thường thấy hằng ngày, hai là ông cho rằng quyển TỐ TÂM ra đời khi sớm quá, lại viết theo một lối mới, ta chưa từng xem quen, tất có người hiểu nhầm thì cái hay chưa thấy đâu đã thấy cái dở. Ông xưa nay viết văn thường hay cẩn thận về những điều đó. Về sau bởi những lời quả quyết của các bạn mà ông thuận đem đăng, nhưng tập ký yếu mấy lâu nay vì có một lẽ riêng mà không xuất bản, thành tiểu thuyết đăng dở dang nên phải in thành sách, sợ độc giả đợi chờ, và những tiểu thuyết về tâm lý như quyển TỐ TÂM này không nên để dở chừng câu chuyện. Ấy thế là TỐ TÂM ra đời. TỐ TÂM ra đời chắc có độc giả tự hỏi rằng người ta viết một quyển tiểu thuyết tất phải có một chút mục đích gì về luân lý vậy thì tâm lý tiểu thuyết có liên lạc gì vời đạo xử thế, cách làm người và câu chuyện là chuyện thuộc về ái tình, biết đã bổ ích gì cho giáo dục, đang lúc này bạn thiếu niên ta cần đem hết tâm hồn thờ một chủ nghĩa thiêng liêng về tương lai chủng tộc ?... Ấy đó là điều cần phải giải tỏ cùng độc giả trước khi xem đến quyển TỐ TÂM này : Học thuyết ngày nay không phải là học thuyết tín ngưỡng cho những lý thuyết lập sẵn từ mấy muôn đời để lại cho kẻ hậu sinh, không ai dám xét đến, mà cũng không ai cần xét đến. Học thuyết ấy ông Descartes đã đánh đổ đi từ hơn ba trăm năm nay rồi. Học thuyết bây giờ bất cứ về môn nào cũng phải tìm đến nguyên ủy ; phải dùng câu TẠI LÀM SAO, VĨ NHẼ GÌ để khảo sát lại những điều mà tự xưa ta vẫn công nhận là "bất dịch". Vậy thì luân lý học phải cần đến tâm lý học để xét những điều hành động, những trạng thái trong tâm trí loài người liên tiếp với nhau có mạch lạc, có luật pháp để cho nhà luân lý xét theo đó mà định phương châm, mà đặt những luật chung cho nhân đạo cũng như nhà giải phẫu tách bạch, những cơ quan của thân thể người để cho các y gia biết những bộ máy lưu hành mà chữa bệnh. Cho nên xét luân lý mà không biết tâm lý thì cũng như chữa bệnh mà không biết phủ tạng ở đâu. Vậy thì viết tâm lý tiểu thuyết tức là giải phẫu một câu chuyện đời khuất khúc éo le theo nguồn các luật của tâm lý để độc giả xem đến tự ngẫm nghĩ vào mình. Đại khái như nguyên nhân kia thì phải có kết quả nọ; tính tình ấy thì phải có hành động này v.v... Cho nên xem tâm lý tiểu thuyết phải nhận kỹ những điều phát động đó, phải trông rõ cái dở lẫn với cái hay, tức là những tính tình tương phản xô xát với nhau trong tâm trí con người ta một cách éo le phiền phức. Nếu xem chỉ xem cho biết chuyện thì không bổ ích gì mà có khi thủ hại, vì không phải là lối tiều thuyết chỉ rõ cái hay cái dở ra một cách nhất thiết, nghiễm nhiên là một ông thầy truyền phải làm điều này, phải tránh điều kia, mà nhiều khi không nói rõ tại sao mà làm, tại sao mà tránh. Tâm lý tiểu thuyết không phải là lối chuyện chỉ kết cấu ở cái hy vọng báo ứng, ở điều thưởng phạt huyền vi, để dạy người đời bằng cái họa phúc về việc lành, hay việc ác. Cho nên các độc giả không có lòng tín ngưỡng ấy không lấy làm thỏa óc, mà nhiều khi thủ ích gì. Những tiểu thuyết kết cấu như vậy không phải là không hay, xưa nay biết bao nhiêu quyển đã cảm hóa được lòng người nhờ những tấm gương sáng láng trong chuyện, nhưng ta cứ theo mãi một lối, tưởng cũng thành sáo cũ lắm rồi, mà lối dạy điều dở điều hay bằng cách "truyền lệnh" chỉ mới là một phương diện luân lý giáo dục mà thôi. ° ° ° Độc giả xem quyển TỐ TÂM xin nhớ là một quyển tâm lý tiểu thuyết, không phải là một tấm gương đúc sẵn cho người ta theo. Quyển TỐ TÂM chỉ tách bạch ra những điều éo le phiền phức của một thứ ái tình, ái tình viển vông khuất khúc, làm cho đôi lứa thiếu niên kia phải nhầm lỗi, nhầm lỗi mà không tự biết, để đến lụy mình mà phiền cho gia đình xã hội. Nhầm lỗi những gì cái nguyên nhân, năng lực kết qua ra làm sao ? Tác giả bày tỏ ra rất rõ. Tác giả đã chịu khó thăm dò ở đáy con sông tình kia mà cắm biển, nhắn cùng những bạn thiếu niên đương lảng vảng trên bờ sông, trong khi cần phải để tâm vào những chủ nghĩa cao xa khác, mấy chữ rằng: ĐÂY À GHỀNH CAO, VỰC THẨM ! Ấy đó là công tác giả chép lại chuyện, mà chính đó là nơi độc giả phải lưu tâm. Còn về phần văn chương tư tưởng trong quyển TỐ TÂM này thì cái văn nghiệp của mấy lâu nay tác giả là ông Song An đã đủ giới thiệu cho ông rồi, tôi không phải bình phẩm. Sầm sơn Juillet 1922  LÊ HỮU PHÚC     MẤY LỜI CỦA NGƯỜI CHÉP CHUYỆN Nhiều khi anh em ngồi đàm luận ve tân học ngày nay, ký giả thường nghe nói đến một bậc thanh niên tân tiến có tính tình, văn chương, tư tưởng, thường hay lạm dụng những tài liệu đó đem ra làm việc cho ái tình, ghẹo lòng người nhi nữ, vội thi hành những ý tưởng trong sách hay, những cảnh mình tưởng tượng ra. Có lúc cố ý mà làm, cũng nhiều khi làm mà không tự biết, miễn là tìm được nơi thí nghiệm ý tưởng của mình và lấy được lòng yêu của người mà thôi, nên xảy ra lắm tấn bi kịch, thiệt cho mình mà khổ cho người, quấy rầy đến gia đình, xã hội. Nguyên do những bực có văn chương tư tưởng như vậy, bên cái hy vọng to lớn về việc công ích, thường vẫn hay mơ màng những cảnh tuyệt vời của ái tình, cố tìm cho được một người cùng mình mà đi tới những cảnh mơ màng ấy, không nghĩ cho rằng phàm những cảnh viển vông phảng phất tự ta mơ tưởng mà vẽ ra trên đường đời cũng như giọt sương buổi sáng lóng lánh trên ngọn cây, như ánh sáng buổi chiều thướt tha trên đỉnh núi, xa trông thì đẹp lạ thường, nhưng tìm đến tận nơi thì tan đi hết, không còn thấy gì là đẹp nữa. Cho nên lúc hai người nam nữ rủ nhau mơ màng đi tìm những cảnh ấy chợt gặp một quãng gai góc đầy đường, rẽ nhau lạc lối; hoặc vì lứa đôi trắc trở với người biết trước, hoặc vì duyên nài phận ép với người đến sau, mà diễn nên bi kịch, bởi một nỗi tính tình không hợp với người đến sau đó, hay lòng đã đem gởi đi cho người biết trước kia rồi, không lấy lại được nữa, nên thất vọng, ngã lòng, điều đau đớn đưa ngay đến. Thường cứ bảo tại tạo hóa không cho hưởng hết những cuộc đặt ra để giữ người nhưng lấy lẽ phải mà xét thì phàm việc gì không thường tất không vững. Nếu người cùng mình đi thi hành điều mơ tưởng đó là một bậc thiếu nữ tầm thường, tính tình thấp hẹp, ý tưởng nhỏ nhen, để vào đâu cũng được gặp cảnh nào cũng xong, thì cái hại không là mấy, nhưng gặp một hạng thiếu nữ cũng thích văn chương, cũng có tư tưởng, đã xem được vài chục bộ tiểu thuyết tây đã viết được ít nhiều văn quốc ngữ, tính tình lại rất là đằm thắm, mà thường hay mơ màng những chuyện đâu đâu, ít khi nghĩ đến thực tình thế sự thì thật là bi một "mũi tên tình ái sát nhân" vì bao nhiêu tinh thần đã bị thu hết, bị thứ văn chương hay, tả những tính tình lai láng, bị những ý tưởng lạ bày ra lắm cảnh tuyệt vời, khéo lựa chiều mà dần dần gieo trong lòng người thiếu nữ một thứ tình mài rũa riêng vào một khuôn khổ. Ta nên biết, khi hai người nam nữ yêu nhau, đem đánh vào tinh thần vẫn đau lâu hơn đánh vào thể chất, vì lấy thể chất mà khiến thì cực nồng nàn, nhưng lại chóng tan, mà có thể lấy thể chất nọ thay thể chất kia được, vì thể chất thường giống nhau; tinh thần thì không thể ảnh hưởng tinh thần hành động chậm, nhưng ở lâu, dần dần mà thấm vào gan óc khó gỡ ra được, dù có được cũng để vết về sau, suốt đời cứ vơ vẩn bên mình mãi. Mới đây, ký giả nghe được câu chuyện riêng của bạn vừa kể lại mà bạn là vai chính trong chuyện này, chuyện rất hợp với điều quan sát kể trên kia, nên ký giả chép ra đây, có ý muốn bày ra trước mặt bạn thiếu nên một việc hiển nhiên của tâm tình, liên lạc với nhau, có nguyên nhân, có kết quả. Chuyện tức là một cuộc hành động của các nguồn tâm lý của ái tình, phát hiện ra ngoài rất hợp với nội dung người trong chuyện, vì lúc xét một việc e vế tâm lý phát hiện phải xét đến cả điều liên lạc chung quanh, đại khái như giáo dục ấy, tính chất ấy, tinh thần ấy v.v... Hành động đã hợp với nguyên nhân thỉ tất là phải theo vào một luật, mà việc bày ra không thể là việc lạ thường chỉ là một mối riêng trong một mối khác của tâm lý mà thôi, nên ký giả chép ra đây để các bạn thiếu niên xét đoán, có lẽ cũng bổ ích cho những lúc bạn thiếu niên tự xét đoán đến tính tình mình, tư tưởng mình. Sau nữa, ký giả chép lại chuyện gọi tỏ lòng thương đôi lứa thiếu mến xô nhau vào bể ái, lôi kéo nhau đến nỗi kẻ bị trọng thương, người không cần sống, để đời thiệt mất một người thiếu nữ chung tình. Phàm một người thiếu nữ đã có tính tình đằm thắm biết chịu thiệt mình để khỏi lụy đến người yêu, lại biết thương một bạn gái khác chính là người "kình địch vô tội" của mình là một hạng người ít có, thật đáng quý mà cũng đáng thương. Tính tình ấy dùng vào đâu cũng là bậc trên cả, đem dùng với nhà thì thành con hiếu, đem dùng với nước thì thành tôi ngay, đem dùng vào cảnh vợ chồng đẹp đôi thì thành vợ thuận, vợ thuận tức là mẹ hiền. Nhưng tiếc thay ! Chỉ vì quá mơ màng những ngoài vòng đời, lỡ lầm vào một cuộc tình ái, nên việc đời chếch lệch mà thành như mây tan, như khói tỏa, rút lại không được ích gì, cảnh huống ấy bọn thiếu niên nên lưu ý. Ký giả không có gì thoa vẽ, mà cũng không quen đem đạo đức bình luận ái tình, ký giả xét là xét cái tình trạng của lòng người, chép là chép cái hành động của tâm lý, còn lý luận luân lý phẩm bình xin để phần dư luận. Ký giả chưa đến tuổi biết sáng tạo ra người trong truyện thì chỉ chép lại chuyện là hơn; nếu có bạn nào quá nghiêm mà trách ký giả sao tuổi còn non, người còn trẻ đã vội đem tách bạch những nỗi éo le bí mật của ái tình mà bày cả ra đây thì ký giả xin thưa rằng: nếu những điều quan sát và lý luận kể trên kia là đúng thì lời trách ấy quá nghiêm, nếu mà sai, thì xin biết cho rằng ký giả vì những điều quan sát đó mà chép. Aout 1922  HOÀNG NGỌC PHÁCH *** Tóm tắt Tố Tâm là một tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của Việt Nam, được viết bởi Hoàng Ngọc Phách và xuất bản năm 1922. Tác phẩm kể về câu chuyện tình yêu của hai nhân vật chính là Đạm Thủy và Tố Tâm. Đạm Thủy là một thanh niên trí thức, có tư tưởng tiến bộ, còn Tố Tâm là một cô gái nhà quê, xinh đẹp, ngây thơ. Hai người gặp nhau và yêu nhau say đắm, nhưng vì những rào cản về gia đình và xã hội, họ đã không thể đến được với nhau. Review Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị về mặt văn học và xã hội. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, đặc biệt là vấn đề tình yêu và hôn nhân của giới trẻ. Tác phẩm được viết theo lối văn xuôi trữ tình, trau chuốt, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ của tác phẩm giản dị, gần gũi, dễ hiểu, nhưng cũng không kém phần tinh tế, gợi cảm. Nhân vật chính của tác phẩm là Tố Tâm. Tố Tâm là một cô gái nhà quê, xinh đẹp, ngây thơ, nhưng cũng rất yếu đuối. Cô yêu Đạm Thủy say đắm, nhưng vì những rào cản của xã hội, cô đã không thể đến được với người mình yêu. Tác phẩm đã thể hiện được những nỗi đau, những bi kịch của Tố Tâm. Tố Tâm là một nạn nhân của xã hội phong kiến, của những hủ tục lạc hậu. Cô là một tấm gương tiêu biểu cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên án những hủ tục lạc hậu, những định kiến xã hội đã gây ra những đau khổ cho người phụ nữ. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Tố Tâm là một tác phẩm tâm lý đầu tiên của Việt Nam, có giá trị về mặt văn học và xã hội. Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực những vấn đề của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ 20, đặc biệt là vấn đề tình yêu và hôn nhân của giới trẻ. Tác phẩm được viết theo lối văn xuôi trữ tình, trau chuốt, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ của tác phẩm giản dị, gần gũi, dễ hiểu, nhưng cũng không kém phần tinh tế, gợi cảm. Nhân vật Tố Tâm là một nhân vật được xây dựng thành công, mang đậm tính nhân đạo. Một số nhận xét của độc giả về tác phẩm "Tố Tâm là một tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm đã lên án những hủ tục lạc hậu, những định kiến xã hội đã gây ra những đau khổ cho người phụ nữ."  "Tố Tâm là một tác phẩm tâm lý xuất sắc. Tác phẩm đã thể hiện được những nỗi đau, những bi kịch của Tố Tâm, một nạn nhân của xã hội phong kiến."  "Tố Tâm là một tác phẩm văn học đáng đọc. Tác phẩm đã mang đến cho tôi những cảm xúc sâu sắc."  Mời các bạn mượn đọc sách Tố Tâm của tác giả Hoàng Ngọc Phách.
Ba Ngày Luân Lạc
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Ba Ngày Luân Lạc của tác giả Lê Văn Trương. Lê Văn Trương khi viết báo lấy bút danh là Cô Lý. Năm 1934, viết tập truyện ngắn Trước cảnh hoang tàn Đế Thiên Đế Thích. Từ 1939, chuyên viết tiểu thuyết, viết rất nhiều, rất nhanh và cũng rất ẩu. Người ta bảo Lê Văn Trương còn giao cho bọn « đàn em » viết và chỉ đọc lại, chữa qua loa rồi ký tên đưa Nhà xuất bản. Lê Văn Trương luôn luôn hô hào « thuyết sức mạnh » và xây dựng nhân vật theo kiểu một « người hùng » tưởng tượng, khí khái rởm và anh hùng rơm. Có theo kháng chiến một thời gian, đến năm 1953 vào Hà-nội rồi đi Nam, làm việc ở Nha chiến tranh tâm lý Mỹ-Diệm, Đài phát thanh Sài-gòn. Lê Văn Trương mất ngày 25 tháng 2 năm 1964 tại 67 hẽm 100, đường Trần Hưng Đạo (Sài-gòn). (Theo Lược truyện các tác gia Việt nam. Tập II. Nxb KHXH Hà-nội - 1972) Tác phẩm: Trước cảnh hoang-tàn Đế Thiên Đế Thích (H. : Trung-Bắc Tân Văn, 1935 - 183 p. ; 0$40) Cô tư Thung, truyện dài (H. : Tân-Dân, 1er Janvier 1937 - 156 p. ; 0$25) (Phổ-Thông Bán-Nguyệt-San 2) Một người, xã-hội tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1937 - I. 1er Mai, 220 p., 0$25 - II. 1er Juin, p. 211-386, 0$25) (P.T.B.N.S 6-7) Một người cha (H. : Tân-Dân, 1er Nobembre 1937 ; 0$25) (P.T.B.N.S 12) Một trái tim, tâm-lý xã-hội tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Février 1938 - 217 p. ; 0$25) (P.T.B.N.S 15) Con đường hạnh-phúc, tâm-lý tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Juin 1938 ; 0$25) (P.T.B.N.S 19, Bìa trắng) Một lương tâm trong gió lốc, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1938 - I. 1er Août, 103 p., 0$15 - II. 1er Septembre, 0$25) (P.T.B.N.S 21-22) Hận nghìn đời (H. : Tân-Dân, 1938 - 192 p.) (Những Tác-Phẩm Hay 2) Trong ao tù trưởng-giả (H. : Tân-Dân, 1939 - I. 1er Février, 166 p., 0$25 - II. 16 Février, p. 151-313, 0$25) (P.T.B.N.S 28-29) Ngựa đã thuần rồi, mời ngài lên, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 16 Mars 1939 ; 0$15) (P.T.B.N.S 31) Đứa cháu đồng bạc, tiểu-thuyết xã-hội (H. : Tân-Dân, 16 Mai 1939 - 213 p. ; 0$40) (N.T.P.H 6) Một cô gái mới (H. : Tân-Dân, 1er Juillet 1939 - 154 p. ; 0$25) (P.T.B.N.S 38) Tôi là mẹ, tâm-lý tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1939 - I. 16 Septembre, 164 p., 0$25 - II. 1er Octobre, p. 147-304, 0$25) (P.T.B.N.S 43-44) Dưới bóng thần Vệ-nữ (H. : Nam Ký, 1939 - 94 p.) Những mảnh tình (H. : Mai Lĩnh, 1940 - 144 p.) Cánh sen trong bùn (H. : Tân-Dân, 1940 - I. 16 Janvier, 145 p., 0$25 - II. 1er Février, p. 139-282, 0$25) (P.T.B.N.S 51-52) Một linh hồn đàn bà (H. : Tân-Dân, 16 Mars 1940 - 189 p. ; 0$50) (N.T.P.H 11) Bốn bức tường máu (H. : Tân-Dân, 1940 - I. 1er Juillet, 145 p. - II. 16 Juillet, p. 131-260) (P.T.B.N.S 62-63) Tôi thầu khoán hay là : Ba tháng ở Trung-Hoa, phiêu-lưu ký-sự (H. : Tân-Dân, 1940 - 240 p. ; 0$90) (Tủ Sách Tao Đàn 2) Trường đời, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1940 - I. 16 Décembre, 140 p. - II. 1er Janvier, p. 137-278, 0$30 - III. 16 Janvier, p. 263-400, 0$30) (P.T.B.N.S 73-75) Một cuộc săn vàng, phiêu-lưu ký-sự (H. : Tân-Dân, 1941 - 146 p. ; 0$60) (T.S.T.Đ 6) Lịch-sử một tội ác, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1941 - 168 p. ; 0$60) (N.T.P.H 16) Nó giết người, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Juin 1941 - 130 p. ; 0$30) (P.T.B.N.S 84) Người anh cả, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1941 - I. 1er Juillet, 132 p., 0$30 - II. 16 Juillet, p. 123-242, 0$30 - III. 1er Août, p. 235-354, 0$30) (P.T.B.N.S 86-88) Những con đường rẽ, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1941 - 143 p. ; 0$60) (N.T.P.H 19) Điệu đàn muôn thủa (H. : Đời Mới, 1941 - 144 p.) Ái-tình muôn mặt (H. : Lê Cường, 1941 - I. 125 p. - II. 98 p.) Triết-lý sức mạnh (H. : Hương-Sơn, 1941 - 62 p. ; 0$30) Đời nghệ sĩ (H. : Hương Sơn, 1941 - 100 p.) Hai anh em, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Janvier 1942 - 316 p. ; 0$70) (P.T.B.N.S 98, Số mùa xuân) Tiếng gọi của lòng, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1942 - I. 1er Mai, 120 p., 0$35 - II. 16 Mai, p. 105-224, 0$35) (P.T.B.N.S 106-107) Bóng hạnh-phúc (H. : Cộng Lực, 1942, 2 v. - 240 p. ; 1$20) Cô Thơm, xã hội tiểu thuyết (H. : Duy Tân, 1942 - 138 p.) Hai tâm hồn (H. : Đời Mới, 1942 - 260 p.) Đầu bạc đầu xanh (H. : Đời Mới, 1942 - 202 p. ; 1$00) Anh và tôi, giáo-dục tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1942 - 212 p.) Chồng chúng ta, xã-hội tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1942 - I. 143 p. - II. p. 141-222, 0p80) Hai người bạn, tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1942 - 210 p.) Những kẻ có lòng, tiểu thuyết (H. : Đời Mới, 1942 - 209 p.) Kẻ đến sau (H. Đời Mới, 1942 - I. 232 p. - II. p. 236-439 ; 3$00) Những thiên tình hận (H. : Hương Sơn, 1942 - 129 p.) Kẻ si tình, tiểu thuyết (H. : Hương Sơn, 1942 - 154 p.) Sợ sống (H. : Lê Văn Trương, 1942 - 153 p.) Lòng mẹ, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1942 - I. 16 Août, 112 p., 0$40 - II. 1er Septembre, p. 101-220, 0$50) (P.T.B.N.S 113-114) Anh vẹo, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1er Decémbre 1942 - 120 p. ; 0$50) (P.T.B.N.S 120) Sau phút sinh ly, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 1942 - 139 p. ; 0$70) (N.T.P.H 25) Thằng còm, tiểu thuyết (H. : Tân-Dân, 1943 - I. 16 Avril, 110 p., 0$50 - II. 1er Mai, p. 91-200, 0$50) (P.T.B.N.S 129-130) Một lương tâm trong sương mù, tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 16 Août 1943 - 104 p. ; 1$00) (P.T.B.N.S 135) Mũi tên thuốc độc (H. : Tân-Dân, 16 Novembre 1943) Anh em thằng Việt, truyện dài giáo-dục (H. : Tân-Dân, 1943, 2 v. - 154 p. ; 0$40) (Phổ Thông Tuổi Trẻ 1) Chung quanh người đàn bà (H. : Hương Sơn, 1943 - 128 p.) Cùng một kiếp (H. : Hương Sơn, 1943 - 256 p.) Kiếp hoa rơi, tiểu-thuyết xã-hội (H. : Hương Sơn, 1943 - 128 p.) Lịch-sử một tan vỡ (H. : Hương Sơn, 1943 - 264 p.) Người mẹ tội-lỗi, tâm-lý tiểu-thuyết (H. Đời Mới, 1943, 2 v. - 510 p. ; 3$20) Giọt nước mắt đầu tiên (H. : Đời Mới, 1943 - 146 p. ; 1$00) Người đàn-bà (H. : Đời Mới, 1943 ; 0$90) Lỡ một kiếp người (H. : Đời Mới, 1943 - 181 p. ; 1$50) Thằng con trai (H. : Đời Mới, 1943 - 218 p. ; 2$00) Ba ngày luân lạc, giáo-dục tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1943 - 304 p. ; 3$00) Phút giao-cảm (H. : Đời Mới, 1943 ; 2$00) Những mái nhà ấm, truyện dài xã-hội (H. : Đời Mới, 1943 - 271 p. ; 2$80) Con đường dốc, truyện dài (H. : Đời Mới, 1943 - 160 p. ; 1$80) Dây oan, tiểu thuyết (H. : Đời Mới, 1943 - 168 p. ; 2$00) Những người đã sống (H. : Đời Mới, 1943 - 223 p. ; 2$50) Những kẻ không nghèo (H. : Đời Mới, 1943 - 189 p. ; 2$50) Cô giáo tỉnh lỵ, tiểu thuyết (H. : Đời Mới, 1943 - 225 p. ; 2$80) Chặt xích, tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1944 - 176 p. ; 2$50) Mấy đường tơ khô, tiểu thuyết (H. : Đời Mới, 1944 - 224 p. ; 3$00) Lá lành lá rách, tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1944 - 149 p. ; 2$00) Người con nuôi, xã-hội tiểu-thuyết của Lê-văn-Trương (1944 - 268 p. ; 3$50) Chết trong cõi sống, tiểu-thuyết (H. : Đời Mới, 1944 - 240 p. ; 3$50) Mối thù họ Ngô (H. : Đời Mới, 1944 - 156 p.) Cải thiện (H. : Hương Sơn, 1944 - 210 p.) Hai đứa bé mồ côi, tiểu-thuyết xã-hội (H. : Hương Sơn, 1944 - 310 p.) Trên giốc vật chất (H. : Hương Sơn, 1944 - 364 p.) Con dâu Cai Vàng, tuồng cải lương viết theo dã-sử (H. : Thăng Long, 1944 - 96 p.) Lời trong máu (H. : Lê-Văn-Trương, 1945 - 105 p.) Cánh đồng lương tâm (H. : Lê-Văn-Trương, 1946 - 93 p.) Ông hoàng một đêm (H. : Hương Sơn, 1953 - 142 p.) Cô nàng Mường Koòng (H. : Chấn-Nam tức Xuân-Quang) Những người có sứ mạng (330 p.) Những chớp mắt lịch sử (4 v.) Tôi là quân nhân Trận đời, truyện dài (S. : Tấn-Phát, 1956, 2 v.) Đứa con hạnh phúc, tiểu-thuyết xây-dựng gia-đình (S. : Truyện Hay, 1960 - 168 p.) Mối tình ngang trái (S. : Truyện Hay, 1960) Lòng dạ đàn bà (S. : Truyện Hay, 1960 - 143 p. ; 30$) Lỡ-làng, tiểu-thuyết tâm-lý ái-tình (S. : Hạnh-Phúc, 1961 - 96 p.) Một người chồng hoàn toàn (S. : Tân-Thành, 1961, In lần thứ hai - 126 p.) Người vợ hoàn toàn, tiểu thuyết xây dựng gia đình (S. : Hạnh-Phúc, 1962 - 152 p.) Người anh hùng chín núi, tiểu thuyết phiêu lưu phóng sự (S. : Đồng Nai, 1972) Truyện nhi đồng: Con thiên-lý mã, giáo-dục tiểu-thuyết (H. : Tân-Dân, 25 Août 1941 - 35 p.) (Truyền Bá 1) Những người ngày xưa (H. : Tân-Dân, 27 Novembre 1941 ; 0$10) (T.B 8) Giặc cờ đen, truyện (H. : Tân-Dân, 15 Janvier 1942 ; 0$10) (T.B 15) Một truyện ma (H. : Tân-Dân, 19 Mars 1942 ; 0$10) (T.B 23) Con chó dai đầu (H. : Tân-Dân, 7 Mai 1942) (T.B 30) Mưu gia cát (H. : Tân-Dân, 27 Août 1942 - 30 p.) (T.B 46) Giặc Tàu bắt cóc (H. : Tân-Dân, 1942 - I. 26 Novembre, 30 p. - II. 3 Decémbre, 30 p.) (T.B 59-60) Bị sa lầy (H. : Đời Mới, 1942 - 24 p.) (Truyện Học-Sinh Đời Mới) Chờ chết (H. : Đời Mới, 1942 - 27 p.) (T.H.S.Đ.M) Lấy chồng cọp (H. : Đời Mới, 1942 - I. 22 p. - II. 26 p.) (T.H.S.Đ.M) Săn đuổi (H. : Đời Mới, 1942 - 32 p.) (T.H.S.Đ.M 4) Tiếng còi báo động (H. : Đời Mới, 1942 - 30 p.) (T.H.S.Đ.M) Con chim đầu đàn (H. : Đời Mới, 1942 - 32 p.) (T.H.S.Đ.M) Mời các bạn mượn đọc sách Ba Ngày Luân Lạc của tác giả Lê Văn Trương.
Hy Vọng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Hy Vọng của tác giả Katarzyna Michalak & Lê Bá Thự (dịch). Lila Borawa, cô gái Ba Lan, mồ côi mẹ, bố nhà nông; Aleksei Dragonow, người Nga, mồ côi cả cha lẫn mẹ sau vụ nổ tại nhà máy điện nguyên tử Trécnôbưn năm 1986, ở với dì. Họ gặp nhau do một sự tình cờ thú vị và trở thành bạn thân của nhau khi Lila mới sáu tuổi, Aleksei tám tuổi. Chẳng bao lâu số phận đã khiến họ phải xa nhau. Những tưởng con đường của họ sẽ chẳng bao giờ gặp nhau. Tuy nhiên, hai thứ tình cảm mạnh hơn định mệnh đã luôn luôn gắn bó họ: tình yêu và lòng căm thù. Nhiều năm sau đó, dẫu ở cách xa, Aleksei thường xuyên trở về làng thăm bạn, cho dù mỗi lần như vậy cô gái Lila chỉ làm tổn thương, thậm chí xúc phạm bạn mình mà thôi. Lila tựa hồ ngọn lửa, còn Aleksei như con thiêu thân. Tình yêu trở thành nỗi ám ảnh, còn định mệnh trở thành nỗi bất hạnh, và cả Lila lẫn Aleksei không thể hoặc không muốn cưỡng lại. Cái còn lại vẫn chỉ là Hy Vọng. Tiểu thuyết viết về nỗi cô đơn mà không ít người trong chúng ta từng nếm trải, về tình yêu có thể chiến thắng tất cả và về lòng căm thù có thể huỷ diệt tất cả. Hy vọng là tiêu đề của tiểu thuyết, cũng là tên gọi của ngôi nhà thơ mộng, toạ lạc trên trảng cỏ, giữa rừng già nguyên sinh, quanh năm róc rách tiếng suối chảy và vi vu tiếng thông reo, đẹp như miền cổ tích. Nét độc đáo của cuốn sách này, cuốn tiểu thuyết hiện đại – nhuốm màu cổ tích là ở chỗ, nó thực đến đau lòng và rất đời. Sử dụng thủ pháp đồng hiện với mật độ dày đặc từ đầu đến cuối, nữ nhà văn Katarzyna Michalak đã kể cho chúng ta nghe câu chuyện xúc động đầy tính nhân văn, về tình bạn và tình yêu, về giận và thương, về lòng quả cảm và sự hy sinh mà mỗi người chúng ta đều có thể tìm thấy bóng dáng cuộc đời mình trong đó. *** Tình yêu và lòng căm thù trong tiểu thuyết 'Hy vọng'  Nhà văn Ba Lan Katarzyna Michalak kể câu chuyện đầy tính nhân văn, xúc động đến trào nước mắt về tình bạn và tình yêu, về giận và thương, về lòng quả cảm. Lila Borowa, cô gái Ba Lan, mồ côi mẹ, bố nhà nông, nghiện rượu; Aleksei Dragonow, người Nga, mồ côi cả cha lẫn mẹ sau vụ nổ tại nhà máy điện nguyên tử Chernobyl năm 1986, ở với dì. Họ gặp nhau do một sự tình cờ ở trong rừng và trở thành bạn thân khi Lila mới sáu tuổi, Aleksei tám tuổi. Ông Borowy, bố cô bé, không chấp nhận tình bạn này và thường giở thói bạo hành, lắm phen cho cả hai no đòn, đến nỗi Aleksei thề là sẽ cứu bạn thoát khỏi người bố vũ phu. Chẳng bao lâu số phận khiến họ phải xa nhau. Những tưởng con đường của họ sẽ chẳng bao giờ gặp nhau, tuy nhiên hai thứ tình cảm mạnh hơn định mệnh đã luôn luôn gắn bó họ: tình yêu và lòng căm thù. Nhiều năm sau đó, dẫu ở cách xa, Aleksei, chàng trai nặng tình nghĩa và giàu lòng bao dung thường xuyên về làng thăm bạn, dù mỗi lần như vậy cô gái Lila chỉ làm tổn thương, thậm chí xúc phạm bạn mình: "Mỗi bận anh về là một lần em làm tổn thương anh, phản bội anh, lừa đảo anh, anh ra đi, chữa trị vết thương, vết thương trên cơ thể và vết thương lòng, anh tha thứ - lần nào anh cũng tha thứ cho em, rồi anh quay trở lại. Sau một năm, sau hai, ba năm, nhưng luôn luôn quay trở lại. Không hề thay đổi, như mặt trời mọc và lặn, như thủy triều lên và xuống. Và em đã lợi dụng sự yếu đuối này của anh, vẫn tiếp tục càng ngày càng làm tổn thương anh". Thế nhưng, bản thân cô gái cũng phải kìm nén nỗi đau thể xác và tinh thần: "Em đã nhớ anh như điên dại… Em rất lấy làm tiếc về sự đê tiện và sự nhát gan của mình… Em khinh bỉ chính mình… Em lại giam mình trong nhà tắm, mặc dầu cả nhà đi vắng, em cầm lưỡi dao cạo và… tự rạch da làm cho mình đau, đồng thời kết tội bản thân vì những gì em đã làm hại anh, cũng như để làm át đi nỗi đau mất anh. Sau đó em đã tự nhổ vào mặt mình, để càng thêm khinh bỉ cái sự hèn yếu này của em". Lila tựa hồ ngọn lửa, còn Aleksei như con thiêu thân. Mối tình lắm gian nan và nhiều trắc trở của Lila và Aleksei cũng là định mệnh và lời nguyền của đôi bạn trẻ. Nhưng cả Lila lẫn Aleksei không thể hoặc không muốn cưỡng lại. Cái còn lại vẫn là hy vọng. Lila nói về nỗi cô đơn của mình: "Em đã phải mua tình bạn của họ - cô gái nói nhỏ. Con gái thì em trả bằng quà, tặng phẩm, con trai thì em trả bằng làm tình, để cho em hết bị cô đơn. Để một người nào đó quan tâm đến em, một người nào đó trò chuyện với em trong giờ giải lao hoặc sau giờ tan học. Anh Aleksei, anh có biết, thế nào là nỗi cô đơn không anh?". "Hy vọng" là tên của cuốn tiểu thuyết, cũng là tên gọi của ngôi nhà thơ mộng, tọa lạc trên trảng cỏ, giữa rừng già nguyên sinh, quanh năm róc rách tiếng suối chảy, vi vu tiếng thông reo, líu lo tiếng chim hót, đẹp như miền cổ tích. Những áng văn đẹp, mượt mà, về cánh rừng, về con suối, về "ngôi nhà cổ tích" và những bí ẩn của ngôi nhà này cùng những con người từng sống và đang sống trong đó khẳng định điều này. Nét độc đáo của cuốn tiểu thuyết hiện đại nhuốm màu cổ tích, là ở chỗ, nó thực đến đau lòng và rất đời. Bằng những dòng hồi tưởng giầu nội tâm, nữ nhà văn Katarzyna Michalak kể cho ta nghe câu chuyện đầy tính nhân văn, xúc động đến trào nước mắt, về tình bạn và tình yêu, về giận và thương, về lòng quả cảm và sự hy sinh mà mỗi người chúng ta đều có thể tìm thấy bóng dáng cuộc đời mình trong đó.                                                        Thanh Trà *** Tóm tắt Tiểu thuyết Hy Vọng của nhà văn Ba Lan Katarzyna Michalak kể về câu chuyện tình yêu đầy bi kịch giữa Lila Borawa, một cô gái Ba Lan, và Aleksei Dragonow, một chàng trai người Nga. Lila và Aleksei gặp nhau khi còn nhỏ, và nhanh chóng trở thành bạn thân. Tuy nhiên, số phận đã chia cắt họ khi Aleksei được đưa đi sống với dì ở Nga. Nhiều năm sau, Aleksei trở về làng thăm Lila, nhưng mỗi lần như vậy, Lila chỉ làm tổn thương anh. Cô luôn ôm ấp trong lòng nỗi căm thù đối với người Nga, và Aleksei là biểu tượng của nỗi căm thù đó. Tình yêu và lòng căm thù cứ quấn lấy nhau, khiến Lila và Aleksei không thể thoát ra. Họ yêu nhau nhưng cũng ghét nhau, họ muốn bên nhau nhưng cũng muốn xa nhau. Cuối cùng, định mệnh đã đưa họ đến với cái chết, nhưng tình yêu của họ vẫn còn mãi. Đánh giá Tiểu thuyết Hy Vọng là một câu chuyện tình yêu đẹp nhưng cũng rất đỗi bi thương. Tác phẩm đã khắc họa thành công những cung bậc cảm xúc phức tạp của Lila và Aleksei, từ tình bạn, tình yêu, đến lòng căm thù và sự hy sinh. Nét độc đáo của cuốn sách là ở chỗ, nó kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ tích. Ngôi nhà “Hy Vọng” nơi Lila và Aleksei gặp nhau lần đầu tiên là một nơi đẹp như trong truyện cổ tích, nhưng cũng là nơi chứa đựng nhiều bí mật và đau thương. Tiểu thuyết Hy Vọng là một tác phẩm văn học đáng đọc, mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm về tình yêu, lòng căm thù và định mệnh. Một số nhận xét của độc giả về tiểu thuyết “Một câu chuyện tình yêu đẹp nhưng cũng rất đỗi bi thương. Tôi đã khóc khi đọc những trang cuối cùng của cuốn sách.” “Tác phẩm đã khắc họa thành công những cung bậc cảm xúc phức tạp của Lila và Aleksei. Tôi có thể cảm nhận được tình yêu, lòng căm thù và sự hy sinh của họ.” “Nét độc đáo của cuốn sách là ở chỗ, nó kết hợp giữa yếu tố hiện đại và cổ tích. Tôi đã rất ấn tượng với ngôi nhà “Hy Vọng” nơi Lila và Aleksei gặp nhau lần đầu tiên.” Mời các bạn mượn đọc sách Hy Vọng của tác giả Katarzyna Michalak & Lê Bá Thự (dịch).
Thầy Lazaro Phiền
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản. Truyện thầy Lazaro Phiền, tác phẩm của Nguyễn Trọng Quản, được cho là cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam. Cuốn Truyện thầy Lazaro Phiền do nhà J. Linage, Libraire-Éditeur đường Catinat Sài Gòn xuất bản năm 1887. Tác giả là người Công giáo trong thời gian giáo dân còn rất ít, và truyện có rất nhiều chi tiết và nhân vật Công giáo. Truyện tuy ngắn (bản in chỉ trên 50 trang) nhưng có cấu trúc của một cuốn tiểu thuyết Tây phương, và có chủ đề tâm lý nội tâm, là bước đột phá ra khỏi khuôn cấu trúc của truyện xưa. Hồ Biểu Chánh gọi Truyện thầy Lazaro Phiền là một trong ba cuốn tiểu thuyết khiến ông hướng về nghiệp viết văn. (Hai cuốn kia là Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Chánh Chiếu và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản.) Trong đất thánh làng Phước Lễ, tỉnh Bà Rịa có một nghĩa địa điêu tàn. Bên cạnh những ngôi mộ các thánh tử vì đạo, có một ngôi với chiếc thánh giá đơn sơ mang tên "Thầy Lazaro Phiền". Thầy Lazaro Phiền quê tại Đất Đỏ. Năm Phiền ba tuổi thì mồ côi mẹ. Khi đó, giáo dân bị cấm đạo, bị bắt bớ tù đày rất nhiều. Khi Pháp đánh tới Bà Rịa thì 300 giáo dân trong nhà lao bị thảm sát, nhà ngục bị thiêu hủy, chỉ còn mười người sống sót, trong đó có Phiền. Phiền được một quan ba người Pháp đem về Gia Định cho một linh mục nuôi ăn học. Học trường d'Adran, Phiền kết bạn với Vêrô Liễu, con một ông trùm họ ở Cầu Kho. Qua Vêrô Liễu, Phiền quen cô em họ của Liễu và đem lòng yêu cô này. Lớn lên, hai người kết vợ chồng, chung sống trong nhà Liễu. Sáu tháng sau, Phiền đi làm thông ngôn tại Bà Rịa. Tại đây, Phiền gặp một cô vợ người Việt của một quan ba Tây. Nàng đem lòng thương yêu Phiền nhưng Phiền cự tuyệt. Nàng ấy bèn viết thư nặc danh tố cáo vợ Phiền tư tình với Vêrô Liễu. Phiền về điều tra, khám phá thư của Liễu hẹn hò với vợ mình. Nhân dịp được lịnh dẫn lính đi phục kích một vụ cướp ghe, và cùng lúc Liễu đi ghe về Sài Gòn, Phiền sắp đặt cho lính "bắn lầm" giết Liễu. Xong, Phiền về nhà, đánh thuốc độc cho vợ chết. Vợ bị thuốc độc hành hạ hơn mười một tháng mới chết. Trước khi tắt thở, vợ thầy bình tĩnh nói: "Tôi biết làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin Chúa tha thứ cho thầy!" Giết được "đôi gian phu dâm phụ" nhưng lòng Phiền vẫn không an, chán đời đen bạc, Phiền bỏ việc đi tu tại nhà thờ họ Tân Định. Phải mười một năm sau, thầy Phiền ghé qua Bà Rịa thăm chốn cũ nơi xưa, Phiền mới nhận được thư một phụ nữ. Đó là thư của vợ quan ba Tây năm xưa. Bà thú tội đã vu cáo vợ thầy, giả nét chữ của Liễu và gài thư giả mạo trong áo vợ thầy Phiền. Nhưng vẫn không toại nguyện vì thầy không đến với bà mà lại bỏ đi tu. Đọc xong bức thư thú tội này, thầy Phiền chết đi trong nỗi ân hận không nguôi với tội ác tày trời của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Thầy Lazaro Phiền của tác giả Nguyễn Trọng Quản.