Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tìm Lại Tình Yêu - Debbie Macomber

Giống như về thăm nhà, Debbie Macomber dùng tài năng hiếm có của mình để mang đến cho độc giả một bức tranh toàn cảnh về đời sống của một thành phố. Macomber viết bằng nhận thức đau đến xé lòng khi phải đứng giữa những quyết định và lựa chọn được hình thành trong tình bạn và mối quan hệ gia đình. Qua những tiếng cười và giọt nước mắt, bà đào sâu các mối quan hệ bằng hiện thực và sự thấu hiểu đáng kinh ngạc trong câu chuyện giàu tình cảm và có nhịp độ nhanh này. Những giọt nước mắt vui mừng sẽ lăn dài trên má khi bạn đọc đến đoạn kết. *** Debbie Macomber, tác giả của những bộ tiểu thuyết lãng mạn dài tập Trở lại phố Blossom, Khu vườn nhà Susannah, Một câu chuyện hay; Cửa hàng trên phố Blossom, Giữa những người bạn và Chuyện tình vịnh Cedar. Là một trong những cây bút hàng đầu hiện nay về dòng văn học giành cho phụ nữ. Debbie nổi tiếng nhất với khả năng tạo ra các nhân vật có sức chiến đấu và thổi hơi thở cuộc sống vào những câu chuyện của họ. Rút ra từ những trải nghiệm của bản thân và những người trong gia đình cũng như bạn bè, bà đã chứng minh khả năng nhìn thấu tâm hồn những người phụ nữ và khả năng diễn đạt trạng thái cảm xúc, các giá trị cũng như những lo lắng của họ. Trong bất kỳ cuốn sách nào của bà cũng thể hiện tính hài hước nổi bật. Thường xuyên xuất hiện trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất với hơn 100 triệu bản in, tác giả giành được nhiều giải thưởng này đã ghi một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của bà vào tháng 9 năm 2007 khi tập sách mới đây nhất về Chuyện tình vịnh Cedar, 74 SEASIDE AVENUE (Vì anh yêu em), cùng lúc chiếm vị trí số 1 trong bảng xếp hạng những cuốn sách bán chạy nhất của NEWYORK TIMES, USA TODAY, Publishers Weekly, Bookscan. Với những cuốn sách được dịch ra 23 thứ tiếng khác nhau, bà được độc giả trên toàn thế giới yêu mến. - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do Amazon.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất năm 2005 do BordersBooks.com bình chọn - Top 10 tiểu thuyết lãng mạn bán chạy nhất do BarnesandNoble.com bình chọn - Top những cuốn sách bán chạy nhất của New York Times, USA Today, Publishers Weekly, Wall Street Journal, Waldenbooks, Los Angeles Times, Chiacago Tribune, Seattle Times… Truyện mở ra tại Vịnh Cedar, một thị trấn mơ mộng nằm trên bờ vịnh cùng tên, nơi mỗi sớm nắng nhuộm màu hồng mặt nước và mỗi đêm hải đăng hắt ánh vàng trên những lớp sóng lô xô, Đâu phải vì yêu là vở nhạc kịch tình say đắm về 2 đôi uyên ương mà số phận dun dủi kéo họ lại chung một lối. Olivia Lockhart đã tưới lọ nước hoa hạnh phúc cho Ian và Cecillia Randall, rồi chính bản thân nàng cũng nhận được cho mình vài giọt trong veo, nồng nàn quyến rũ. Ian và Cecil tìm lại nhau nhờ sự thu hút xác thân mãnh liệt, còn Jack đến với Olivia vì nàng nổi bật trên muôn người. Vượt qua mọi đam mê bản năng giữa đàn ông và đàn bà, chàng giục ngã trước vẻ đẹp tâm hồn và cá tình nàng. Họ sẽ đi về đâu với những đam mê ấy? Bằng ngòi bút lãng mạn và lôi cuốn, Debbie Macomber từng bước xây dựng cả một thiên đường tình ái đầy thiết tha mời gọi giữa chốn nhân gian này... ***   Bob Beldon liếc nhìn thực đơn trong nhà hàng nhỏ của bãi chơi ki. Thật ra chẳng cần thực đơn thì anh vẫn biết mình muốn gì. Hai quả trứng, thịt lợn muối xông khói, khoai tây chiên và hai miếng bánh nướng kẹp mứt dâu tây. Với hai đô la năm mươi xu, đây thật sự là một bữa ăn ngon miệng. Cô phục vụ bàn bước đến, và rót cà phê cho Bob. “Ông đợi ai nữa phải không ạ?”. Bob gật đầu. Ngay lúc đó, Roy McAfee bước vào nhà hàng đông đúc. “Rất đúng giờ”, Bob nhận xét trong lúc Roy đi qua quầy đối diện mình. “Anh gọi món chưa?”. “Chưa”. Cầm chiếc bình trên tay, cô phục vụ bàn trở lại, rót cà phê vào tách của Roy và đứng chờ họ gọi món. Bob gọi trước. Roy gọi bánh kếp. Người nữ phục vụ thong thả bước đi và xướng thực đơn cho đầu bếp. “Có chuyện gì thế”. Roy hỏi. Tối qua Bob đã gọi anh để hẹn cuộc gặp này. “Hôm kia Peggy kể cho tôi nghe một chuyện khá thú vị. Tôi đã nói chuyện với Troy Davis, nhưng tôi muốn nghe ý kiến của anh nữa.” “Được. Là chuyện gì?”. “Có vẻ như Peggy và Hannah đã có một cuộc tâm sự nho nhỏ.” “Anh có biết thêm được điều gì không?”. “Có”. Bob thêm đường và kem rồi khuấy đều tách cà phê lên. “Hannah buột mồm nói thỉnh thoảng bố cô bé có dùng tên giả. Peggy đã hỏi về chuyện đó và tôi nhận thấy là qua từng ấy năm, Max đã có một cơ số những cái tên và chứng minh thư khác nhau”. Roy nhướng mày lên. “Con bé chưa bao giờ nhắc đến điều đó?.” “Rõ ràng là không”. Bob kể lại nguyên nhân dẫn đến sự thú nhận này. “Con bé để ngỏ bình sữa cả đêm, tôi thấy khó chịu vì sữa bị hỏng. Sau khi tôi đi đánh gôn, Hannah rời khởi giường và bắt đầu nói chuyện với Peggy. Theo cách con bé mô tả, cuộc sống của mẹ con con bé cùng người bố giống như là địa ngục vậy.” “Trước đây, con bé chưa từng nói xấu bố?”. Bob cần suy nghĩ về điều này. Anh nhún vai. “Đúng. Tôi không nhớ mình đã được nghe những chuyện như vậy. Hình như con bé sống trong một thế giới kỳ quặc. Ban đầu, cô bé vẽ lên bức tranh ba người trong một gia đình trải qua những tháng năm hạnh phúc bên nhau. Hoá ra cuộc sống ấy không hề hạnh phúc như cô bé đã kể cho chúng ta”. “Có lý”, Roy nói, hai tay chụm lại giữ tách cà phê. “Cô bé mất cả bố lẫn mẹ chỉ trong một thời gian ngắn. Trong những tình huống bi đát và đau thương như thế, con người thường nhớ lại những phút giây đẹp đẽ”. Bob cho là bạn mình đã nói đúng. “Chẳng lẽ Troy không hỏi liệu con bé có biết gì về việc bố mình dùng những cái tên giả không à?”. “Tôi chắc chắn là có. Thế con bé có giải thích vì sao nó lại không nói không?”. “Peggy đã hỏi. Hannah khẳng định cô bé lo sợ rằng nếu ai đó phát hiện ra thì sẽ gặp rắc rối. Theo những gì cô bé nói, có vẻ như rắc rối đi theo Max tới bất cứ nơi nào ông ta đặt chân đến”. Roy nhíu mày, nhấp một ngụm cà phê. “Cô bé có vô tình nhắc đến một cái tên nào đó mà ông ta đã dùng? Hay ông ta lấy chứng minh thư giả ở dâu không?”. “Không, nhưng nếu Peggy hỏi, có thể Hannah sẽ nói”. Bob không nghĩ Hannah đủ tin tưởng mình để tâm sự những loại thông tin ấy, nhưng cô bé lại rất thân thiết với vợ anh. “Bảo Peggy hỏi cô bé, và tôi sẽ tìm hiểu lại mọi chuyện. Có thể chúng ta sẽ tìm ra manh mối nào đó”. Bob gật đầu. Anh cũng đã hi vọng Roy sẽ tình nguyện điều tra. “Hannah có biết gì về tấm chứng minh thư giả mà bố cô bé mang theo khi chết không?”. “Cô bé nói không biết”. Roy dò xét. “Anh có tin không?”. Bob cân nhắc câu hỏi một cách thận trọng và thực tế là anh không dám chắc chắn. Anh không thích Hannah, nhưng anh không thể giải thích được vì sao, thậm chí anh còn chẳng có một lí do rõ ràng nào để ghét cô bé. Peggy kết bạn với cô rất nhanh chóng, và Chúa mới biết cô gái trẻ có cần vợ anh quan tâm hay không? Nỗi lo lắng của Hannah và thái độ bồn chồn của cô bé khiến Bob không thoải mái. Dù Bob có nói nhẹ nhàng, thì cũng đủ để cô bé khiếp sợ, như thể anh sắp vồ lấy cô ta vậy. Tất nhiên, điều Hannah kể với Peggy đã phần nào giải thích được sự sợ sệt của cô bé khi thấy anh tỏ ra khó chịu với mình. “Mấy ngày nay có ai theo dõi anh không?”. Roy hỏi khi người phục vụ bàn mang bữa sáng đến cho họ. “Theo tôi là không. Không có gì xảy ra kể từ sau đêm đó. Tôi bắt đầu tự hỏi có phải do mình tưởng tượng không. Nhưng tôi biết là mình không tưởng tượng. Có thể chuyện này chẳng liên quan đến Max. Có thể chỉ là một gã điên khùng nào đó”. Roy đổ nước đường lên chiếc bánh kếp. “Anh thất vọng hả?.” “Đúng. Cách sống của tôi và Peggy thật nực cười. Tôi muốn thoát khỏi chuyện này bằng bất cứ giá nào. Nó đã khiến chúng tôi tốn hàng nghìn đôla rồi”. Bob nhấp một ngụm cà phê và nói tiếp. “Nếu thực sự có kẻ nào đó theo dõi tôi, thì chẳng lẽ bây giờ hắn vẫn chưa ra tay sao?”. Roy gật đầu. “Tôi đồng ý với anh. Nếu có kẻ định ra tay, thì mọi chuyện có thể đã xảy ra rồi”. Bob tán đồng trong khi miệng đầy bánh mì nướng và mứt. “Nghĩ đi nghĩ lại thì..”. Roy nói. “Thôi nào, Roy”, Bob phản đối, không cho Roy kịp nói hết. “Anh có muốn nghe lời khuyên của tôi không? “Tôi sẽ cho anh lời khuyên, và nếu thấy nhẹ nhõm, anh nên cảm ơn tôi”. “Thôi được, thôi được”. Bob dùng mẩu bánh mì chia đôi miếng lòng đỏ trứng ra. “Chia sẻ sự khôn ngoan của anh nào”. Roy cười tủm tỉm. “Chỉ chấp nhận cho ở nhờ đối với những người đã từng ở nhà nghỉ. Hoặc những người anh quen biết”. Bob tiếp lời Roy. “Nói cách khác, từ chối tất cả những người lạ mặt đến nhà vào lúc nửa đêm, đặc biệt là những đêm giông bão”. Roy cười thầm. “Anh nói đúng đấy”. Bob ăn xong bữa sáng và với tay lấy tách cà phê đã được rót đầy. “Tôi muốn cho anh biết một giả thuyết tôi vừa nghĩ ra”. Roy thả lỏng người, dựa vào quầy. “Nói cho tôi nghe nào”. “Anh biết mọi chuyện, ý tôi là những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam, đúng không?”. Roy gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng. “Anh nhớ là tôi đã trải qua một thời gian không mấy dễ dàng sau chiến tranh chứ? Tôi đã làm tất cả để có thể chôn vùi kí ức. Tôi đi tìm sự lãng quên. Và hậu quả của nó thật không dễ chịu với mọi người, đặc biệt là với Peggy và bọn trẻ”. Bob dừng lại. “Bề ngoài, Dan Sherman có vẻ thích nghi với cuộc sống thường ngày. Tôi nghĩ thế. Mấy chục năm rồi tôi không gặp anh ấy. Thậm chí khi tôi trở lại vịnh Cedar, chúng tôi còn cố tình tránh mặt nhau. Vì thế tôi không biết anh ấy cũng phải đấu tranh với những con quỷ của quá khứ”. Roy lắng nghe trong lúc Bob sắp xếp câu nói. “Theo những gì Hannah kể với Peggy, cuộc sống của Max không dễ chịu hơn cuộc sống của tôi là bao”. “Anh ta cũng uống rượu?”. “Một chút, nhưng tôi nghĩ đó không phải là vấn đề duy nhất. Anh ta ấy ngày càng bị ám ảnh, mặc dù đó không hẳn là điều mà Hannah đã nói.” “Anh có nhớ mọi thứ được xếp gọn gàng trong vali của anh ta như thế nào không?”. Bob gật đầu. Bọn họ đã rất ấn tượng với chiếc va-li ngăn nắp ấy. “Vậy anh đang nghĩ gì?”. Roy nhấn mạnh. “Khi từ Việt Nam trở về, tôi nhận ra rằng một ngày nào đó, bằng cách nào đó, tôi sẽ phải trả giá cho những gì đã xảy ra ở ngôi làng kia. Nếu tôi học được điều gì từ cuộc sống trong hơn năm mươi năm qua, thì đó là sự công bằng”. Bob hạ thấp giọng. Tôi... đã tước đi những sinh mạng vô tội, và giờ thì có kẻ nào đó muốn lấy đi mạng sống của tôi”. Nói ra được những lời ấy, Bob cảm thấy nhẹ nhàng hơn. Anh đã nghĩ đến điều này kể từ sau cái chết của Max, nhưng anh không có dũng cảm để nói thành lời. “Tiếp đi”, Roy giục. “Tôi nghĩ Dan cũng nhận ra điều này. Và anh ấy đã tự chọn cho mình một cách riêng để kết thúc cuộc sống”. “Tôi...”. “Hãy nghe tôi đã”, Bob quả quyết. “Tôi không biết liệu người thân của một trong số... những nạn nhân của chúng tôi có săn tìm chúng tôi không. Anh ta có thể đã chạm trán với Dan, buộc Dan phải đối diện với quá khứ. Ngoài ra, còn điều gì khác đưa Max tới vịnh Cedar này? Tôi nghĩ bất cứ kẻ nào chịu trách nhiệm về những chuyện này đều làm vì hành động trả thù”. Roy cân nhắc giả thuyết của Bob. “Tôi không biết. Có thể lắm, nhưng tôi vẫn nghi ngờ”. “Anh nên nhớ là đã có rất nhiều người Việt Nam di cư sang Mỹ kể từ sau chiến tranh”. “Theo tôi, khó có khả năng một trong số họ mang mối thù đó với bốn người lính Mỹ chúng ta trong từng ấy năm. Bởi nếu vậy, sao lại phải đợi đến tận bây giờ?”. Bob nhún vai. “Tôi không biết”. Có thể Roy đúng; suy nghĩ của Bob thật kì quặc, có thể nó chỉ là một sự tưởng tượng trong tâm trạng tuyệt vọng của anh. Nhưng ngoài ra, Bob cũng chẳng có lời giải thích nào hợp lí nữa. ... Mời các bạn đón đọc Tìm Lại Tình Yêu của tác giả Debbie Macomber.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nam Tước Phôn Gôn-rinh - Yuri Dold-Mikhajlik
Câu chuyện kể về sĩ quan tình báo Liên Xô, Lieutenant Goncharenko, dưới cái lốt là Nam tước Heinrich von Goldring, được cử thâm nhập sâu vào sào huyệt của Đức. Anh đã trải qua nhiều tình huống hiểm nguy và căng thẳng trên địa bàn hoạt động rộng khắp: Đức, Pháp, Ý,… Bên cạnh những cuộc đấu trí, những âm mưu, câu chuyện còn kể lại câu chuyện về tình yêu thời chiến. Cũng như những tiểu thuyết tình báo, phản gián khác, việc thưởng thức từng chi tiết và sự gay cấn là quan trọng, chứ không chỉ hiểu tóm tắt nội dung. Nam tước Phôn Gôn Rinh (И один в поле воин) – Iuri Dold-Mikhajlik (Юрий Дольд-Михайлик) Thật ra tựa đề Nam tước Phôn Gôn-rinh (Von Goldring) là do Nhà xuất bản đặt cho bản dịch tiếng Việt. Tựa gốc tiếng Nga có nghĩa là “Một mình trên chiến trường vẫn là chiến sĩ”. Đây là cuốn tiểu thuyết tình báo của Liên Xô, viết về thời kỳ chiến tranh với Đức Quốc xã. Tôi chưa có điều kiện để tìm hiểu xem tác phẩm này có nằm trong danh sách những tiểu thuyết tình báo hay nhất hay không, nhưng có thể nói đây là cuốn sách kinh điển trong thể loại này. Tác giả là nhà văn người Ukraine, cho nên tôi gặp nhiều kiểu phiên âm tên trong tiếng Anh (và cả trong tiếng Việt, tất nhiên). Mikhajlik, Mykhailyk hay Mikhailik đều được dùng, và hình như tác phẩm này chưa được dịch ra tiếng Anh. (Đây cũng chính là điểm thú vị của người đọc sách Việt Nam: sách Nga Xô hay Âu Mỹ gì cũng có cả!?). Cuốn sách này cũng đã được dựng thành phim tên “Xa Tổ quốc” (Вдали от Родины / Far from the Motherland) năm 1960. Tôi đọc bản tiếng Việt do NXB Thanh Niên tái bản năm 1982, gồm 2 tập dày cộp, do Trọng Phan – Hà Bắc dịch. Đã gần 30 năm nên giấy đã trở nên đen, chữ khá nhòe. Hy vọng sẽ có những lần tái bản đẹp hơn để các bạn thưởng thức. ***     Cách đây hơn 40 năm, năm 1960, lần đầu tiên cuốn "Nam tước Phôn Gôn-rinh" của Mỉ-khai-lich in ra đã gây được dư luận tốt trong đông đảo bạn đọc trẻ tuổi nước ta. Đây là một trong mười chuyện tình báo hay nhất của Liên Xô cũ, trước năm 1959.         Nội dung chủ yếu của cuốn sách: Dựa vào một chuyện có thật, tác giả dựng nên hình tượng người báo Xô-viết nhân vật Nam tước Phôn Gôn-rinh - nhận mệnh lệnh tình báo chiến lược của Bộ Tư lệnh Hồng quân Liên Xô vào hoạt động tận sào huyệt của bọn phát-xít Đức, trong Chiến tranh thế giới thứ hai.         Một mình hoạt động trên một chiến trường rất rộng, từ Liên Xô qua Đức, sang Pháp, đến I-ta-li-a, người tình báo Xô-viết gặp vô vàn khó khăn, nhiều lúc tính mệnh tưởng chừng như nghìn cân treo sợi tóc. Nhưng nhờ vào thông minh và lòng dũng cảm, người chiến sĩ ấy đã chiến đấu và thắng trở trong niềm hân hoan của nhân dân và Hồng quân Liên Xô.         Tục ngữ Nga có câu: "Một trên chiến trường không phải là chiến sĩ".Tác giả viết tác phẩm này, xây dựng nên hình tượng Nam tước Phôn Gôn-rinh và đặt tên cho tác phẩm của mình: "Một mình trên chiến trường vẫn là chiến sĩ"  (И один в поле воин). Tên sách "Nam tước Phôn Gôn-rinh" là Nhà xuất bản chúng tôi đặt năm 1960. Điều đó biểu thị thái độ của người đã khẳng định bản lĩnh của con người Xô-viết, khẳng định sức mạnh chân lý và chính nghĩa của cuộc chiến tranh chống phát-xít, do Liên Xô cũ tiến hành, để cứu loài người khỏi họa diệt vong.         Và, điều đáng nói hơn cả ở cuốn này tác giả lý giải cái cội nguồn làm nên bản lĩnh và mạnh của người báo Xô-viết. Đó là tình yêu nồng nàn đối với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và tình cảm quốc tế thắm thiết. Như thế, yêu tổ quốc và tình cảm quốc tế trong sáng là nội dung tư tưởng chủ đê nổi bật của tác phẩm. Tác phẩm này đã được xưởng Mốtxphim đưa lên màn ảnh với cái tên "Xa Tổ quốc", do Bôn-đa-súc, một nhà hoạt động nổi tiếng của nền điện ảnh Xô-viết đạo diễn.         Cuốn "Nam tước Phôn Gôn-rinh" lần đầu ra ở nước ta cách đây đã hơn 40 năm. Nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng, chúng tôi cho tái bản cuốn sách với hy vọng bạn đọc vẫn tìm được ở đây sự say mê với nhân vật "Nam tước Phôn Gôn-rinh". NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN          Mời các bạn đón đọc Nam Tước Phôn Gôn-rinh của tác giả Yuri Dold-Mikhajlik.
Võ Sĩ Lên Đài - Ma Văn Kháng
Võ sĩ lên đài là tiểu thuyết với những câu chuyện và chi tiết có thật, hấp dẫn... ít ai biết về tuổi trẻ của một thời hào hùng. Chuyện xảy ra tại Hà Nội những năm chống thực dân Pháp sau ngày toàn quốc kháng chiến. Cuộc đấu tranh của các thanh thiếu niên Việt Nam yêu nước chống bọn thực dân cùng những kẻ cơ hội thông qua môn thể thao quyền Anh, âm thầm và quyết liệt. Các thiếu niên, theo năm tháng dần trở thành thanh niên, giàu tình cảm và sâu sắc, một mặt chăm chỉ học hành, mặt khác bí mật tham gia các hoạt động yêu nước, chống xâm lược và việt gian ngay trong thành phố. Trong cuộc chiến vì cái đẹp của môn quyền Anh, một biểu trưng của tinh thần thượng võ, lòng can đảm, tinh thần bất khuất của ông cha đã được thấm nhuần và thể hiện qua các cuộc giao đấu của Nhân và Tùng, có cả thắng và thua, nhưng họ đã tìm thấy bài học lớn: có thể thất bại để tìm lại sức mạnh nội lực của mình. Tiểu thuyết dựa trên những chi tiết có thật về cuộc đời của Phạm Xuân Nhàn, võ sĩ quyền Anh nổi tiếng những năm 50 của thế kỷ trước (ông đã từng là võ sĩ vô địch quốc gia, tham dự Á vận hội năm 1954 tại Manila, Philipinnes). Một giai đoạn kháng chiến với cách thể hiện sinh động cuộc sống học đường của thiếu niên học sinh Hà Nội đô thành trong thời kỳ Pháp tạm chiếm, các hoạt động thể thao, thi đấu, những câu chuyện và chi tiết có thật ít ai biết vì chưa có tài liệu sách báo nào nói tới…, tất cả đã làm nên giá trị đặc biệt cho cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Ma Văn Kháng. *** Cuốn sách đã được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt thành, đặc biệt về mặt cung cấp và hiệu đính các tư liệu chuyên môn, kỹ thuật của bác sĩ y học thể dục thể thao Phạm Xuân Nhàn, cựu võ sĩ quyền Anh, vô địch Quốc Gia, tham dự Á Vận Hội năm 1954 tại Manila-Philippin. Được xuất bản lần này, cuốn sách một lần nữa là lời tri ân của tác giả với bác sĩ - võ sĩ Phạm Xuân Nhàn. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Võ Sĩ Lên Đài của tác giả Ma Văn Kháng.
Đường Một Chiều - Nguyễn Mộng Giác
Đường Một Chiều là một cuốn tiểu thuyết tình cảm, phản ảnh một góc nhỏ xã hội miền Nam trong thời chinh chiến, tất cả xoay quanh câu chuyện về một vụ thảm sát khó hiểu diễn ra ngay trong nhà của thiếu tá Lộc.  Nhân vật chính là một sĩ quan cấp tá của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Ông đồn trú xa nhà với chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng một tiểu đoàn tác chiến. Gia đình ông gồm Thúy, vợ ông, bé Ly, 14 tuổi con riêng của bà Thúy và 2 đứa con nhỏ. Ngoài ra, hạ sĩ Ninh, được vợ chồng ông xem như em, ở chung nhà, vừa làm nhiệm vụ tài xế vừa làm quản gia cho gia đình. Chính Ninh là người mở ra thảm kịch gia đình cho thiếu tá Lộc. Toàn bộ nội dung cuốn sách là những phiên xử, những góc khuất trong mối quan hệ của Ninh với các thành viên trong gia đình Lộc, những suy nghĩ của người nhà nạn nhân cũng như bị can, những tình tiết giả thiết mà báo chí, luật sư thêm vào trong vụ thảm sát. Sự việc cuối cùng rồi sẽ ra sao? Liệu Lộc có tha thứ cho cấp dưới của mình? Liệu Ninh có bị xử đúng tội theo như pháp luật? Liệu các con của Thúy có thôi ám ảnh trước cái chết của mẹ mình? Đường Một Chiều là một tác phẩm khá nổi bật của Nguyễn Mộng Giác và xứng đáng là một trong những tác phẩm xuất sắc của nền văn học chế độ Sài Gòn cũ. *** Nguyễn Mộng Giác (1940 - 2012) là nhà văn Việt Nam. Năm 1981, ông rời quê hương, định cư tại Hoa Kỳ vào cuối năm 1982, và rồi mất tại đây vào tháng 7 năm 2012. Ông sinh ngày 4 tháng 1 năm 1940 tại thôn Xuân Hòa, xã Bình Phú, quận Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định, miền Trung Việt Nam. Thời kháng chiến chống Pháp 1946 đến 1954, ông học tiểu học và trung học tại vùng kháng chiến. Sau Hiệp định Genève 1954, ông tiếp tục học tại trường Cường Để (Quy Nhơn), trường Võ Tánh (Nha Trang), rồi học năm chót của bậc trung học tại trường Chu Văn An (Sài Gòn). Sau khi học một năm ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ông ra Huế học Đại học Sư phạm ban Việt-Hán. Năm 1963, ông tốt nghiệp thủ khoa, khóa Nguyễn Du. Ngay năm ấy, ông được điều đến giảng dạy tại trường Đồng Khánh ở Huế. Năm 1965, đổi ông vào Quy Nhơn làm Hiệu trưởng trường Cường Để. Năm 1973, thăng ông làm Chánh sở Học chánh tỉnh Bình Định. Năm 1974, chuyển ông vào Sài Gòn làm chuyên viên nghiên cứu giáo dục Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa cho đến 1975. Về sự nghiệp văn chương, ông bắt đầu viết văn từ năm 1971, đã cộng tác với các tạp chí: Bách Khoa, Văn, Thời Tập, Ý Thức. Năm 1974, truyện dài Đường một chiều của ông được giải thưởng Văn Bút Việt Nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa . Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, việc sáng tác của ông tạm gián đoạn. Đến năm 1977, ông cầm bút trở lại, và bắt đầu viết bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn mùa lũ, và hoàn thành vào năm 1981. Tháng 11 năm đó (tức sau khi vừa viết xong bộ truyện trên), ông cùng con trai vượt biển. Chuyến vượt biển thành công, ông đã đến được đảo Kuku của Indonesia. Trong mấy tháng ở đây, ông đã viết được một số truyện ngắn mà sau này xuất bản thành cuốn Ngựa nản chân bon, và tập I của bộ trường thiên tiểu thuyết Mùa biển động. Tháng 11 năm 1982, ông đến Hoa Kỳ, định cư tại Nam California[3], rồi cộng tác với các báo: Đồng Nai, Việt Nam Tự Do, Người Việt, Văn, Văn Học Nghệ thuật ở nước ngoài. Từ năm 1986, ông làm Chủ bút tạp chí Văn Học ở California, Hoa Kỳ. Đến tháng 8 năm 2004, ông phải ngưng công việc làm báo vì phát hiện mình bị ung thư gan. Sau nhiều năm dài chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ông đã qua đời lúc 22 giờ 15 phút ngày 2 tháng 7 năm 2012 (ngày giờ địa phương ở California, tức sáng ngày 3 tháng 7 năm 2012 giờ Việt Nam) tại tư gia ở thành phố Westminster (Orange County, California, Hoa Kỳ), thọ 72 tuổi.   Mời các bạn đón đọc Đường Một Chiều của tác giả Nguyễn Mộng Giác.
Bức Chân Dung - Nikolai Gogol
Nikolai Vasilyevich Gogol (tiếng Ukraina: Микола Васильович Гоголь, tiếng Nga: Николай Васильевич Гоголь, tiếng Ba Lan: Nikołaj Wasiljewicz Gogol; 1 tháng 4 năm 1809 – 4 tháng 3 năm 1852) là một nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng Nga và Ukraina. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông Những linh hồn chết, được xem là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của văn học Nga và Ukraina. Trong các tác phẩm của mình, ông không chừa ai cả, từ hoàng đế đến quan lại, từ trí thức đến bình dân, từ giới địa chủ đến giới nông nô, tất cả đều là mục tiêu châm chích cho ngòi bút ông. Người ta đã gọi những tác phẩm đó là "những bức hí họa về nước Nga và người Nga". Tuy nhiên cũng nhờ tính sinh động và sức thuyết phục nảy sinh từ ngòi bút, ông đã làm mờ nhạt đi bộ mặt thật kinh khủng của nó, để lôi cuốn không ngừng đôi mắt độc giả theo một mặt trái ẩn tàng những hình nét đáng cảm động hơn. Vào những ngày cuối đời, ông bị một căn bệnh kỳ lạ ở mũi và phải dùng đỉa để chữa bệnh cho mình. Ông đã phải chịu đựng sự đau đớn vì kiểu chữa bệnh đó cho đến lúc chết. Ba nhân vật vĩ đại nhất của văn học Nga thế kỷ 19 từng định đoạt sự phát triển tinh thần của nhân dân trong thế kỷ 19 và 20 là Gogol, Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, Lev Nikolayevich Tolstoy - không chỉ là những nhà văn cực lớn của nước Nga, của nhân loại, mà còn là những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nga thế kỷ 19. *** Không có nơi nào đông người đứng lại xem như trước gian hàng bán tranh trong khu chợ lợp Shchukin. Đúng thế, ở đây tập hợp hết sức linh tinh đủ các thứ lạ mắt, phần lớn là những bức tranh dầu, phủ một lớp tráng bóng màu lục thẫm, trong những chiếc khung hào nhoáng màu vàng đậm. Mùa đông với những cây trắng xóa, cảnh mặt trời lặn đỏ ối trong như ánh lửa rực lên từ một đám cháy, một bác nông dân xứ Flandre, mồm ngậm tẩu, cánh tay cong vẹo, trông giống một con gà tây mặc áo hơn là một con người – đề tài của những bức tranh ấy thường là như vậy, thêm vào đấy là mấy bức tranh khắc gỗ: Chân dung Khozrev-Mirza[1] đội mũ lông cừu, chân dung mấy vị tướng đội mũ ba sừng, cái mũi cong lệch. Ngoài ra, cánh cửa loại gian hàng này thường lấp kín sau những tập tranh dân gian rộng khổ, in thứ tranh ảnh thể hiện cái thiên tư của người dân Nga. Một bức vẽ nàng công chúa Miliktrisa Kirbitievna; một bức vẽ thành Jerusalem, màu đỏ tràn lên mấy ngôi nhà và nhà thờ, quệt đỏ ngầu cả một khoảng đất, và hai người mu gích[2] Nga đang cầu nguyện, tay đeo bao. Người mua những bức tranh này thường chẳng có mấy nhưng người xem thì đông vô kể. Trong đám này thế nào cũng có một gã hầu phòng nát rượu đứng xem, mồm há hốc, tay cầm thức ăn vừa mua ở hiệu về cho chủ: chủ nó chắc chắn sẽ không phải bỏng mồm vì món xúp. Lại thế nào cũng có một anh lính, nhân vật chính của các chợ tầm tầm, tay cầm vẻn vẹn chỉ có hai con dao nhíp để chào khách, hoặc giả một chị bán hàng rong bưng một hộp đầy ních những giày. Mỗi người thưởng thức tranh một cách riêng; mấy bác mu gích giơ tay chỉ trỏ, mấy anh lính xem xét tận nơi, vẻ nghiêm trang; mấy thằng bé đi ở, mấy chú học nghề cười đùa chỉ trỏ cho nhau xem những bức biếm họa để rồi trêu nhau; những bác hầu phòng có tuổi khoác áo dạ thô thì chỉ cốt đứng lại để ngáp; còn những cô bán hàng rong, đúng kiểu các bà mẹ nhà quê Nga, do bản năng cũng chạy đến để nghe thiên hạ bàn tán và xem người ta đang làm gì. Đúng lúc ấy, Chartkov, một họa sĩ trẻ tuổi, đi ngang qua trước gian hàng, bất giác cũng dừng lại. Nhìn chiếc áo khoác cũ kỹ và bộ quần áo không chút cầu kỳ ta biết anh ta thuộc hạng người sống chỉ vì công việc, không có thì giờ nghĩ đến trang phục, tuy món này vốn là thứ hấp dẫn đám thanh niên lạ thường. Anh ta lúc đầu dừng chân trước gian hàng chỉ để cười thầm những bức tranh xấu xí nọ. Nhưng rồi sau, bất giác, anh trở nên đăm chiêu tư lự; anh băn khoăn không hiểu những bức tranh này liệu có ai cần đến. Ừ, người dân Nga ưa chuộng những bức thư Yeruslan Lazarevich, Ngốn khỏe và Nốc khỏe, Foma và Yerema điều đó anh chẳng lấy làm lạ; những đề tài ấy rất đơn giản và dễ hiểu, nhưng còn những mớ tranh tồi quét sơn dầu, màu sặc sỡ và bẩn thỉu kia thì ai mua? Ai là người cần đến bức chân dung bác nông dân xứ Flandre ... Mời các bạn đón đọc Bức Chân Dung của tác giả Nikolai Gogol.