Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kiếm Sống - Maxim Gorky

K iếm sống[1] là phần hai trong tác phẩm bộ ba tự thuật[2] của M. Gorky, miêu tả thời niên thiếu của cậu bé Alyosha Peskov, tức Gorky, từ năm 1878 đến năm 1884. Trong phần đầu, M. Gorky đã kết thúc Thời thơ ấu của mình bằng những dòng chua chát: “Sau khi chôn cất mẹ tôi được vài ngày, ông ngoại bảo tôi: - Này Leksei, mày không phải là cái mề đay, mày không thể lủng lẳng mãi trên cổ tao, mày hãy đi ra đời mà kiếm sống… Và thế là tôi bước vào đời.” Mới mười tuổi đầu, cậu bé mồ côi Alyosha đã bắt đầu ở với người đời, tìm hiểu cuộc sống và đấu tranh để tìm ra lối thoát cho mình. Giai đoạn này đã hình thành mối quan hệ mới của Alyosha với con người và thế giới xung quanh. Bước vào đời để kiếm sống, Alyosha luôn va chạm với sự hèn hạ, tồi tệ của bọn “tiểu thị dân”, những kẻ luôn tự cho mình là “ưu việt nhất thành phố”, họ tưởng rằng họ “biết những phép cư xử đúng đắn nhất và dựa trên những phép tắc mù mờ đối với tôi đó mà kết tội mọi người một cách tàn nhẫn, không thương tiếc”. Những kẻ này thường có thái độ ganh tị, ghen ghét với điều tốt đẹp ở những người mà họ không sao hiểu nổi. Để biện bạch cho cuộc sống nhỏ nhen và nghèo nàn, khiến nó tăng thêm cái vẻ quan trọng bề ngoài, họ, giống như ông lão Kashmirin keo kiệt, hung dữ hay bà già Matryona độc ác, ích kỉ, luôn luôn lôi kéo Chúa vào những việc tẹp nhẹp buồn tẻ của mình, biến Chúa thành một sức mạnh trừng phạt mù quáng để bảo vệ cho tội lỗi và lợi ích cá nhân… Alyosha càng ngày càng thấy rõ mặt trái của cuộc sống, thấy những sự nhục mạ nhân cách, những lao động vô nghĩa, khổ sai. Lúc ấy, theo như lời Gorky kể, cuộc sống của Alyosha như vĩnh viễn bị quy định một cách chặt chẽ trong các hình thức và các mối quan hệ mà Alyosha trông thấy ngày này qua ngày khác, mỗi ngày một buồn tẻ, gay gắt hơn, khiến khó mà nghĩ tới khả năng thay đổi, làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Nhưng khi ấy, sách vở – kho tàng tư tưởng sáng tạo của con người – đã tới giúp Alyosha. Những tác phẩm của các nhà văn Nga ưu tú, của các tác giả nước ngoài như Walter Scott, Dickens… đã giúp cậu hiểu được rất nhiều điều mà trước đó cậu vẫn băn khoăn. Sách vở đã giúp Alyosha khắc phục tâm trạng bối rối, mất niềm tin vào con người. Mỗi cuốn sách hay như mở ra trước mắt Alyosha một cánh cửa sổ hướng về thế giới mới mẻ mà cậu bé chưa từng biết, chưa từng thấy. Càng đọc nhiều sách, Alyosha càng thấy gần gũi với thế giới hơn, cuộc sống đối với cậu càng sáng sủa, có ý nghĩa hơn. Sau này, Gorky nhớ lại: “Sách vở đã chỉ cho tôi chỗ đứng của mình trong cuộc sống, nói cho tôi biết rằng con người thật vĩ đại và đẹp đẽ, luôn hướng về cái tốt đẹp hơn, rằng con người đã gây ra nhiều chuyện trên trái đất và vì thế mà họ phải chịu biết bao đau khổ.”[3] Một nhân vật trong Kiếm sống là Jikharev đã nói với Alyosha với vẻ đồng tình: “Cháu không có thái độ dửng dưng mà luôn tập trung vào công việc. Cháu cứ nên như thế mãi, điều đó rất tốt!” Alyosha đã dũng cảm lao vào cuộc sống, dũng cảm “bước vào đời” mặc dù nhiều khi va chạm phải mặt trái xấu xa ghê tởm của nó. Gorky viết: “Trong tôi có hai con người: Một người sau khi đã biết quá nhiều điều ghê tởm và bẩn thỉu, trở nên sợ hãi cuộc sống, nản lòng bởi hiểu quá rõ các chuyện khủng khiếp xảy ra hằng ngày. Người ấy bắt đầu nhìn cuộc sống, nhìn mọi người với thái độ thiếu tin tưởng và hoài nghi, thương hại một cách bất lực cả bản thân và những người xung quanh. Con người ấy mơ ước một cuộc sống cô độc, yên tĩnh, chỉ có sách vở, không dính líu đến ai, mơ về một tu viện, một chòi canh trong rừng, một vọng gác đường sắt, mơ được đến Ba Tư, được đảm nhiệm cương vị một người gác đêm ở ngoại ô thành phố. Càng ít người càng tốt, càng tránh xa con người càng tốt… Còn người kia được nuôi dưỡng bằng ý chí thiêng liêng của các cuốn sách hay và sâu sắc, mỗi khi cảm thấy sức mạnh của những điều khủng khiếp xảy ra hằng ngày kia có thể dễ dàng đè bẹp mình, làm nhơ bẩn trái tim mình, nên cố sức tự vệ, cắn chặt răng, siết chặt nắm đấm, luôn sẵn sàng xông vào bất kì cuộc tranh cãi và trận chiến đấu nào. Con người này giàu tình yêu thương, và giống như những nhân vật dũng cảm trong các cuốn tiểu thuyết Pháp, chỉ cần đến câu thứ ba là đã rút ngay gươm ra khỏi bao và sẵn sàng chiến đấu.” Trên bước đường kiếm sống, Alyosha đã gặp và sống với những người lao động bình thường: thợ mộc, thợ nề, thợ làm tượng thánh, phu khuân vác… và cả các nghệ sĩ, nhà thơ, nhà triết học… Mỗi người đều cần thiết và quan trọng đối với Alyosha, giúp tâm hồn cậu thêm phong phú, khiến cậu trở nên mạnh mẽ, khôn ngoan, có đủ nghị lực đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống. Trong quá trình tiếp xúc với những người này, tính cách của Alyosha dần dần hình thành. Bác đầu bếp Smouri, một trong những “người thầy” của Alyosha, một người vốn nghiêm nghị và thích cô độc, có tâm hồn hiền hậu và tấm lòng công bằng, cao thượng. Khi Alyosha đọc cho bác nghe chuyện Taras Bulba của Gogol, tới cảnh cái chết của vị thủ lĩnh Cossack thì Smouri, người mà tất cả mọi người trên tàu đều sợ, đã khóc nức nở. Chính nhờ cuộc gặp gỡ với Smouri mà Alyosha bắt đầu say mê đọc sách. Càng tiếp xúc với những người Nga bình thường, càng tìm hiểu họ sâu hơn, Alyosha càng thấy “những người chủ” là tầm thường, tẻ nhạt, thế giới của họ hóa ra không bền vững và chắc chắn như cậu tưởng. Alyosha đã trải qua cả một “trường học đường đời” khi làm việc ở xưởng làm tượng thánh. Những người thợ trong xưởng mà Alyosha tiếp xúc là những người có tinh thần ham hiểu biết, có tâm hồn phong phú và có tài năng. Ở mỗi người, Alyosha đều cảm thấy họ thực sự hiểu biết cuộc sống và nghệ thuật. Những người đó tuy sống tù túng trong xưởng nhưng vẫn đầy lòng cao thượng, sức mạnh và vẻ đẹp. Không phải vô cớ khi kể về Sitanov, Gorky nhắc rằng trong anh hình như có một cái gì giống với “nhà quý tộc Tây Ban Nha”, nhân vật mà Sitanov yêu thích hơn cả. Đặc biệt, Jikharev đã khiến Alyosha rất đỗi ngạc nhiên; đó là một nghệ sĩ nhân dân, một người bị giày vò vì khát vọng hiểu biết và sáng tác tự do. “Chúng ta biết được những gì? Chúng ta sống thật quá tầm thường… Còn đâu là tâm hồn? Tâm hồn ở đâu rồi? Nguyên bản thì có đấy; nhưng trái tim thì không…” Alyosha lo lắng và vui mừng nghe những lời lạ tai ấy của Jikharev. Những người này càng ngày càng nhận thức rõ sự bất công, vô nghĩa của thứ lao động cưỡng bách. Họ bị dồn vào cảnh lao động kiệt sức và đơn điệu, mất hết niềm vui và phúc lợi ở đời. Họ thèm muốn ánh sáng, tri thức, cái đẹp. Những cuốn sách mà Alyosha đọc đã khiến họ say mê, rung động. Khi Alyosha đọc tập thơ Con quỷ của Lermontov, những người này khiến cậu hết sức ngạc nhiên bởi khả năng thụ cảm nghệ thuật rất tinh vi và sâu sắc của họ. Qua những năm sống phiêu bạt ấy, trong Alyosha nảy sinh tình yêu mạnh mẽ với con người, thứ tình yêu mà cậu sẽ mang suốt đời. “Chú được cái tốt là đối với ai chú cũng coi như họ hàng thân thích cả, cái đó rất tốt!” Kapendiukhin đã nói với Alyosha như vậy. Alyosha luôn có mặt trên con đường đi tìm chân lí, mục đích cuộc sống, đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi vẫn giày vò cậu: “Làm thế nào để giúp đỡ mọi người?” Đối với Alyosha, việc tìm hiểu ông lão thợ mộc Osip là một điều “hết sức cần thiết”. Tính tình phức tạp của Osip giúp cho Alyosha hiểu được bản chất mâu thuẫn của nông dân (Về Osip, năm 1897 Gorky đã viết trong truyện ngắn Vanka Mazin và năm 1912 trong truyện ngắn Băng chuyển). Alyosha biết tìm ở mọi người những điều cần thiết với cậu, mặc dù những người ấy khác xa cậu. Trong tâm thức, Alyosha đã phân biệt được ước mơ và thực tế. Giờ đây, cậu không chỉ hướng về sách vở, thơ ca, truyện thần thoại để tìm kiếm sự dũng cảm và chân lí mà biết hướng vào hiện thực: “Điều đó càng khiến tôi ngạc nhiên hơn, tôi cảm thấy rất rõ những mâu thuẫn giữa thực tế và sách vở. Trước mặt tôi là con người sinh động mà trong sách vở không thấy được: bác Smouri, anh thợ đốt lò Yaakov, ông khách lưu lạc Aleksasha Vassiliep, bác Jikharev, chị thợ giặt Natalya…” Hình ảnh của những con người sinh động này chiếm một vị trí quan trọng trong tâm trí cậu bé Alyosha. Chương cuối của Kiếm sống xuất hiện một hình tượng đầy ý nghĩa – cảnh “trái đất nửa thức nửa ngủ”. Alyosha muốn đá tung tất cả trái đất và ngay cả chính mình nữa để cho tất cả mọi vật “xoay như một cơn lốc mừng vui trong điệu múa tưng bừng của những người yêu nhau say đắm, những người yêu cuộc sống này – cuộc sống mở đầu cho một cuộc sống khác tươi đẹp, phấn khởi và ngay thật”… Nhưng trong giai đoạn này, hiểu biết của Alyosha còn hạn chế, cậu chưa trả lời được câu hỏi: Cụ thể phải làm gì để giúp mọi người, phải thực hiện lí tưởng xây dựng một thế giới hợp lí và công bằng như thế nào? Tác phẩm Kiếm sống kết thúc bằng những suy nghĩ già dặn của cậu thiếu niên Alyosha mười sáu tuổi, sau những năm lăn lộn với sóng gió của cuộc đời để kiếm sống. “Tôi nghĩ bụng: ‘Ta phải làm được một việc gì chứ, nếu không thì ta sẽ sống vô ích…’ Vào những ngày thu ảm đạm, khi không những không nhìn thấy, không cảm thấy, mà còn quên mất cả mặt trời, tôi thường bị lạc trong rừng. Tôi đi chệch đường, chẳng tìm được lối hẻm nào; cuối cùng, sau khi sục sạo đến mệt bã người, tôi cắn răng đi xuyên qua rừng rậm, giẫm trên những cành cây mục nát, những mô đất tròng trành của vũng lầy. Cuối cùng, tôi luôn tìm được đường đi. Tôi quyết định cũng sẽ sống một cuộc đời như vậy.” Nhưng mãi đến sau này, phải qua nhiều năm được tôi luyện trong “những trường đại học” thực tế của cuộc đời, chàng thanh niên Alyosha Peskov mới tìm được hướng đi cho mình. Truyện tự thuật không phải là một thể loại mới trong văn học. Trước kia ở Nga, Saltykov Shchedrin, Lev Tolstoy, Aksakov… cũng đã từng viết truyện tự thuật. Gorky phát triển một cách sáng tạo truyền thống ưu tú của quá khứ và nâng cao tính tư tưởng của thể truyện này. Tác phẩm tự thuật của Gorky đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Nó là chiếc chìa khóa giúp ta hiểu thấu nguồn gốc thiên tài của Gorky, nắm chắc mối quan hệ vô cùng sâu sắc giữa Gorky với nhân dân, đất nước và cuộc sống. Con đường Gorky đã trải qua là con đường tiêu biểu của nhiều người Nga mòn mỏi trong cảnh bần cùng hóa bi thảm, trong lao động cực nhọc, sự vươn lên của tuổi trẻ với khát khao sáng tạo thường chịu áp chế, bóp nghẹt, nhưng những người trẻ tuổi vẫn tràn trề lòng tin, vượt mọi trở ngại trên con đường đi tìm lẽ sống. Gorky không coi tiểu sử của Alyosha Peskov là một hiện tượng siêu việt, ông từng tuyên bố: “Lịch sử của Gorky không phải là một trường hợp duy nhất và không phải là một trường hợp ngoại lệ đặc biệt.”[4] Các nét tính cách nổi bật của Alyosha là: Lòng biết ơn nồng nhiệt với những người có lòng tốt với mình; tình cảm thương yêu những bạn cùng trang lứa đau khổ hơn mình; khát vọng chính nghĩa tới mức say sưa; mối căm thù sâu sắc đối với bọn áp bức tàn bạo; tinh thần bất khuất, khắc phục khó khăn; lòng yêu lao động… Nổi bật nhất là tinh thần hiếu học, chí cầu tiến, óc quan sát tinh vi, thói quen nhìn thẳng vào sự việc để phân biệt rõ ràng cái tốt, cái xấu. Alyosha không sống thụ động, tính cách cậu dần được hình thành vững vàng trong cuộc đấu tranh chống lại nguồn gốc của cái xấu xa trong đời sóng, trong khao khát hướng tới những điều tốt đẹp, công bằng và nhân đạo. Gặp Gorky lần đầu tiên năm 1905, Lenin nói: “Phải học ở Gorky cách nhìn và cách nghe.” Tác phẩm tự thuật của Gorky là một kho vốn sống phong phú, miêu tả lại bước đường gian truân đã dẫn dắt Gorky tới tuổi trưởng thành, nêu lên những ấn tượng sâu sắc nhất đã gợi hình, gợi ý, chuẩn bị cho đời sống văn học của Gorky. Tác phẩm không chỉ là tiểu sử riêng của một cá nhân mà còn là bức chân dung của cả một thế hệ, bức họa rộng lớn về phong cảnh, đất nước và xã hội Nga cuối thế kỉ XIX với những nét khắc họa điêu luyện, sâu sắc về cả diện mạo và tâm lí sinh động của con người. Tính điển hình của các hiện tượng được miêu tả trong tác phẩm bộ ba Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi khái quát cao độ, làm rung động và chiếm được cảm tình lớn của độc giả. Nhà văn Alexander Shirvanzade[5] đã nói về tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky như sau: ‘Theo quan điểm của tôi, toàn bộ cuốn sách tượng trưng cho cuộc sống của nhân dân Nga; cuốn sách kể về tâm hồn nặng trĩu không chỉ của dân tộc Nga mà của các dân tộc nói chung. Anh xem, tôi có phải là người Nga đâu, tôi là người Armenia, sinh trưởng và sống khác xa cuộc sống Nga, vậy mà những gì anh miêu tả rất giống cuộc sống của dân tộc tôi. Anh hãy tin rằng nhà văn Pháp, nhà văn Anh, hay nhà văn ở bất kì nước nào, xuất thân từ nhân dân hoặc hiểu biết cuộc sống của dân tộc mình, cũng sẽ nói với anh những điều như vậy.”[6] Nhà cách mạng Đức Rosa Luxemburg[7] trong bài luận văn Tinh thần văn học Nga có bàn tới tác phẩm tự thuật của M. Gorky như sau: “Chú bé kêu gào như một con sói con bị truy bức, nhe nanh vuốt sắc nhọn trước số mệnh. Cái tuổi thơ ấu đầy khốn quẫn, đau khổ, nhục nhã, hoài nghi, lưu lạc, gần gũi với những cặn bã của xã hội ấy bao hàm tất cả những đặc trưng có tính chất điển hình trong cuộc sống của giai cấp vô sản nước Nga đương thời. Phải đọc hồi kí của Gorky mới có thể lường được quá trình phát triển kinh khủng của ông – từ dưới đáy của xã hội vươn đến đỉnh cao của thế giới quan khoa học, của nghệ thuật thiên tài và của sự tu dưỡng văn hóa. Vận mệnh cá nhân của Gorky tượng trưng cho giai cấp vô sản Nga – giai cấp nhìn bề ngoài thì thiếu văn hóa, thô bạo, dưới thời Nga hoàng đã trải qua những thử thách của cuộc đấu tranh tàn khốc và trong một thời gian ngắn ngủi đến kinh người, trong vòng hai mươi năm, trở thành lực lượng tích cực của lịch sử.”[8] Đối với Gorky, cuộc sống và số phận ông cũng là cuộc sống và số phận của nhân dân ông; những điều khủng khiếp xảy ra xung quanh ông có ghê gớm đến thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm ông mất lòng tin vào cuộc sống. Ông vẫn nhìn thấy trong cuộc sống những mầm non tốt đẹp của tương lai và vạch ra con đường của quá trình phát triển lịch sử sau này. Đó là một trong những điểm khác biệt giữa tác phẩm tự thuật của Gorky và các tác phẩm tự thuật cổ điển khác. Trên cơ sở tài liệu tự thuật, Gorky đề ra một trong những vấn đề quan trọng nhất của hiện thực xã hội chủ nghĩa – vấn đề hình thành tính cách con người tiêu biểu cho những mói quan hệ mới – mà sau này nhiều nhà văn khác kế thừa. Có thể nói tác phẩm tự thuật của Gorky là một tác phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa cổ điển đặc sắc, bởi vì Gorky đã cương quyết vạch trần chủ nghĩa tư bản theo lập trường quan điểm của Đảng, đồng thời cũng khẳng định tương lai vĩ đại của dân tộc Nga. Các nhà nghiên cứu và phê bình văn học nhiều lần nhận định rằng, chỉ xét riêng các chi tiết miêu tả một cách tế nhị, tinh vi tâm hồn, đặc điểm tâm lí, nghệ thuật thể hiện nội tâm, tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky có thể sánh ngang với các tác phẩm ưu tú của nền văn học thế giới. Tuy nhiên, điểm nổi bật trong sáng tác của Gorky là quá trình hình thành tư tưởng cách mạng, quá trình con người nhận thức xã hội. Đó chính là cái sáng tạo mà Gorky đã đóng góp vào truyền thống văn học vẻ vang của quá khứ, và chính điều đó đã xác định giá trị tác phẩm bộ ba tự thuật của Gorky với sự phát triển của nền văn học Xô viết và thế giới. Trần Khuyến Mời các bạn đón đọc Kiếm Sống của tác giả Maxim Gorky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Pollyanna (Tiếng Việt)
Pollyanna là một tiểu thuyết bán chạy nhất năm 1913 của Eleanor H. Porter mà ngày nay được xem là kinh điển của văn học thiếu nhi, với tên nhân vật chính đã thành một thuật ngữ phổ biến trong tiếng Anh để chỉ người lạc quan quá mức, ngoài ra, sự thiên lệch tiềm thức theo hướng tích cực thường được mô tả là nguyên tắc Pollyanna. Cuốn sách này đã thành công đến mức Porter sớm sáng tác phần tiếp theo, Pollyanna Grown Up (1915). Mười một phần tiếp theo Pollyanna, được gọi là "Glad Book", sau đó đã được công bố, hầu hết trong số này được viết bởi Elizabeth Borton hoặc Harriet Lummis Smith. Và có các phần tiếp theo nữa, bao gồm Pollyanna Plays the Game bởi Colleen L. Reece, xuất bản năm 1997. Pollyanna đã được chuyển thể thành phim nhiều lần. Một trong những phim phổ biến nhất là phiên bản 1960 với sự tham gia diễn viên trẻ Disney Hayley Mills, người đã giành một giải Oscar đặc biệt cho vai diễn, và phiên bản 1920 với diễn viên chính Marry Pickford.   Pollyanna trưởng thành, truyện tiếp theo bà viết năm 1915, nhân vật Pollyanna đã trở thành anh hùng của châu Âu. Bên cạnh đó Pollyanna phải đối mặt với nhiều rào cản trong cuộc sống, tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Năm 1920, Eleanor H.Porter mới viết xong đoạn kết cuốn truyện Pollyanna. Ngày 21 tháng 5 năm 1920, bà mất tại nhà ở Cambridge, Massachusetts, và được mai táng ở nghĩa trang Mount Auburn thuộc quận Middlesex, bang Massachusetts. Những tác phẩm của bà, đặc biệt là Pollyanna đã mang niềm vui đến cho hàng triệu độc giả khắp hành tinh. *** Eleanor Hodgman Porter (1868 - 1920), tác giả người Mỹ, sinh ngày 19 tháng 12 năm 1868 tại Littleton, tiểu bang New Hampshire. Là con gái của Francis Fletcher Hodgman và Llewella Woolson. Sau khi tốt nghiệp nhạc viện New England ở Boston, bà trở thành ca sĩ nổi tiếng. Ngày 03 tháng 05 năm 1892, bà kết hôn với John Lyman Porter và khởi nghiệp ở New England với truyện ngắn cùng những bài viết đăng trên báo, tạp chí mang tính đại chúng như: Bạn của nhà nội trợ, Harper’s Weekly. Vượt dòng, sáng tác năm 1907 của bà là cuốn tiểu thuyết đầu tiên được xuất bản. Tiếp theo là Hướng thủy triều (1908) và Chuyện về Marco viết năm 1911. Cô Billy cũng xuất bản trong năm 1911, là cuốn sách thành công nhất về mặt thương mại. Nhưng cuốn truyện Pollyanna bà sáng tác năm 1913 mới thực sự chinh phục độc giả thế giới. Với câu nói nổi tiếng: “Chỉ hít thở thôi thì không thể gọi là sống được!” cô bé mồ côi Pollyanna Whittier làm xúc động nhiều trẻ em bởi tính cách hồn nhiên trong sáng và lạc quan yêu đời. Khi các câu lạc bộ giải trí xuất hiện, Pollyanna đã được chuyển thể phục vụ sân khấu và phim ảnh. Mary Pickford đã thành công trong phim câm năm 1920, Hayley Mills thành công với kịch bản năm 1960. *** Kính gửi dì Polly và ông Tom, Cháu đi được rồi! Cháu đã có thể đi được rồi! Hôm nay cháu đã bước được sáu bước từ giường tới cửa sổ. Đôi chân cháu đang dần hồi phục dì ạ. Cảm giác đi lại được trên đôi chân của chính mình thích lắm dì ạ! Các bác sĩ đứng chung quanh mỉm cười khích lệ cháu, còn các cô y tá reo lên mừng rỡ, có người còn sụt sùi khóc. Một bệnh nhân ở phòng bên đã đi lại được từ tuần trước lén nhìn cháu qua cánh cửa hé mở. Một bà bệnh nhân nữa đang hy vọng tháng sau có thể đi lại được. Bà này cũng được các bác sĩ mời tới dự liên hoan chung vui cùng cháu. Bà nằm trên giường bệnh, vỗ tay chúc mừng cháu. Ngay cả chị Black Tilly, người cọ rửa sàn cũng nhìn qua cửa sổ mái hiên và thốt lên: “Em bé đáng yêu của chị!” rồi bỗng khóc òa lên. Cháu mến chị ấy lắm dì ạ. Cháu thì chẳng hiểu sao mọi người cứ khóc suốt vậy. Lúc này, cháu chỉ muốn reo lên vì vui sướng. Ôi, thật tuyệt diệu! Rồi đây, cháu sẽ được đi lại, được chạy nhảy như xưa. Dù có ở bệnh viện ngót mười tháng trời cũng có sao đâu, dì nhỉ, vì cháu sắp bình phục rồi. Hơn thế nữa, cháu cũng chẳng bỏ lỡ đám cưới của người thân yêu nhất với cháu trên đời cơ mà. Dì cùng bác Chilton đã đến tận đây tổ chức dám cưới để cháu có thể nhìn thấy hai người. Dì của cháu luôn nghĩ ra những điều tuyệt vời nhất! Các bác sĩ nói không lâu nữa cháu sẽ được về với dì. Ngày mai cháu sẽ cố đi tám bước. Cháu vui đến nỗi ước gì có thể đi bộ một mạch từ đây về nhà ấy chứ! Không cần phải đi xe lửa nữa, tự đi lại trên đôi chân của mình thú vị hơn nhiều dì ạ. Giá mà dì biết được lúc này cháu đang vui thế nào. Giờ nghĩ lại về vụ tai nạn, cháu lại thấy mừng. Người ta nào biết được sự quý giá của đôi chân cho tới khi mất chúng. Dì cho cháu gửi tới các bác, các cô và Nancy muôn vàn tình yêu thương trìu mến. Pollyanna Mời các bạn đón đọc Pollyanna của tác giả Eleanor H. Porter.
Màu Tím - Bao'er Jinna
“... Tôi thừa nhận có lúc đặt bút xuống viết bỗng thấy tuyệt vọng trào dâng, nhưng nhìn một cách tổng thể thì bao trùm lên vẫn là niềm lạc quan bao la rộng khắp. Không có những ngôn từ hoa lệ, cũng không muốn hoa trang thật mỹ miều, chỉ muốn gắng sức để làm sao lột tả một cách chân thành nhất, sâu sắc nhất cuộc sống thực của thế hệ chúng tôi ngày ấy. Đẹp đẽ cũng được, thô tục cũng được, đau xót cũng được, tuyệt vọng cũng được... cái mà tôi muốn nói tồn tại chính là sự hợp lý và nét chân thực... đó mới là đáng quý!” “(Trích lời tác giả - Bao’er Jinna) Khắc hoạ lên quãng đường của cả một thế hệ bằng một thứ ngôn ngữ sắc bén nhưng vô cùng chân thật, có sức hút mạnh mẽ. Không phải tác giả trẻ nào cũng dồn nén được quá nhiều những xúc cảm vào ngòi bút như Bao’er Jinna. *** Vẫn là buổi tối hôm đó, hai mươi ba giờ mười lăm phút. Nửa tiếng đồng hồ trước đã ép buộc bản thân phải lên giường đi ngủ, nhưng Tử Minh vẫn đang mở to mắt nhìn ánh trăng chiếu ngoài cửa sổ. Trăng hôm nay trông có vẻ không được tròn trịa cho lắm và do bị sương giăng mây phủ nên tỏa ra một cảm giác trầm lắng mông lung. Mỗi khi ngắm trăng, Tử Minh lại thường cảm thấy phiền lòng thay cho chị Hằng Nga. Ngày ngày ở trên đó cùng với một chú thỏ ngọc và một anh chàng Cuội ngốc nghếch, chị ấy làm sao có thể chịu đựng được qua mấy nghìn năm như thế nhỉ? So sánh với cuộc sống của Hằng Nga, cuộc sống của mình quả là hạnh phúc. Ở bên cạnh luôn có những người yêu mình, thương mình, và mình cũng yêu quý họ. Ngày mai, ngày mốt, rồi tới tận một ngày xa xôi nào đó nữa, ít nhất ngày nào cũng được như vậy. Đang chống cằm với vẻ hốt hoảng thì tiếng điện thoại trong chăn rung lên ầm ĩ. Tử Minh mở ra xem, là tin nhắn của Nhan Thu. - Bây giờ hãy đi ra ban công. Tử Minh giật mình kinh ngạc, nhảy vụt từ trên giường xuống, vừa ôm đầu gối bị đau vừa bay nhanh ra ban công nhà. Từ ban công tầng ba nhìn xuống, dưới ánh trăng trải dài như thác nước, Nhan Thu đang đứng ôm đóa hồng trắng trong tay ngẩng đầu ngước mắt nhìn. Mặc dù vừa chia tay có vài tiếng đồng hồ trước thôi, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, Tử Minh lúc này vẫn hoàn toàn thẫn thờ. Sau khi bước vào thời kỳ dậy thì, cô bé đã xem rất nhiều phim tình cảm xúc động, cũng bắt gặp rất nhiều mối tình đẹp lãng mạn nhưng không có bất kỳ một cảnh nào trong một bộ phim nào lại đẹp hơn cảnh tượng đang diễn ra trước mắt bây giờ. Cũng không có bất kỳ một câu nói romantic nào có thể khiến cho linh hồn cô bé xao động như nụ cười lặng lẽ của Nhan Thu lúc này. Tại thời khắc đó, trong đầu Tử Minh bỗng nảy sinh ra một ảo giác, hoặc cũng có thể nó vốn dĩ đã diễn ra như vậy: Tất cả vạn vật bên ngoài ban công nơi cô bé đứng đều nhanh chóng bị đẩy ra xa, rơi xuống một sân khấu to lớn. Màn đêm dệt thành một tấm màn màu xanh, ánh trăng biến thành một chiếc đèn chùm từ trên trời chụp xuống, lan tỏa lên khắp cơ thể của nam nhân vật chính, chiếu rọi vào cặp mắt chan chứa tình cảm và đóa hồng trắng trên tay làm cho chúng càng trở nên long lanh óng ánh. Mời các bạn đón đọc Màu Tím của tác giả Bao'er Jinna.
Đường Về Cánh Đồng Chum - Bùi Bình Thi
Đường về Cánh Đồng Chum gồm mười bốn chương viết về cuộc chiến đấu của quân đội nhân dân Lào chống lại bọn thổ phỉ tay sai Mỹ giai đoạn những năm 1970. Đây là cuộc chiến đấu can trường, thể hiện sự bền bỉ, gan dạ, quyết tâm và hy sinh mất mát của bộ đội Pa-thét (Lào). Xuyên suốt tác phẩm là cuộc đấu tranh của 2 tuyến nhân vật chính Đuông-chăn và Bun-ma. Đó là hai người bạn cùng trang lứa, lớn lên trong cùng một bản, nhưng ở hai hoàn cảnh gia đình khác nhau, lý tưởng sống khác nhau đã hình thành nên hai hướng đi trái ngược nhau . Vì thù hằn cá nhân, chính Bun-ma đã đang tâm thiêu sống mẹ Đuông-chăn, cưỡng bức người con gái mà Đuông-chăn sau này lấy làm vợ… họ trở thành hiện thân cho mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc Lào trong giai đoạn này. Nếu như Đuông-chăn là hình mẫu tiêu biểu của quân giải phóng nhân dân cách mạng Lào thì Bun-ma là hiện thân của bọn phỉ tay sai Mỹ. Với lối viết giản dị, giọng văn mộc mạc, trong sáng, Nhà văn Bùi Đinh Thi đã tái hiện lại cuộc chiến tranh đau thương gian khổ, nhưng cũng rất hào hùng của quân đội giải phóng nhân dân cách mạng Lào. Những nỗi đau, mất mát, hy sinh, nợ nước xen lẫn thù nhà, cùng chung cảnh "nồi da nấu thịt" khiến chúng ta không khỏi liên tưởng đến cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam với đế quốc Mỹ lúc bấy giờ. *** Bữa ăn sáng đã xong. Các tiểu đội mang soong nồi lại trả anh nuôi chồng thành một chồng cao ngoài thềm bếp. Đuông-chăn ngó quanh rồi ra ngồi dưới nắng, vén tay áo lên. Vết thương rạch một vệt dài ngang cánh tay trên, đã mọc da non, ngứa ngấy làm anh khó chịu. Đuông-chăn đưa tay xoa nhẹ quanh vết xẹo, mắt ngó sang một vết sẹo khác đã lành bên cạnh. Ngoài lối mòn có tiếng loạt xoạt cành lá và một bóng người đi nhanh tới. Đuông-chăn ngẩng lên kéo cánh tay áo xuống, nhìn ra. - Anh Đuông-chăn không ngủ trưa à?-Cậu liên lạc đại đội hỏi - Không? Có việc gì thế? - Đại đội trưởng gọi anh. Đuông-chăn đứng lên đi theo cậu liên lạc sang lán ban chỉ huy. Sổm-si đang hí húi giở nhanh một xáp giấy có nhiều nét chữ khác nhau. Thấy Đuông-chăn vào, anh ngấng lên: - Vào đây- Đại đội trưởng Sổm-si quay sang nhìn Đuông-chăn một cái nhanh rồi lại chăm chú lật giở xấp giấy. Đuông-chăn ngồi xuống giường, bên cạnh đại đội trưởng với một vẻ phân vân. - Đuông-chăn giấu ban chỉ huy nhá-Sổm-si đột nhiên nói nhỏ, miệng tủm tỉm cười-Lập công thế này mà không nói. Sổm-si chìa xấp giấy ra. - Thư của bà con mình ở các bản gửi đến báo cáo về thành tích diệt phỉ của Đuông-chăn đây. Mười ba lá. Đuông-chặn ngỏ tập thư, cười ngượng nghịu: - Mình đi mua rau quả gặp nó thì đánh thôi, có gì mà phải báo cáo - Đuông-chăn nói lúng búng. Sổm-si ngửa mặt cười vang, anh vừa vui với những điều viết trong tập thư vừa mến cái nói rụt rè ngộ nghĩnh của Đuông-chăn: - Thôi, bây giờ Đuông-chăn giao nhiệm vụ anh nuôi cho đồng chí khác, sang làm tiểu đội trưởng. Đuông-chăn giật mình, nhìn Sổm-si, cặp mắt mở to bỡ ngỡ, nói buột ra: - Mình chưa làm được nhiệm vụ đó đâu. - Đuông-chăn bảo chưa làm được, nhưng ban chỉ huy bảo làm được thì sao? Đuông-chăn cúi đầu, gương mặt đó bừng lên như đứng trưỏc con gái. - Lúc nào mình nhận nhiệm vụ mới! - Ngay bây giờ. Đuông-chăn quê Phong-xa-ly một tỉnh thuộc bắc Lào. Phong-xa-ly có nhiều rừng cây “mạy may” (1). Mạy may mọc bát ngát trên những ngọn đồi cao, mạy may có sức sống rất dai, gió bão mạy may ngả rạp, lặng gió nó lại tựa nhau đứng thẳng lên vươn ngọn cao ngang trời và trổ hoa như một rừng cờ. Mời các bạn đón đọc Đường Về Cánh Đồng Chum của tác giả Bùi Bình Thi.
Dòng Sông Chết - Thiên Sơn
Tất cả là một cuộc độc thoại dài. Trong một cảm giác cô đơn vây tỏa, không thể chia sẻ cùng ai, nhân vật chính tự nói với mình, tự kể lại những gì mình trải nghiệm, đã suy nghĩ. Một giọng điệu trữ tình, xuyên suốt quán xuyến từ đầu đến cuối cuốn sách như một dòng sông miên man không ngừng chảy. Những điều sâu thẳm, những huyền bí của nội tâm được tái hiện. Nhân vật chính trong tác phẩm là một nhà hóa học trẻ tuổi đã trở thành người lật tẩy một trong những điều tệ hại nhất của thời đại chúng ta. Đó là sự không kiểm soạt được mặt trái của cuộc cách mạng khoa học và công cuộc công nghiệp hóa đối với cuộc sống con người. Thành tựu của các cuộc cách mạng ấy đã bị sử dụng vào những mục đích vụ lợi và vô trách nhiệm. Chính vì vậy đã đẩy con người vào tình trạng nhiễm độc nguồn thức ăn và môi trường sống. Ngoài ra, cuốn sách cũng cố gắng vươn đến những chủ đề khác, đề cập đến những khía cạnh phong phú và nóng bỏng mà thực tại đặt ra, đòi hỏi giải quyết trong một đất nước đang thay đổi. *** Sáng hôm sau mình ra sân bay. Cảnh cuối cùng trước khi ra đi khắc tạc vào tâm trí mình. Bố đứng không vững bên cánh cổng, bàn tay rung rung chìa ra nắm lấy tay mình. Mình ôm lấy bố, nước mắt ứa ra. Bố yếu quá. Những sợi tóc vốn đã bạc màu, giờ trông càng xơ xác. Cố chạy thật nhanh, mình sợ niềm thương cảm, sự yếu đuối lúc này giữ chân mình lại. Dù mang khát vọng, quyết tâm đi tìm một con đường nghiên cứu và phương thuốc chữa căn bệnh của bố mình, nhưng mỗi lần trở về căn nhà xưa cũ, trong vòng tay của bố mẹ, mình vẫn không thể nào thoát khỏi cái cảm giác bé bỏng như hồi còn thơ ấu. Mình lại thấy kém tự tin, muốn vục đầu vào lòng mẹ mà khóc như xưa. Hai ngày sau mình bắt tay vào công việc. Chương trình hợp tác đa quốc gia mà mình tham gia có nhiều lĩnh vực từ việc nguyên cứu tác động của sự phát triển công nghiệp đối với môi trường, sự ô nhiễm nguồn thức ăn, để khuyến nghị chính sách với các chính phủ hoặc mở đường cho việc chế tạo những loại thuốc chữa bệnh. Với mình, ngoài chương trình làm việc chung, mình còn có chương trình riêng, với một quá trình nghiên cứu lặng lẽ song song không ngừng. Việc gắn liền với một môi trường làm việc chuyên nghiệp khiến mình có điều kiện để nâng cao các kỹ năng, phương pháp nghiên cứu và có thêm các quan hệ với những giáo sư đến từ nhiều nước để có thể học hỏi và trao đổi thêm. Mình quen thêm bạn bè ở nhiều nước. Những nhà khoa học trẻ đến từ nước Mỹ, nước Anh, Đức, và Úc… Mình cũng gặp được giáo sư Myriel, một người Pháp đến Mỹ đã lâu và hiện là người có vai trò quan trọng ở bộ môn hóa dược thuộc trường Đại học Harvard. Trong câu chuyện mình có để lộ tâm tư, muốn dồn sức nghiên cứu về một loại thuốc thoái hóa não để chữa căn bệnh của bố mình. Giáo sư Myriel nói rằng, khoa học vẫn gặp phải những thách thức gay gắt trước việc tái tạo lại những vùng trí nhớ bị mất của căn bệnh quái ác này. Ông chia sẻ với mình những khát vọng và tâm tư đau đáu, nhưng ông bảo đó là khát vọng chung của những người làm khoa học chân chính. Chỉ có điều, biết bao nhiêu cuộc đời đã trôi qua với mộng ước bất thành này. Và dường như con người vẫn luôn bị tự nhiên vây phủ trong những bí mật không bao giờ có thể khám phá. Mình có dịp đi đến nhiều xứ sở, tham quan nhiều khu công nghiệp, nhiều cơ sở chế biến thức ăn. Với con mắt khoa học mình được trang bị một cách nhìn có phần bi quan về những hiểm họa do cuộc phát triển của cách mạng công nghiệp đem lại. Vì lợi ích nhất thời ích kỷ của một tập đoàn, một tổ chức kinh tế nào đó mà người ta vô hình chung đã ngày càng đẩy đồng loại tới sự ô nhiễm, phá hủy môi trường trong sạch và đưa con người ngày càng tiến vào một thảm cảnh kinh khủng dường như không thể tránh khỏi ở tương lai. Mời các bạn đón đọc Dòng Sông Chết của tác giả Thiên Sơn.