Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cung Đàn Báo Oán

Gia tộc Ichiyanagi vốn là gia tộc được chọn làm quản lý dịch trạm thời Edo. Vào đêm tân hôn của trưởng tộc, bỗng có tiếng hét quái dị cùng tiếng đàn vang lên từ căn biệt thất trong dinh thự của gia tộc. Tại hiện trường, đôi tân lang tân nương bị giết vô cùng tàn nhẫn, nằm sõng soài trong vũng máu. Phía đầu họ là cây đàn tranh gia bảo cùng tấm bình phong vàng còn lưu lại dấu tay ba ngón. Xung quanh biệt thất, tuyết phủ một vùng, biến hiện trường thành căn phòng kín hoàn toàn… Đây là tập truyện đầu tiên trong loạt truyện về thám tử Kindaichi Kosuke của tác giả Yokomizo Seishi. Ngoài “Cung đàn báo oán”, tập truyện còn bao gồm hai truyện ngắn “Tiếng động lạ trong giếng nước” và “Án mạng ở quán Mèo Mun”. *** Cung đàn báo oán (Yokomizo Seishi) – Tập truyện mở đầu của series thám tử Kindaichi Kosuke By Mọt Mọt -  Không kéo dài từ ngày này sang ngày khác, cũng không ẩn chứa những thảm án liên hoàn mà người người thám tử phải lần lượt chứng kiến, trải qua nhưng không thể ngăn chặn; Cung đàn báo oán, với vị thế là tác phẩm mở đầu cho series về vị thám tử tài năng Kindaichi Kosuke, lại là tập hợp của ba vụ án ngắn gọn, cô đọng hơn. Ba vụ án, ứng với ba truyện ngắn riêng biệt vừa mang tính giới thiệu, cũng vừa mang tính định hình phong cách sáng tác của Yokomizo Seishi, tác giả trinh thám nổi danh bậc nhất của thời kỳ trinh thám cổ điển Nhật Bản. Cuốn truyện trải qua hai lần mã hóa Trước hết, cần phải khẳng định lại một điều rằng, Cung đàn báo oán là một tập truyện gồm ba truyện ngắn khác nhau có tên: Cung đàn báo oán, Tiếng động lạ trong giếng nước, Án mạng ở quán Mèo Mun. Bởi cấu trúc cuốn sách như vậy nên tổng thể của tập truyện Cung đàn báo oánnói chung, mỗi truyện ở tác phẩm này nói riêng, đều không có được sự đồ sộ cả về mặt nội dung, tình tiết lẫn sự trải rộng về mặt thời gian sự kiện cùng thời gian phá án như Đảo ngục môn, Rìu, đàn, cúc hay Khúc ca tú cầu của ác quỷ, các tác phẩm thuộc thời kỳ sáng tác sau này của Yokomizo Seishi. Nhưng Cung đàn báo oán vẫn có điểm riêng đầy cuốn hút, từ đó tạo được chỗ đứng cho tác phẩm mở đầu của cả series về thám tử Kindaichi Kosuke. Vị thám tử nổi danh trong lịch sử văn học trinh thám cổ điển Nhật Bản, cái tên đã tạo lên nguồn cảm hứng vô tận cho các sáng tác trinh thám về sau; một bộ óc tài năng ẩn dưới vẻ ngoài có phần lôi thôi, tầm thường và là một sáng tạo văn chương độc đáo của Yokomizo tiên sinh. Điểm riêng đấy, xuất phát từ cách dẫn truyện khá thú vị được Yokomizo Seishi sử dụng xuyên suốt ba câu chuyện: cả tập truyện được xây dựng qua hai lần mã hóa liên tiếp. Tức trọn vẹn cuốn sách Cung đàn báo oán, cấu trúc tác phẩm không đơn thuần chỉ là truyện lồng truyện, án lồng án mà còn thể loại này lồng trong thể loại kia. Từ ấy, tạo lên sự phức điệu trong giọng kể, sự đa dạng ở điểm nhìn đồng thời nối kết ba truyện ngắn riêng biệt trong cùng một tổng thể mang tên: Thám tử Kindaichi Kosuke. Thật vậy, bản thân Cung đàn báo oán đã là một tác phẩm văn chương. Nhưng trước khi sáng tác ấy ra đời, xuất bản, chính tác giả Yokomizo Seishi đã một lần mã hóa tác phẩm bằng việc tự mình hóa thân thành một nhân vật của bộ truyện. Nhà văn viết tiểu thuyết trinh thám, tên Y, đi khắp nơi thu lượm các mẩu chuyện phá án ly kỳ rồi dựng thành trước tác hoàn chỉnh. Và theo lý giải như vậy, truyện về thám tử Kindaichi cũng chỉ là một phần trong kho tàng văn chương của con người đấy. Vì thế, ở tập truyện Cung đàn báo oán, vừa có giọng kể của “tôi”, nhân vật đứng ở điểm nhìn ngôi thứ nhất kể lại toàn bộ tiến trình anh biết tới vụ án; vừa có giọng kể của người kể chuyện, nhân vật đứng ở điểm nhìn ngôi thứ ba, điểm nhìn toàn tri hướng tới cả những tình tiết dầu là nhỏ nhất. Từ thảm án ở gia tộc Ichiyanagi, xảy ra ở làng Oka–, xóm Yamanotani, “tôi” chủ động đến tận hiện trường án mạng; tới án mạng ở gia tộc Honiden tại làng K và cỗ tử thi kinh hoàng trong quán Mèo Mun thuộc thị trấn G nhà Y “tôi” được nghe Kindaichi trực tiếp kể lại; tất cả đều được xây dựng theo cách thức đó. Cách thức mã hóa hai tác phẩm như vậy tựa một sợi chỉ đỏ xâu chuỗi ba án mạng riêng lẻ, dù không cùng nội dung nhưng lại cùng gặp nhau ở giao điểm mang tên: Kindaichi Kosuke trong chỉnh thể một tập truyện. Đồng thời tạo cho tập truyện Cung đàn báo oán hình thức như một cuốn tiểu thuyết ba chương và đưa tới cho độc giả cái nhìn toàn diện về con người Kindaichi. Chàng thanh niên mang danh thám tử nhưng vẻ ngoài lại lôi thôi, lếch thếch cùng những thói quen kỳ lạ. Song ẩn sau vẻ ngoài ấy là óc phán đoán sắc bén, sự nhạy cảm, tinh tế mãnh liệt trước mỗi vụ án hóc búa; làm cho người đối diện, đi từ ánh nhìn hoài nghi, ngờ vực đến tin tưởng tuyệt đối vào con người vẻ ngoài bình thường mà không hề tầm thường này. Ba vụ án, ba thủ pháp gây án riêng biệt Tuy nhiên, dù xoay quanh cùng một nhân vật trung tâm trong một tập truyện thì Cung đàn báo oán vẫn là tập hợp của ba truyện ngắn với ba vụ án riêng lẻ, xảy ra ở không gian khác nhau, bối cảnh khác nhau và ba hung thủ khác nhau, đã sử dụng ba thủ pháp riêng biệt để gây án. Mà từng thủ pháp ấy như đặc trưng cho một dạng thức chung vẫn thường xuất hiện trong tiểu thuyết trinh thám. Với Cung đàn báo oán là án mạng trong phòng kín, tại Tiếng động lạ trong giếng nước là một người hai vai, còn Án mạng ở quán Mèo Mun lại là tử thi không mặt. Nhưng dẫu có thể dễ dàng gọi rõ thể loại của mỗi vụ án mạng xuất hiện trên trang viết Cung đàn báo oán thì tác giả Yokomizo Seishi vẫn rất khéo léo trong việc dẫn dắt độc giả đến những bất ngờ liên tiếp tới tận khi tấm màn bí mật được vén lên. Và đó chính là chất riêng, khu biệt Cung đàn báo oán với các tác phẩm khác trong cùng series của Yokomizo Seishi và cả các tác phẩm trinh thám cổ điển trước kia hay cùng thời. Như ở Cung đàn báo oán, dù là án mạng trong phòng kín nhưng cuối cùng, sự thật phơi bày trước ánh sáng lại không phải là cách thức hung thủ đã vào phòng kín gây án bằng cách nào rồi thoát ra theo phương thức gì ngay trước mắt bao người chứng kiến. Mà điểm mấu chốt lại nằm ở nạn nhân, nghi phạm cùng thủ pháp gây án kì lạ mang đầy nét ma mị: tiếng đàn tranh lạc nhịp quái dị vang lên trong nhiều đêm liên tiếp. Án mạng trong phòng kín, vừa là án mạng nhưng lại cũng không phải án mạng. Điểm độc đáo của Cung đàn báo oán chính là ở điểm này. Hay như Tiếng động lạ trong giếng nước là trường hợp một người phải diễn hai vai: vừa là người này, cũng lại là người kia. Sự thật trong tiểu thuyết trinh thám từ cổ điển tới hiện đại, “một người hai vai” là dạng thức hết sức phổ biến, khi xuất hiện những cá nhân “vừa là nạn nhân, vừa là hung thủ.” Nhưng trường hợp của Tiếng động lạ trong giếng nước, “một người hai vai” không chỉ đơn thuần như thế. Bởi vị “thám tử” trực tiếp phá giải vụ án trong câu chuyện này không phải Kindaichi mà chính là một người trong cuộc, cô bé Tsuyuro. Nhưng cũng vì là người trong cuộc, nên cô bé đã bị những ấn tượng ban đầu cùng tác động từ phía ngoài đánh lạc hướng, vô tình gán cho “hung thủ” danh tính khác. Và hung thủ, vô hình trung đã sống và đóng hai vai: vai của chính hắn và vai của người đồng đội, cũng là người em cùng cha khác mẹ đã hi sinh. Hoặc trong Án mạng ở quán Mèo Mun, thoạt trông, đây thật sự là vụ án “tử thi không mặt” điển hình bởi cỗ thi thể lúc được phát hiện đã bị phân hủy đến không thể nhận diện gương mặt. Tuy nhiên, sự việc không đơn giản như vậy bởi càng điều tra, cảnh sát càng như lạc trong mê cung danh tính nạn nhân: Shige hay Ayuko và hung thủ, là Ayuko hay Shige? Bởi, vụ án này, ngoài mang hình thức tử thi không mặt còn chứa đựng yếu tố “một người hai vai” khi hung thủ thật sự đã lợi dụng điểm mù của cả nạn nhân lẫn người điều tra để diễn trọn hai vai đúng “vừa là nạn nhân – vừa là hung thủ”. Chính chất riêng trong nét chung đã làm nên sự độc đáo cho ba vụ án xuất hiện trên trang văn Cung đàn báo oán. Nhất là khi ba câu chuyện không quá dài nên tính cô đọng, hàm súc, tiết tấu tác phẩm cũng nhanh chóng được đẩy lên cao trào. Và tất cả, càng góp phần tăng thêm chất “cổ điển” cho cuốn truyện trinh thám vốn đã mang đậm chất truyền thống ở lối viết tỉ mỉ trong cách hành văn, ở mỗi tấm sơ đồ được vẽ chi tiết này. *** Trước khi bắt tay viết câu chuyện này, bỗng dưng tôi lại muốn ngó qua dinh thự là nơi vụ án kinh hoàng kia đã xảy ra. Nên một chiều đầu xuân, tôi chống ba toong rời nhà, làm chuyến tản bộ tới đó. Tôi sơ tán về vùng nông thôn tỉnh Okayama này từ tháng Năm năm ngoái. Ở đây, hễ gặp dân làng, tôi lại được nghe kể về vụ án tiếng đàn sát nhân xảy ra với gia tộc Ichiyanagi. Vốn dĩ khi biết tôi là nhà văn trinh thám, mọi người thường kể cho tôi những vụ án giết người mà họ được mắt thấy tai nghe. Dân ở đây cũng vậy, song tình cờ tất cả luôn nhắc tới cùng một vụ. Thế thôi là đã đủ thấy vụ án này để lại ấn tượng sâu đậm nhường nào với dân địa phương. Tuy nhiên nhiều người trong số họ lại chưa biết đến điều kinh hoàng nhất của vụ án. Trong những vụ án tôi từng nghe, chẳng có mấy vụ thực sự thú vị như người kể tưởng, hay ít nhất là tôi chưa gặp được vụ nào đáng đem ra làm tư liệu viết tiểu thuyết. Tuy nhiên vụ này thì khác. Mới qua vài chi tiết vụn vặt, tôi đã rất hứng thú. Đến khi biết được chân tướng sự việc qua một người tường tận là anh F, tôi càng phấn khích hơn. Nó hoàn toàn khác với các vụ giết người thông thường, bởi kế hoạch của hung thủ vô cùng tỉ mỉ, hơn nữa còn là “án mạng trong phòng kín”. Nhà văn trinh thám nào chẳng muốn một lần viết về “án mạng trong phòng kín”. Thật khó cưỡng lại mong muốn phá giải vụ giết người xảy ra trong căn phòng nội bất xuất ngoại bất nhập, nên phần lớn họ đều thử sức với đề tài này ít nhất một lần. Theo lời anh bạn đáng kính Inoue Eizo[1], các tác phẩm của Dickson Carr[2] đều là biến thể của “án mạng trong phòng kín”. Tôi cũng mang danh nhà văn trinh thám, nên định sẽ thử sức khi có dịp. May thay, giờ tôi đã có cơ hội mà chẳng phải tốn công tốn sức. Xem ra tôi phải cảm ơn tên hung thủ tàn nhẫn máu lạnh, kẻ đã dùng phương cách đáng sợ để đâm đôi nam nữ kia. Lúc mới nghe chân tướng vụ án, tôi liền lục lại kí ức, xem trong số tiểu thuyết từng đọc đã xuất hiện tình tiết tương tự chưa. Đầu tiên là Bí mật căn phòng vàng của Leroux[3]. Sau đó đến Những chiếc răng cọp của Leblanc[4], Án mạng Canary[5] và Án mạng Kennel[6] của Van Dine[7], Vụ mưu sát tại biệt thự Plague Court[8] của Dickson Carr. Cuối cùng là một biến thể của án mạng trong phòng kín, Vụ thảm sát gia đình Angells[9] của Scarlett[10]. Nhưng tình tiết trong những tiểu thuyết ấy đều khác hẳn vụ này. Phải chăng hung thủ đã đọc hết chúng, giải mã từng thủ đoạn, rồi nhặt ra các yếu tố cần thiết, từ đó xây dựng cho mình một cách thức hoàn toàn mới? Dám lắm chứ! Nếu so sánh thì vụ án này có nhiều điểm tương đồng nhất với Bí mật căn phòng vàng. Tuy nhiên, điểm giống không phải chân tướng sự việc, mà là bầu không khí tại hiện trường. Gian phòng trong vụ án này không dán giấy tường màu vàng, mà thay vào đó, từ cột trụ, trần nhà cho đến xà ngang, cửa chớp đều sơn màu đỏ son. Thật ra nhà màu đỏ son không hiếm ở vùng này. Căn nhà tôi đang ở cũng thế, chỉ khác là khá cũ nên đã ngả sắc đen. Còn gian phòng hiện trường thì vừa được sơn sửa trước khi vụ án xảy ra, nên lúc đó hẳn vẫn đậm sắc đỏ. Chiếu và cửa trượt còn mới tinh, lại thêm bình phong dát vàng quây trước đôi nam nữ nằm trong vũng máu. Quang cảnh xem chừng vô cùng ấn tượng. Ngoài ra, tiếng đàn tranh xuyên suốt vụ án cũng là yếu tố bí ẩn lôi cuốn tôi. Mỗi lần xảy ra chuyện, tiếng đàn đều vang lên điên cuồng! Tôi vốn không bỏ được tính lãng mạn sến sẩm, nên thấy chi tiết đó có sức hút cực kì khó cưỡng. Giết người trong phòng kín, căn phòng tuyền đỏ son, và tiếng đàn… Vụ án này có quá đủ yếu tố để trở thành tiểu thuyết, nên nếu không viết ra, tôi thật chẳng đáng mặt nhà văn nữa. Hơi lan man rồi. Nhà tôi cách hiện trường vụ án là dinh thự gia tộc Ichiyanagi khoảng mười lăm phút đi bộ. Dinh thự nằm ở làng Oka—, xóm Yamanotani. Y như cái tên, xóm này có ba mặt giáp núi[11], núi non không cao lắm, uốn lượn tựa chân loài sao biển vươn ra vùng đồng bằng. Và ở một mũi chân của sao biển chính là dinh thự rộng lớn của gia tộc Ichiyanagi. Phía Tây dãy núi “chân sao biển” kể trên có một dòng suối, còn phía Đông là con đường nhỏ dẫn sang làng Ku—, xuống tới vùng đồng bằng không bao xa thì dòng suối giao với con đường, tạo nên khu đất hình tam giác méo mó, diện tích hơn sáu nghìn năm trăm mét vuông. Dinh thự gia tộc Ichiyanagi nằm trên khu đất đó, Bắc giáp rìa núi, Tây sát dòng suối, Đông nhìn ra con đường dẫn tới làng Ku—. Cổng chính của dinh thự dĩ nhiên hướng ra con đường này. Đầu tiên, tôi đi đến trước cổng chính của dinh thự. Cánh cổng lớn màu đen gắn nhũ sắt[12], hai bên là tường bao sừng sững, dài hơn hai trăm mét. Nhòm qua cổng thì thấy bên trong lớp tường ngoài còn một lớp tường nữa che kín khuôn viên dinh thự. Quả là nhà quyền thế. Tôi bèn vòng sang mạn Tây, men theo dòng suối ngược lên phía Bắc. Đến chỗ cuối bức tường bao, tôi băng qua cây cầu đất đằng sau cái guồng nước hỏng để lên vách núi nằm ở phía Bắc, nơi có một rừng tre. Tôi len vào bụi tre rậm rạp ở rìa vách để nhìn về phía Nam. Cảnh trí khu dinh thự thu hết vào tầm mắt. Trước hết, tôi để mắt tới mái căn biệt thất nằm ngay dưới vách núi. Án mạng xảy ra ngay dưới lớp mái này. Nghe nói đây vốn là nơi gia chủ đời trước xây để ẩn cư dưỡng già. Bên trong có một gian tám chiếu và một gian sáu chiếu. Biệt thất dẫu nhỏ song vẫn là nơi ẩn cư, nên sân vườn được thiết kế rất kì công, từ Nam qua Tây bày trí nhiều cây cảnh và non bộ tới mức hơi quá đà. Chuyện về biệt thất sau này tôi sẽ kể chi tiết hơn, còn giờ thì phóng tiếp tầm mắt về phía Nam sẽ thấy căn nhà chính một tầng rộng rãi quay mặt về hướng Đông, tiếp đến là nhà của chi thứ, nhà kho hay lán nằm không theo quy tắc. Nhà chính được ngăn cách với biệt thất bằng hàng rào tre, thông nhau chỉ qua một cánh cửa tre nhỏ. Cả rào lẫn cửa tre giờ đều đã hư hỏng nặng, không sao nhìn ra hình dạng ban đầu, nhưng lúc vụ án xảy ra thì hẵng còn mới và kiên cố. Chính chúng đã ngăn mọi người từ nhà chính ập tới hiện trường ngay sau khi nghe thấy tiếng la hét. Vậy là đã nhìn bao quát xong một lượt dinh thự gia tộc Ichiyanagi nên tôi rời bụi tre, qua ủy ban làng Oka—. Ủy ban nằm ở mé Nam của làng, mấy dãy nhà dân chạy tới đây là hết. Từ đây đi tiếp về phía Nam cho tới khi gặp làng Kawa sẽ toàn là đồng ruộng. Giữa các cánh đồng là con đường thẳng tắp, rộng độ ba, bốn mét. Cứ thẳng đường này đi bộ khoảng bốn mươi phút sẽ tới ga tàu hỏa, Vì thế, những người ngồi tàu tới đây sau đó muốn vào làng thì kiểu gì cũng phải đi theo con đường này, qua phía trước ủy ban. Đối diện ủy ban là một căn nhà có phần nền đất[13] rộng, mặt ngoài lắp cửa kính thô sơ. Đây vốn là một tiệm cơm nhỏ, nơi nghỉ chân dành cho dân thồ hàng bằng ngựa. Tiệm cơm này liên hệ mật thiết với vụ án mạng xảy ra tại dinh thự Ichiyanagi, bởi là nơi đầu tiên người đàn ông bí ẩn với bàn tay phải chỉ có ba ngón ghé vào. Chuyện bắt đầu vào chiều tối 23 tháng Mười một năm 1937, hai ngày trước khi án mạng xảy ra. Bên ngoài tiệm cơm, bà chủ tiệm ngồi ghế gấp, đang tán gẫu với một cán bộ ủy ban và một dân thồ hàng là khách quen. Bỗng từ hướng làng Kawa có người đàn ông lê bước tới. “Xin hỏi đi lối nào thì tới được nhà Ichiyanagi ạ?” Đang nói dở câu chuyện, nghe hỏi, bà chủ tiệm, viên cán bộ ủy ban và tay dân thồ hàng bèn cùng quan sát trang phục của người đàn ông rồi nhìn nhau. Cả ba đều thấy lạ vì hắn có vẻ ngoài vô cùng nhếch nhác, chẳng ra dáng có quan hệ với gia tộc lớn như Ichiyanagi chút nào. Đầu đội mũ tai bèo nhăn nhúm, mặt đeo khẩu trang to, tóc tai bờm xờm thò ra bên dưới mũ, râu ria lởm chởm từ cằm lên tới má, dáng vẻ cực đáng nghi. Hắn không mặc áo khoác nhưng cổ chiếc áo đang mặc lại cài kín như sợ lạnh. Áo quần đầy bụi bẩn, vị trí khuỷu tay và đầu gối bị mài đến bạc phếch. Đôi giày há mõm, bụi bám trắng bệch. Trông hắn cực kì mệt mỏi, tuổi độ trên dưới ba mươi. “Nhà Ichiyanagi đằng kia kìa, nhưng cậu tìm nhà ấy có việc gì?” Trước ánh nhìn chòng chọc của viên cán bộ ủy ban, người đàn ông chớp mắt như bị chói, miệng lẩm bẩm gì đó sau lớp khẩu trang. Đúng lúc ấy, cũng từ hướng làng Kawa—, một chiếc xe kéo chạy ngang qua. Bà chủ tiệm thấy thế liền bảo, “Này cậu gì ơi, gia chủ nhà Ichiyanagi mà cậu hỏi vừa mới đi qua đấy.” Ngồi trên xe là một người đàn ông trạc tứ tuần, da ngăm, vẻ mặt nghiêm nghị. Anh ta mặc âu phục đen, ngồi ngay ngắn, mắt nhìn thẳng, không hề ngó ngang liếc dọc. Má hóp, mũi thẳng cao, trông qua có vẻ khó gần. Đó chính là Kenzo, gia chủ nhà Ichiyanagi. Chiếc xe kéo chở anh ta chạy ngang qua trước mặt mấy người kia rồi mất hút ở ngã rẽ. “Bà chủ này, nghe nói gia chủ nhà Ichiyanagi sắp lấy vợ. Có thật không?” Không thấy bóng dáng xe kéo đâu nữa, tay dân thồ hàng mới hỏi. “Thật đấy. Nghe bảo ngày kia là tổ chức đám cưới rồi.” Mời các bạn mượn đọc sách Cung Đàn Báo Oán của tác giả Yokomizo Seishi & Hoài Đan (dịch). 

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Xin Cho Tôi Gọi Cô Là Em Yêu
Tình cờ, Kerry McGrath - phụ tá uỷ viên công tố, phát hiện ra bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ Smith chỉnh hình khuôn mặt cho hai bệnh nhân của ông thành khuôn mặt của cùng một người phụ nữ đã bị ám sát hơn 10 năm trước. Hồ nghi, Kerry mở lại hồ sơ cũ, nàng đã bị sự ngăn cản từ người chồng cũ, từ sếp của nàng, và kể cả vị thượng nghị sĩ mà nàng rất kính trọng. Chẳng bao lâu sau, tính mạng của chính nàng cùng cô con gái nhỏ cũng bị đe doạ nếu nàng vẫn muốn khám phá sự thật.... *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? ***       Xin đừng phủ lên trên ngôi mộ này Những đóa hồng mà nàng hết sức yêu quí; Tại sao làm cho nàng ngất ngây bằng hoa hồng Mà nàng không thể thấy hoặc ngửi được? Edna St Vincent Millay, Epitaph.       Ông đã làm mọi cách để cố gắng gạt Suzanne ra khỏi tâm trí. Một đôi khi, ông tìm lại được sự yên tĩnh trong vài giờ hoặc thậm chí ngủ suốt đêm. Đó là cách duy nhất giúp ông tiếp tục sống, làm công việc hàng ngày. Phải chăng ông vẫn còn yêu cô hay chỉ ghét cô? Ông không bao giờ có thể chắc chắn. Cô đẹp, với đôi mắt sáng long lanh có cái nhìn chế giễu, với mái tóc sẫm bồng bềnh như mây, với đôi môi có thể mỉm cười một cách hết sức mời mọc hoặc mím lại một cách hết sức dễ dàng giống hệt một đứa bé đang bị cấm ăn kẹo. Trong tâm trí ông, cô vẫn luôn luôn hiện diện, như lúc cô đã nhìn ông vào phút giây cuối cùng của đời cô, trêu chọc ông và quay lưng về phía ông. Và giờ đây, gần mười một năm sau, Kerry McGrath sẽ không để cho Suzanne yên nghỉ. Những câu hỏi, rồi lại thêm những câu hỏi! Không thể chấp nhận được. Cần phải ngăn chặn cô ta. “Hãy để cho người chết chôn vùi người”. Đó là một ngạn ngữ cổ, ông nghĩ, và nó vẫn còn đúng. Phải ngăn chặn cô ta, bằng mọi giá.        Thứ Tư, ngày 11 tháng 11 Mời các bạn đón đọc Xin Cho Tôi Gọi Cô Là Em Yêu của tác giả Mary Higgins Clark & Nguyễn Nhất Nam (dịch).
Tiếng Thét Trong Đêm
Jenni - một phụ nữ ly dị đang nuôi con với muôn vàn khó khăn. Cuộc gặp định mệnh với Erich Krueger - một họa sĩ thiên tài ở miền Midwest trong một cuộc triển lãm tranh ở New York đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời của nàng. Sau một cuộc tình chớp nhoáng, Jenni và hai con chuyển từ New York đầy náo nhiệt về miền nông thôn ở Minnesota u tịch, yên tĩnh để kết hôn với Erich. Erich - một chàng trai hòa hoa, phong nhã, giàu có tưởng như là một kết thúc hoàn hảo cho cuộc đời đầy sóng gió của Jenni. Nhưng ngay trong ngày đêm động phòng Erich đã yêu cầu nàng mặc bộ đồ của mẹ chàng và Jenni phát hiện ra nàng quá giống mẹ Erich. Tính cách bị ám ảnh bởi sự ngăn nắp của chàng đã làm cho nàng cảm thấy quá ngột ngạt và những chuỗi ngày bất ổn bắt đầu từ đây. Liên tiếp những biến cố xảy ra với cái chết của Kevin - người chồng trước của Jenni gần nông trang của gia đình Erich, và đứa con đã đẩy nàng vào sự khủng hoảng nhưng sự việc không kết thúc tại đây. Và Jenni phải làm thế nào để giải thoát khỏi sự nguy hiểm đang rình rập và đồng thời bảo tồn mạng sống của mình và các con... *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? *** Lúc tờ mờ sáng, Jenni bắt đầu đi vào rừng để Jin tìm kiếm căn nhà gỗ. Suốt đêm qua, không hề chợp mắt, nàng nằm bất động, thao thức trên chiếc giường rộng, sang trọng, kiểu có tán che. Im vắng ngự trị trong ngôi nhà làm trĩu nặng tâm can nàng. Dẫu nhiều tuần lễ đã trôi qua mà đôi tai nàng vẫn rình nghe trong tuyệt vọng tiếng khóc đói sửa của đứa con nhỏ. Bầu vú căng sửa của nàng luôn chờ đợi cái miệng bé nhỏ háu ăn. Căn phòng sáng lên khi nàng bật ngọn đèn ngủ. Ánh đèn tỏa vào chiếc cốc pha lê chạm trổ trên tủ com mốt. Những bánh xà phòng nho nhỏ thơm mùi thông bày trong cốc hắt ánh sáng màu xanh vào chiếc hộp trang điểm bằng bạc. ***** Đối với nàng, có hệ trọng gì đâu. Dẫu phải chết rét đi nữa thì nàng cũng phải kiếm cho ra căn nhà gỗ đó. Nó ở đâu đó thôi, trong khu rùng thông đen, sồi và thích của xứ Na Uy này. Trong những đêm dài thao thức, nàng đã hoạch định một chương trình cho cuộc tìm kiếm. Theo nàng nghĩ, Erich không đi nhanh bằng nàng được, anh ta đi một bước thì nàng đã tiến xa ba bước rồi. Bước sải dài của nàng tự nhiên mang nàng đi nhanh hơn nàng tưởng. Như ngày kia, Erich đến căn nhà gỗ sực nhớ quên mang theo chìa khóa, chàng trở về để lấy, thì phải đi mất 40 phút. Theo anh ta, đoạn đường từ căn nhà gỗ đến bìa rừng phải đi khoảng 20 phút. Erich không bao giờ dẫn nàng đến đó. Chàng đã từng nói với nàng: ‘‘Jenni, em hãy hiểu cho anh, mọi nghệ sĩ đều cần có một thế giới riêng tư’’. Trước đây, nàng cũng không bao giờ tìm cách để đến nơi đó. Erich cũng đã tuyệt đối cấm mọi người trong nông trang vào rừng. Ngay cả Clyde, người quản lý nông trang từ ba mươi năm nay cũng xác nhận chưa hề biết căn nhà gỗ đó nằm ở đâu. Tuyết trắng xóa, từng mảng nặng nề, chất lớp, đã xóa tan đi dấu chân nàng. Nhưng trái lại nó cũng giúp nàng thực hiện cuộc tìm kiếm thấu đáo hơn bằng cách đi ski. Nàng cố thận trọng để tránh bị lạc hướng, với hằng hà bụi rậm nơi đây cùng với khả năng định hướng tồi tệ của nàng thì nguy cơ đi lòng vòng sẽ xảy ra ngay. Thận trọng, Jenny chủ định mang theo một cái la bàn, cái búa, đinh và ít mảnh vải nhỏ. Nàng dự tính sẽ đóng những mảnh vải này vào thân cây để đánh dấu. Suốt đêm qua, nàng suy nghĩ hẳn mình có nên đến gặp ông cảnh sát trưởng Gunderson. Hẳn nhiên ông ta sẽ nhìn nàng bằng ánh mắt dò hỏi, khinh khỉnh. Bộ áo liền quần đi ski móc ở tủ ngăn dưói nhà, cạnh nhà bếp. Nàng mặc nó vào trong khi chờ đợi nước cà-phê đun sôi. Ngay khi uống tách cà-phê đầu tiên, nàng đã hình dung rõ ràng hơn vị trí của căn nhà. Nàng sẽ mang theo bình thủy cà-phê. Jenni không có chìa khóa của căn nhà gỗ nhưng khi vào nàng có thể dùng búa để đập vỡ cửa kính. Toàn bộ ngói nhà rộng lớn cũ kỹ mà nàng đang sống nơi đây, thật bóng loáng từ trên xuống dưới. Hẳn đó là thành tích sáng chói do những nguyên tắc khắc nghiệt về tính sạch sẽ của Elsa, chị người làm, ngay cả khi chị ta không đến đã hai tuần nay. Trước khi ra về, chị ta luôn bóc một tờ lịch treo ở tường, trên chiếc điện thoại. Jenni còn nhớ đã từng nói với Erich về chị ta, "Elsa khônq thể kềm chế được việc lau chùi mọi thứ dẫu không thấy dơ và chị ta cứ lặp lại mãi như vậy trong suốt tuần". Bảy giờ, đến lượt nàng bóc tờ lịch của ngày Thứ hai 14 tháng 2, nàng vò nát tờ lịch cũ và chăm chú nhìn vào hàng chữ lớn ghi trên tờ lịch mới: Thứ bảy 15 tháng 2. Nàng rùng mình. Đã gần mười bốn tháng trôi qua kể từ ngày nàng gặp gỡ Erich tại gallery. Không thể thế được. Đó phải là một thế kỷ. Nàng đăm chiêu suy nghĩ. Mái tóc màu hạt dẻ sẫm màu của nàng trong thời gian nàng mang thai giờ đây đã trở thành gần như màu đen. Mái tóc lộ ra sự buồn bả và không còn sức sống khi nàng ém nó dưới chiếc nón trùm đầu bằng len. Chiếc gương đóng khung bằng vỏ sò đặt bên phía trái cánh cửa bếp thật không phù hợp với cảnh bề thế của căn bếp với khung trần trang trí bởi những cây đà to lớn bằng gỗ sồi. Nàng đến đứng trước gương, đôi mắt nàng giờ đã quầng thâm, không còn là màu xanh ngọc bích; sáng hôm nay chúng phản chiếu nét nhìn chăm chú và sững sờ. Đôi má nàng lõm sâu. Nàng đã sụt cân từ khi ở cữ. Khi nàng cài lại cúc áo, thì thấy gân xanh đập nhẹ nơi cổ mình, mới có hai mươi bảy tuổi mà nàng có cảm tưởng như gấp mười lần hơn; và nàng cảm thấy mình già như một bà lão trăm tuổi. Ước gì sự đờ đẫn này biến mất đi. Ước gì ngôi nhà này không còn thinh lặng như thế này nữa, một sự thinh lặng khủng khiếp. Nàng hướng mắt nhìn lò sưởi bằng gang nằm sát tường phía đông của căn bếp. Cái nôi chất đầy củi đã được đặt lại chỗ cũ cùng những vật dụng cần thiết cạnh đó. Nàng nhìn chăm chú chiếc nôi. Như một cú sốc thường xuyên hiện diện. Dần dà nàng cảm thấy quen thuộc với sự có mặt của nó trong căn bếp. Đoạn, nàng quay sang rót cà phê vào bình thủy, thu gom lại các vật cần dùng như la bàn, cái búa, những cái dinh, những mảnh vải và dồn tất cả vào trong một túi đeo lưng, với khăn quàng trùm mặt, chân mang giày ski, Jenni nhanh nhẹn luồn đôi tay vào bao găng tay to tướng bằng lông thú. Nàng tạ ơn Trời đã cho mình học tốt môn trượt tuyết trong năm qua. Nàng mở cửa bước ra. Gió dữ dội quất mạnh vào người nàng. Tiếng rống khàn đục của đàn bò trong chuồng làm nàng liên tưởng đến tiếng nức nở của nỗi tuyệt vọng sâu xa. Mặt trời rực rỡ trên tuyết trắng, vẻ đẹp sáng ngời của vị chúa tể xa xôi dường như bất lực với nỗi khắc nghiệt của băng giá. Giờ này, hẳn Clyde đang đi kiểm tra chuồng súc vật. Đội ngũ nông dân ăn lương công nhật hẳn đang bận rộn chất đầy rơm cho đàn bò Black Angus; vì là mùa đông nên chúng không thể ăn cỏ trên đồng và chúng thường ẩn náu nơi đây để có thức ăn. Phân nửa tá điền đang làm việc trên phần đất khai khẩn rộng lớn và không một người nào đến gần ngôi nhà này. Chỉ thấy những chiếc bóng nhỏ bé của họ lố nhố phía chân trời..   Mời các bạn đón đọc Tiếng Thét Trong Đêm của tác giả Mary Higgins Clark & Lê Thành (dịch).
Rình Rập
Bằng ngòi bút sắc sảo, biết khai thác những tình  huống bí hiểm, kịch tính kích thích trí tò mò của độc giả, cách tạo dựng nhân vật hấp dẫn, lối hành văn lôi cuốn qua cốt truyện ly kỳ… là những nét tiêu biểu của cây bút nữ cự phách này; hay như lời bình phẩm của William Berker, ký giả kỳ cựu phụ trách mục "Điểm sách" của tuần báo Newsweek: "Công chúng mê đọc Mary ở chỗ, bà đã biết tạo ra những thủ pháp cuốn hút đan xen cảm giác hồi hộp”. *** Không khí lạnh giá len vào qua những khe hở của cửa sổ. Người đàn ông đứng dậy và nặng nề bước đến cầm lấy cái khăn tắm mà y luôn để gần tầm tay, bít lấy cái khung cửa đã xuống cấp. Tiếng rít nho nhỏ của gió len qua chiếc khăn tắm làm y cảm thấy mơ hồ thích thú. Y lặng lẽ nhìn bầu trời ảm đạm rồi nhìn những con sóng đang xô nhau vào bờ. Từ phía này của ngôi nhà, thường khi người ta có thể trông thấy Prince town, ở bờ bên kia Cape Cod. Y không ưa cái thị trấn Cape này. Y thù ghét cái u ám của nó vào những ngày tháng mười một như hôm nay; cái xám xịt của biển và những cư dân ở đây cứ nhìn ta bằng ánh mắt khó hiểu, không buồn nói năng. Y đã chán ngán cái thị trấn này ngay từ mùa hè đầu tiên, khi những đoàn khách du lịch đổ tràn ra biển, leo lên vùng đất bồi cho đến ngôi nhà, rồi một tay đưa cao để che nắng, họ liếc mắt nhìn vào những cửa sổ ở tầng trệt. Y cũng ghét cái tấm panô[1] ghi chữ “Nhà Bán” mà Ray Eldredge đã treo ở mặt tiền và phía sau ngôi nhà rộng lớn, ghét việc Ray và bà nhân viên của ông đã bắt đầu đưa khách vào xem ngôi nhà. Tháng trước, suýt nữa là họ đã đưa người vào xem căn hộ của y trong khi vắng nhà, nhưng may thay y đã kịp biết trước và che giấu cái ống viễn kính. Giờ đây, y chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa. Ai đó sẽ mua ngôi nhà này và y không còn có thể thuê mướn nó nữa. Chính vì thế mà y đã gởi bài viết đến báo. Y không muốn ra đi trước khi được chứng kiến cảnh người đàn bà đó bị lột mặt nạ trước công chúng, khi nàng bắt đầu cảm thấy được yên ổn. Y cũng còn phải thực hiện một việc khác nữa, nhưng cơ hội chưa đến. Người đàn bà ấy không hề rời xa hai đứa trẻ và y thì không còn có thể chờ đợi nữa. Thôi, hãy để chuyện đó cho ngày mai vậy. Y bực dọc đi lui đi tới trong phòng. Căn phòng tầng trên này mênh mông vì nó chiếm cả bề rộng của ngôi nhà. Trước đây, chủ nhân ngôi nhà này là một thuyền trưởng biến chất. Ngôi nhà được xây vào thế kỷ 13 trên một mũi đá nhô ra biển, bao quát cả vịnh và thích hợp cho những ai thường xuyên sống trong tình trạng cảnh giác. Nhưng đời sống xem chừng là chuyện khác. Đời sống là khi này khi nọ, được tạo thành bởi những thứ tạp nham. Đời sống là những núi băng trôi mà ta chỉ trông thấy phần nổi. Y biết rõ điều đó. Y đưa tay xoa xoa mặt, cảm thấy bồn chồn, nóng ran mặc dầu căn phòng lạnh căm. Từ sáu năm nay y đã thuê mướn ngôi nhà này để sống trong những ngày cuối hè và suốt cả mùa thu. Ngôi nhà vẫn như thế, không gì thay đổi, kể từ ngày y bước chân đến đây. Và, nếu có chăng thì chỉ là một vài đóng góp nhỏ nhặt. Ống viễn kính đặt trước cửa sổ mặt tiền, mớ quần áo mà y mang theo để mặc trong những dịp đặc biệt, và cái mũ lưỡi trai dùng để che khuất phần lớn khuôn mặt của y. Nói tóm lại, chẳng có gì thay đổi ở đây. Vẫn là cái đi-văng cũ kỹ ngày ấy, những cái bàn bằng gỗ thông, tấm thảm trong phòng khách và những đồ đạc toàn bằng gỗ thích.[2] Cho đến mùa thu này thì đây quả là nơi lý tưởng để thực hiện những ý đồ của y. Nhưng rồi mọi việc đã không ổn nữa. Khi Ray cho biết vợ chồng anh đang rao bán ngôi nhà cho những ai muốn mở nhà hàng và Ray chỉ gia hạn thời gian thuê mướn với điều kiện là người thuê phải cho khách đến xem nhà ngay khi được thông báo qua điện thoại. Raynor Eldredge. Y mỉm cười khi nghĩ đến người đàn ông còn trai trẻ đó. Ngày mai, liệu anh ta sẽ phản ứng ra sao khi đọc bài báo? Liệu Nancy đã nói thật cho chồng biết nàng là người như thế nào? Rất có thể là không. Đàn bà thường khéo giả dối. Vả lại, tốt hơn là Ray chưa hay biết gì. À! Được trông thấy diện mạo của Ray khi anh ta mở tờ báo ra xem thì thích biết bao! Báo được phát vào mười giờ sáng. Vào giờ đó, Ray còn ở văn phòng và hẳn anh ta sẽ chờ một lúc trước khi mở tờ báo ra xem. Bằng một động tác cáu kỉnh, y quay lưng về phía cửa sổ. Hai cẳng chân to lớn của y xem chừng quá bó sát bởi chiếc quần đen bóng láng. Y nôn nóng từng ngày để được xuống cân và không còn to béo như thế này nữa, và y đang trả giá cho điều đó bằng những buổi nhịn ăn đến độ kiệt sức. Nhưng y biết y sẽ đạt được mục tiêu và y có đủ khả năng để làm điều đó. Trước đây, y đã từng nhịn ăn vào những lúc y thấy là cần thiết. Y cáu kỉnh đưa tay gãi lớp da đầu và thầm nghĩ rồi đây tóc y sẽ mọc trở lại và lúc đó hẳn lớp tóc ở hai bên thái dương sẽ là màu muối tiêu. Y chậm rãi đặt tay lên ống quần rồi bồn chồn đi lui tới trong phòng, trước khi dừng lại bên ống viễn kính. Đây là ống viễn kính cực mạnh, thứ mà người ta không thể tìm thấy ngoài thị trường. Ngay cả cảnh sát cũng được trang bị rất ít. Nhưng y thì có phương cách để đạt được cái mà y muốn. Y khom người và nhìn vào ống ngắm, mắt kia nhắm lại. Ở bên ngoài, trời quá âm u đến nỗi đèn trong căn bếp phải thắp sáng vì thế, qua ống viễn kính, hình ảnh Nancy hiện rõ. Nàng đang đứng ở cửa sổ, phía trên bồn rửa bát. Có thể nàng đang chuẩn bị cho bữa ăn tối. Nhưng cũng có thể là nàng sắp ra ngoài, nếu đoán qua chiếc áo veste mà nàng đang mặc. Nàng đứng bất động, mắt hướng về phía biển. Nàng đang nghĩ gì? Đang nhớ ai? Đến các con, đến Peter, đến Lisa? Y muốn biết điều đó. Y bỗng dưng cảm thấy miệng khô khốc và đưa lưỡi lên liếm môi. Hôm nay, nàng trông rất trẻ với mái tóc buộc ra sau, mái tóc được nhuộm màu nâu. Hẳn người ta sẽ nhận ra nàng ngay nếu nàng vẫn giữ cái mái tóc màu vàng óng tự nhiên của nàng. Ngày mai sẽ là sinh nhật lần thứ ba mươi hai của nàng. So với tuổi thì nàng còn rất trẻ, quá trẻ, quá dịu dàng, quá mượt mà và xinh tươi. Y cáu kỉnh nuốt nước bọt. Môi y khô ran nóng sốt; hai bàn tay và nách y ướt đẫm mồ hôi. Họng y thắt lại và một lần nữa y phải đằng hắng một tiếng như tiếng cục cục của gà. Rồi toàn thân y run lên vì một tiếng cười không cưỡng nổi; y va vào ống viễn kính. Hình ảnh của Nancy nhòa đi, nhưng y chẳng buồn điều chỉnh ống ngắm. Hôm nay, y chẳng còn muốn nhìn nàng nữa. Ngày mai vậy! Y mường tượng đến vẻ mặt của nàng ngày mai, cũng vào giờ này. Lúc đó, nàng sẽ bị phơi bày trước mọi người, sững sờ vì sợ hãi và khiếp đảm, cố tìm cách trả lời những câu hỏi mà nàng đã bị cảnh sát tra vấn từ bảy năm trước. Lúc đó, hẳn các nhân viên cảnh sát sẽ hỏi: “Nào Nancy, đừng có giở trò ma giáo với chúng tôi. Hãy thật tình khai báo. Cô không thể chối cãi gì nữa. Hãy cho chúng tôi biết, những đứa trẻ đâu rồi?” *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? Mời các bạn đón đọc Rình Rập của tác giả Mary Higgins Clark & Lệ Thanh (dịch)
Lộ Diện
Nếu bạn cần một quyển sách trinh thám, hình sự có thêm chút kinh dị, ở mức độ vừa phải, xem giải trí, hấp dẫn mà không quá hại não thì có lẽ Lộ diện (The cradle will fall) của M.H. Clark sẽ đáp ứng được và không làm bạn thất vọng. Mary Higgins, sinh năm 1929 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”.   *** Mary Higgins, sinh năm 1927 ở Mỹ, đã làm nhiều công việc khác nhau trước khi đến được với nghề viết văn. Cha mất sớm, hoàn cảnh khó khăn nên ngay khi học xong trung học, Mary phải lo giúp gia đình bằng cách nhanh chóng tìm một công việc. Bà đã làm thư ký rồi làm tiếp viên hàng không trước khi lập gia đình với Warren Clark. Lấy chồng một thời gian sau, Mary mới có thể theo đuổi sự nghiệp văn chương bằng nghề viết báo. Cuộc sống tưởng chừng đang yên ổn thì người chồng đột ngột qua đời trong một cơn đau tim, để lại một mình Mary với năm đứa con nhỏ. Người phụ nữ này không hề nhụt chí mà còn nỗ lực làm việc hơn bao giờ hết. Bà lao vào viết sách và lấy tên là Mary Higgins Clark. Tác phẩm đầu tiên, Tiểu sử George Washington, ra đời khi bà đã 40 tuổi, không đem lại mấy thành công. Mary quyết định chuyển sang thể loại truyện trinh thám. Cuốn tiểu thuyết Where are the children (Con của chúng ta đâu) xuất bản năm 1975, lập tức trở thành sách best-seller. Sau thành công của tác phẩm này, Mary bắt đầu gặt hái những thắng lợi lớn. Những phụ nữ giàu có, quyến rũ, những tội ác bí hiểm và bầu không khí căng thẳng đáng sợ là những đặc điểm nổi bật khiến cho câu chuyện luôn tạo được một hấp lực mạnh mẽ. Một số độc giả sau khi đọc truyện của bà đã phát biểu: “Cảm ơn Mary đã khiến tôi nhiều lần toát mồ hôi trong những đêm thức trắng đọc truyện của bà. Một khi đã bước vào thế giới đó thì bạn không thể rời xa được, chừng nào bạn chưa đọc xong. A Cry in the night (Tiếng thét trong đêm), The cradle will fall (Lộ diện), No place like home (Không đâu bằng ở nhà mình) đều là những tiểu thuyết tuyệt vời”. Một độc giả khác nhận xét: “Điều mà tôi thích ở nhà văn này là bà biết cách tạo ra những tình tiết lôi cuốn gây cảm giác hồi hộp. Thêm vào đó là phong cách viết dễ đọc nên những câu chuyện của bà hết sức gần gũi với đời thường”. Một con người không mệt mỏi Ba mươi năm viết truyện với 40 tiểu thuyết, trong đó nhiều tác phẩm đã được dựng phim, Mary Higgins Clark đã tạo cho mình một sự nghiệp đáng tự hào với nhiều giải thưởng và vinh quang. Bà đã nhận được nhiều giải của các cơ quan văn hóa, lịch sử xã hội, giáo dục Mỹ, Pháp, Ireland; đã từng làm Chủ tịch Hội các nhà văn trinh thám Mỹ năm 1987; Chủ trì Hội nghị Tội ác quốc tế tại New York năm 1988 và vinh dự đón nhận tước hiệu Hiệp sĩ Văn học và Nghệ thuật của Pháp vào năm 2000. Nhưng giải thưởng có ý nghĩa hơn cả có lẽ vẫn là sự mến mộ mà độc giả dành cho bà. Hầu hết các tác phẩm của Mary đều trở thành sách best-seller. Đối với nhiều người, truyện trinh thám chỉ được đọc để giết thời gian tại các bến xe nên đa phần được in khổ nhỏ bỏ túi, nhưng tại Mỹ, trên 50 triệu cuốn sách khổ lớn của bà đã được bán ra. Còn tại Pháp, con số này trên 20 triệu. Ở VN, độc giả có thể dễ dàng tìm được các tác phẩm của bà tại bất kỳ nhà sách nào trên toàn quốc. Những cuốn sách Chiếc nhẫn oan gia, Xác chết ngoài biển khơi, Rình rập, Lộ diện, Tiếng thét trong đêm đều đã trở nên quen thuộc đối với những người thích thể loại trinh thám. Năm 1999, một cuộc thăm dò đã đưa Mary Higgins Clark lên vị trí thứ hai thế giới trong số các nhà văn được nhiều độc giả trên 18 tuổi ưa thích. Một tâm hồn trẻ trung, hiện đại Đã 77 tuổi nhưng Mary vẫn không ngừng tạo ra những món ăn tinh thần hợp khẩu vị bạn đọc trẻ và chúng vẫn luôn mới mẻ, cuốn hút. Cuốn tiểu thuyết mới đây nhất Two little girls in blue, 2006 (Hai cô bé trong đại dương) đã chứng tỏ điều đó. Câu chuyện kể về gia đình Frawley, trong buổi tối sinh nhật của hai con gái sinh đôi 3 tuổi là Kelly và Kathy, ông bà Frawley đã bị cảnh sát hỏi thăm, chị giữ trẻ bị ngất đi, còn hai cô bé mất tích. Sau khi giao 8 triệu USD tiền chuộc theo yêu cầu của bọn bắt cóc, ông bà Flawley chỉ nhận lại được Kelly trong một chiếc xe hơi bỏ không. Còn số phận Kathy thế nào? Mọi người dường như tuyệt vọng, nhưng Kelly bằng linh cảm vẫn biết người chị song sinh của mình còn sống. Tình huống gay cấn trong câu chuyện khiến người đọc bị cuốn vào số phận các nhân vật cho đến trang cuối cùng. Năm 2007, Mary sẽ cho ra đời tác phẩm mới mang tên Santa Cruise mà bà viết chung với con gái mình là Carol Higgins Clark. Với sự nghiệp thành công và con cái thành đạt, Mary tự nhận mình là người hạnh phúc. Hiện nay, bà đang sống cùng với người chồng thứ hai, John Coheeney, tại Manhattan, New York. Bất chấp tuổi tác, những ý tưởng trong bà vẫn rất dồi dào và bà vẫn tiếp tục viết những câu chuyện ly kỳ, bí hiểm, khiến người đọc luôn phải trông ngóng, mong đợi những điều bất ngờ bà mang tới. Với 200 triệu cuốn sách bán ra trên thị trường, bà là một trong những nhà văn có số lượng độc giả nhiều nhất hiện nay. Với một sự nghiệp sáng tác đồ sộ, bà đã chứng tỏ vị trí số một thế giới trong thể loại truyện trinh thám. Các tác phẩm đã được xuất bản ở Việt Nam:   1. Where Are The Children? (1975) có 3 bản dịch + Ngôi nhà cạm bẫy + Rình rập + Truy tìm nhân chứng 2. A Stranger Is Watching (1977) / Cáo sa mạc 3. The cradle will fall (1980) / Lộ diện 4. A Cry in the Night (1982) / Tiếng hét trong đêm khuya 5. All around the town (1992) có 3 bản dịch + Một quá khứ kinh hoàng + Thành phố buồn + Vĩnh biệt thơ ngây 6. Remember Me (1994) có 2 bản dịch + Bí ẩn trong tòa nhà cổ + Xác chết ngoài biển khơi 7. Let Me Call You Sweetheart (1995) / Xin cho tôi gọi cô là em yêu 8. The Lottery Winner (1996) / Chuộc chồng 9. Pretend You Don't See Her (1997) có 2 bản dịch + Trang nhật ký đẫm máu + Nhân chứng bị săn đuổi 10. You belong to me (1998) / Chiếc nhẫn oan gia 11. Where Are You Now? (2008) / Giờ này anh ở đâu? *** Nếu tâm trí không bị cuốn hút bởi vụ kiện mà nàng vừa thắng thì hẳn Katie không ôm cua nhanh đến thế. Nhưng lúc đó, nàng đang trong tâm trạng thích thú với phán quyết của tòa. Phải gay go lắm nàng mới thắng kiện. Điều đó càng khẳng định Roy O’Connor là một trong những luật sư sáng giá nhất của New Jersey. Trong khi xét xử, tòa đã không kể đến những lời thú tội của bị cáo và điều đó khiến sự buộc tội càng trở nên khó khăn. Nhưng cuối cùng Katie đã thành công trong việc làm cho ban hội thẩm hiểu rằng Teddy Cppeland là người đã sát hại đã man cô Abigail Rawling trong một vụ cướp có vũ trang. Có mặt tại phiên tòa, Margaret - chị của Rawling, đã bước đến bên Katie - sau khi tòa tuyên án và nói: "Thưa cô Katie De Maio, thật không thể ngờ nổi. Trông cô có dáng vẻ của một sinh viên, tôi đã nghĩ rằng cô chẳng thể làm gì được, vậy mà mỗi lần lên tiếng là cô mang lại cho phiên tòa những chứng cứ hữu ích. Cô đã giải thích cho mọi người biết về những gì mà người đàn ông đó đã làm hại Abby. Nhưng cuối cùng sự việc sẽ ra sao ?" Katie đáp: "Với tư pháp lý lịch đó, hẳn hắn ta sẽ phải sống phần đời còn lại trong tù thôi". "Cầu Trời lắng nghe lời cô" - Mrgaret Rawling nói. Bà kín đáo thấm những giọt lệ trên đôi mắt nhạt màu vì tuổi tác rồi nói tiếp: "Tôi rất buồn khi phải mất Abby. Chúng tôi chỉ có hai chị em. Tôi bị dằn vặt bởi cái ý nghĩ rằng, hẳn em tôi đã phải khiếp sợ lắm. Thật là tồi tệ nếu thủ phạm thoát khỏi bị trừng phạt". "Và hắn đã không thoát khỏi", - Katie thầm nghĩ. Mãi nhớ lại những lời nói của người chị nạn nhân nên nàng không để ý đến con đường phía trước và nhấn thêm ga. Chiếc xe đột nhiên lao nhanh khi rẽ ở khúc quanh. Và trượt dài trên mặt đường đóng băng. "Ồ !... không". - Katie thốt lên và bám lấy vô lăng. Con đường nhỏ thật âm u. Chiếc xe trượt nhanh ra khỏi lộ và quay ngược đầu. Katie trông thấy những ánh đèn xe từ xa đang tiến đến. Nàng cố hướng xe theo chiều trượt, nhưng không thể làm chủ được chiếc xe đang lao lên lề đường phủ băng, tựa một vận động viên trượt tuyết chuẩn bị nhảy. Bốn bánh chỏng chơ, chiếc xe nằm trên lề đường một lúc mới rơi xuống sườn dốc, về phía cánh đồng có trồng nhiều cây. Có cái bóng âm u sừng sững phía trước, đó là một cây xanh cổ thụ. Chiếc xe va chạm vào thân cây cùng với sự rung chuyển thật mạnh. Katie bị đẩy mạnh vào vô lăng rồi hất ngược ra sau. Nàng đưa hai cánh tay ra phía trước, cố che khuôn mặt khỏi những mảnh kính xe đang tung tóe. Nàng thấy đau buốt nơi hai cổ tay và đầu gối. Đèn xe và những đèn hiệu nơi biển kiểm soát đều tắt ngúm. Tất cả tăm tối tựa như những tấm màn nhung phủ xuống. Nàng nghe có tiếng còi hụ vọng đến từ nơi xa. Rồi có tiếng cửa xe mở ra, một làn không khí lạnh ập vào, và nàng nghe có tiếng: "Chúa tôi, Katie De Maio đây mà !" Nàng thấy cái giọng nói đó khá quen. Chắc là Tom Goughlin, một nhân viên hình sự còn trẻ. Tuần qua, anh đã tham dự phiên tòa với tư cách là nhân chứng. Cũng lại giọng nói đó: "Cô Katie đã bất tỉnh". Katie muốn phủ nhận điều đó, nhưng nàng không thốt được nên lời. Nàng cũng không thể mở mắt. Lại giọng nói cất lên: "Cánh tay cô ấy đẫm máu. Hình như một động mạch đã bị đứt". Có ai đó nắm lấy cánh tay nàng và dùng một cái gì đó để siết chặt nó. Một giọng nói khác cất lên: "Tom à, có lẽ cô ấy bị chấn thương. Bệnh viện Westlake gần đây. Cậu hãy ở đó với cô ấy, để tôi đi gọi xe cứu thương". Katie thấy mình bềnh bồng, bềnh bồng. Nàng thầm nghĩ, "Tôi vẫn khỏe, chỉ có điều tôi không thể đến bên các bạn được". Có những bàn tay nâng nàng lên và đặt xuống trên cái cáng. Rồi một cái chăn được phủ lên mình nàng. Tuyết tan làm cho nàng cảm thấy ran rát ở mặt. Nàng được khiêng đi. Có tiếng xe khởi động. Xe cứu thương. Những cánh cửa xe mở ra, đóng lại. Katie thầm nghĩ, phải chi mình có thể nói cho họ hiểu. Nàng muốn nói, "Tôi đang nghe các bạn nói đây. Tôi nào có bất tỉnh". Tom đọc lớn tên nàng: "Kathleen De Maio, trú tại Abbington. Cô ấy là phó biện lý. Không, cô ấy chưa tái giá. Cô là vợ của cố thẩm phán Demaio". "Vợ của cố thẩm phán John De Maio". Katie cảm thấy cô đơn tột cùng. Nàng mở to mắt và sau đó là tiếng nói: "Cô Katie đã hồi tỉnh. Thưa cô Katie, cô bao nhiêu tuổi ?" Một câu hỏi khá bài bản. Cuối cùng, nàng có thể nói: "Hai mươi tám tuổi" Một ai đó tháo cái garô mà Tom đã buộc quanh cánh tay nàng. Nàng cố nén cơn đau để khỏi cau mặt khi nhân viên cấp cứu khâu vết thương. "Phải chụp X quang". - Bác sĩ trực phòng cấp cứu nói "Cô may mắn đấy, cô Katie à. Chỉ bị bầm một vài nơi chứ không gãy xương. Cô không nên lo sợ. Mọi việc sẽ ổn thôi". "Chỉ là..." Katie cắn môi. Nàng từ từ định thần và cố trấn tỉnh để không bị rơi vào nỗi sợ hãi vì phải nhập viện. Tom hỏi: "'Cô có muốn tôi báo tin cho chị cô không ? Như vậy tối nay sẽ có người trực bên cô". "Thôi, đừng. Molly vừa bị cảm cúm. Cả nhà đều bị cả". - Giọng nàng thật nhỏ khiến Tom phải cúi người để có thể nghe được. Tom nói: "Cô hãy yên tâm, mọi chuyện rồi sẽ qua. Tôi sẽ đưa xe cô vào trạm sửa chữa". Chiếc giường lăn được đẩy vào góc phòng, ngăn cách bởi một tấm màn. Máu nhỏ từng giọt theo cái ống nhỏ gắn nơi cánh tay phải của nàng. Đầu óc nàng dịu dần. Nàng thấy đau buốt ở cánh tay trái và hai đầu gối. Nàng thấy đau toàn thân. Nàng đang trong bệnh viện chỉ một mình thôi. Cô y tá vuốt tóc và sờ trán nàng rồi nói: "Thưa cô Katie, mọi việc đều ổn cả rồi. Rồi cô sẽ chóng bình phục thôi. Tại sao cô khóc chứ ?" "Tôi đâu có khóc". - Tuy nói vậy nhưng Katie không thể ngăn được nước mắt. Giường của nàng được đẩy vào một căn phòng. Cô y tá trao cho nàng một viên thuốc và cốc nước rồi nói: "Thuốc này sẽ giúp cô được yên ổn". Katie biết chắc đó là thuốc ngủ. Nàng chẳng muốn uống chút nào bởi thứ thuốc đó luôn làm nàng gặp phải cũng chỉ những cơn ác mộng đó. Nhưng nàng thấy tốt hơn là không nên nói ra làm gì. Cô y tá tắt đèn. Đôi chân cô di động thật êm khi cô rời phòng. Căn phòng lạnh ngắt. Khăn trải giường lạnh và ráp. Katie thầm nghĩ, phải chăng những khăn trải giường ở bệnh viện đều lạnh như thế này ? Rồi nàng chìm vào giấc ngủ dẫu biết rằng mình sẽ không thoát khỏi mộng dữ. Nhưng lần này cơn ác mộng lại có một vẻ khác hẳn. Katie thấy mình đang chơi trò tụt dốc. Xe trượt càng lúc càng lên cao và sườn dốc càng lúc càng thẳng đứng. Rồi nàng không còn điều khiển được nữa. Nàng cố lèo lái nhưng xe vẫn cứ lệch hướng, trật bánh và rơi xuống. Trước khi thấy mình bị bẹp dí trên mặt đất, Katie đã giật mình thức giấc, run lẩy bẩy. Tuyết tan rơi lã chã trên ô kính. Katie mệt mỏi gượng dậy. Cánh cửa sổ chưa được kéo xuống hẳn nên tấm sáo lay động và gió lùa vào phòng. Katie quyết định sập hẳn cửa và kéo tấm sáo lên như thế có thể nàng sẽ dễ ngủ hơn. Sáng mai, nàng sẽ về nhà. Nàng quá sợ bệnh viện rồi. Nàng lảo đảo đi về phía cửa sổ. Bộ áo ngủ của bệnh viện ngắn củn cởn khiến đôi chân nàng lạnh run. Đã vậy, tuyết tan càng làm cho cái lạnh dữ dội hơn. Giờ đây, chẳng còn tuyết nữa mà là mưa. Katie tựa người vào mép cửa và nhìn ra ngoài. Mời các bạn đón đọc Lộ Diện của tác giả Mary Higgins Clark & Lê Thành (dịch).