Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Phù Thủy Thành Florence

Nàng phù thủy thành Florence (Nguyễn Thị Hiền Thảo dịch - Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn) là tiểu thuyết thứ tám của Salman Rushdie. Ông không chỉ được biết đến với giải Man Booker năm 1981 cho cuốn tiểu thuyết Những đứa trẻ lúc nửa đêm, mà còn nổi tiếng vì bị giáo chủ Iran Khomeini kết án tử hình vắng mặt, với lý do cuốn tiểu thuyết Những vần thơ của quỷ Satan (1988) của ông được cho là xúc phạm sâu sắc đến giới tăng lữ Hồi giáo. Trong bài phỏng vấn được Lévai Balázs thực hiện, Salman Rushdie có nói rằng: “Tách câu chuyện ra khỏi văn học là một nhầm lẫn”, và “phản xạ đầu tiên của tôi là không làm cho độc giả chán” (Thế giới là một cuốn sách mở, Giáp Văn Chung dịch, Nhã Nam và NXB Văn Học). Có lẽ đối với ông, câu chuyện luôn nằm ở vị trí trung tâm của văn học. Ðiều này trái với xu hướng gạt bỏ vai trò trọng yếu của cốt truyện ra khỏi tác phẩm mà ta thường thấy trong tự sự hiện đại. Salman Rushdie không xây nên một cốt truyện mỏng mảnh, rồi bồi đắp cho tác phẩm bằng những miêu tả, ghi chép, bình luận phong phú, mà ông chủ trương chỉ kể những câu chuyện và từ đó tác phẩm ra đời. Cuốn Nàng phù thủy thành Florence có hàng chục câu chuyện lớn nhỏ như thế khác nhau, tạo nên một thế giới chuyện kể phong phú và huyền ảo, pha lẫn sắc màu Ðông - Tây. Tự nhận là một nhà văn được cả hai thế giới Ấn Ðộ và Anh chấp nhận, Salman Rushdie dựng nên phông nền cho cuốn tiểu thuyết thứ tám của mình bằng chính chất liệu của hai thế giới ấy. Florence thời Phục hưng và đế chế Mughal nằm trên tiểu lục địa Ấn Ðộ thế kỷ thứ 16 - thời kỳ rực rỡ của văn học, nghệ thuật và tôn giáo. Cuốn sách kể hai câu chuyện chính song song nhau, bên cạnh hàng loạt câu chuyện khác. Ðó là cuộc phiêu lưu của nàng công chúa Qara Köz thuộc vương triều Mughal. Ðó còn là cuộc sống của ba người bạn từ thuở ấu thơ đến khi trưởng thành tại Florence. Mỗi người mang một niềm tin khác nhau vào cuộc đời. Nổi bật và là yếu tố gắn kết hai câu chuyện là sức sống của nàng công chúa thất lạc Qara Köz. Nàng bắt đầu ra đi khỏi một vùng đất, chu du khắp nơi để rồi xuất hiện lại tại chính vương quốc mà nàng đã từ bỏ sau quãng thời gian dài, trong một hình thái khác. Song trong suốt cuộc hành trình đầy biến động đó, tâm trí nàng vẫn chỉ đắm chìm trong một thế giới khép kín, bất biến của tự do, tình yêu và sự khát khao nhục thể. Sự xuất hiện của Niccolò Machiavelli (1469-1527) là một trong những chi tiết lịch sử có thật được nhắc tới trong cuốn tiểu thuyết này. Song ông không chỉ được nhìn nhận là một nhà ngoại giao, triết học chính trị, tác giả của cuốn sách Quân vương mà còn là một con người với những khát khao thông thường nhất. Ðiển hình là lòng ngưỡng mộ và tình yêu ông dành cho Qara Köz Cùng với Haroun và biển truyện đã được xuất bản trước đây tại VN, Nàng phù thủy thành Florence một lần nữa chứng tỏ Salman Rushdie luôn là người biết kể những câu chuyện dài theo một cách rất đặc biệt, đầy hào hứng và tràn ngập bất ngờ.. *** Nàng phù thủy đầy mê hoặc của Salman Rushdie Một người đàn bà gần như không có thật nhưng lại mê hoặc được vị quân vương anh minh bậc nhất. Đôi khi một dung nhan tuyệt mỹ không tồn tại trong một hình hài cụ thể... Tên sách: Nàng phù thủy thành Florence Tác giả: Salman Rushdie Nhà xuất bản: Hội nhà văn Salman Rushdie đưa chúng ta đến vương triều Mughal - một vùng đất giàu có và quyền lực bậc nhất. Ở đó có Akbar đại đế, đấng minh quân được cả vương quốc tôn sùng. Ông là một vị vua luôn bị dằn vặt bởi những câu hỏi đầy triết lý của chính mình. Tâm trí Akbar luôn bị bủa vây bởi sự lo sợ về những tai ương sẽ xảy đến với một bậc quân vương. Nhưng sâu thẳm bên trong vị vua đầy quyền lực này là gì? Câu trả lời chỉ có một: sự cô độc. Một người đàn ông có tất cả những vật chất xa hoa nhưng chẳng có lấy một ai để chia sẻ. Một người đàn ông có trong tay những người phụ nữ đẹp nhất nhưng chưa bao giờ cảm thấy thỏa mãn. Quyền lực đã trở thành một vật cản để Akbar mở lòng mình. Chính sự cô đơn trong hào nhoáng này đã khiến vị hoàng đế quyền uy phải tự thỏa mãn bằng một mỹ nhân do chính mình tưởng tượng ra. Đó chính là một người phụ nữ không chỉ có dung nhan xinh đẹp mà còn biết vẽ hình xăm, ca hát và nhảy múa... Người phụ nữ không chỉ làm cho Akbar mê đắm mà khiến cho tất cả đàn ông trên thế gian này đều phải khuất phục trước vẻ đẹp của nàng. Bằng âm mưu đầu độc cả đoàn thủy thủ đến từ Anh Quốc, tên lừa đảo Niccolò Machivavell đã đến vương quốc Mughal với cái tên Mogor dell'Amore. Hắn là đứa con của thành Florence thời kỳ cực thịnh, một tên tinh ranh bậc nhất. Bất cứ điều dối trá nào cũng có thể được nói ra từ miệng của hắn. Đó là con người chỉ bằng khả năng ba hoa và lừa phỉnh của mình mà từ một đứa trẻ mồ côi bơ vơ đầu đường xó chợ leo lên được chiếc ghế cao quyền lực và làm cho kẻ khác phải điêu đứng. Đặc biệt hắn là kẻ dâm đãng điên cuồng. Hắn luôn bị ám ảnh bởi vẻ đẹp thể xác của phụ nữ, dẫu đó là một ả gái điếm trong nhà thổ. Do sự sắp đặt tài tình của thượng đế hay chỉ là điều tình cờ mà hai người đàn ông đã gặp nhau và kể cho chúng ta nghe câu chuyện về nàng phù thủy thành Florence. Phù thủy thành Florence thực chất là ai? Mỹ nhân tuyệt sắc chính là sự pha trộn giữa La Fiorentina - ả gái điếm xinh đẹp nhất thành Florence và Qara Koz - nàng công chúa quyến rũ mang dòng dõi Thành Cát Tư Hãn đã bị thất lạc nhiều năm. Nhờ miệng lưỡi khôn lường của Niccolò mà hai người phụ nữ đã hợp thành một. Và mỹ nhân tuyệt sắc này đã xoa dịu trái tim cô đơn của hoàng đế, giúp một tên tha phương giảo hoạt nắm trong tay quyền lực. Dù là vương triều Mughal, hay thành Florence thì đó đều là nơi đàn ông làm chủ. Ở đó, bề ngoài phụ nữ được yêu chiều, được ngưỡng mộ, được theo đuổi; nhưng thực chất họ chỉ bị sở hữu chứ không được yêu. Đàn ông chỉ coi phụ nữ là công cụ để thỏa mãn những đam mê thể xác và thói quen sở hữu của mình. Những người đàn ông luôn nghĩ họ có thể điều khiển được người phụ nữ. Nhưng họ đã nhầm! Những con người thông minh nhưng độc đoán ấy, đã lún quá sâu vào dục vọng không tưởng. Để rồi nàng phù thủy của thành Florence đã chế ngự họ một cách khéo léo. Những người đàn ông đã tự rơi vào cái bẫy do họ tự đặt ra mà vẫn tưởng rằng mình là người thắng cuộc.  body-2-9211-1396949276.jpg Tác giả Salman Rushdie.   Nàng phù thủy thành Florence là một tiểu thuyết mang nhiều yếu tố tình dục nhưng không hề dung tục. Nó đưa người đọc vào sâu hơn nữa phần "người" trong mỗi chúng ta. Lấy bối cảnh là vương quốc Mughal của Ấn Độ và thành Florence của Italy - hai trung tâm tôn giáo lớn của đạo Hindu và đạo Thiên Chúa giáo. Tác phẩm đã tạo nên một không gian tôn giáo và văn hóa đa màu sắc. Tiểu thuyết là sự giao thoa không gian văn hóa giữa phương Đông và phương Tây. Ở đó, ta bắt gặp những nét văn hóa truyền thống, độc đáo của Ấn Độ như: nghệ thuật dùng hương liệu, nghệ thuật vẽ hình xăm và những điệu múa đầy mê hoặc. Lấy bối cảnh là hai "mảnh đất thánh", không gian truyện đậm màu sắc tôn giáo. Ta có thể cảm nhận được sự sùng kính của những con chiên ngoan đạo với Đức tin của mình. Được đặt trong một không gian văn hóa độc đáo nên những điều Salman Rushdie muốn chuyển tải đến độc giả không chỉ là nhục cảm bình thường. Là một nhà văn tài năng, Salman Rushdie dám sống hết mình vì văn chương. Ông đã đoạt giải Booker của Anh vào năm 1981 cho tác phẩm Midnight's children (tạm dịch: Những đứa con của nửa đêm). Do quan điểm táo bạo về tôn giáo, ngày 14/2/1989 ông bị kết án tử hình vắng mặt. Rushdie được nước Pháp trao tặng Huân chương văn học nghệ thuật vào năm 1999 và Nữ hoàng Anh phong tước Hiệp sĩ vào tháng 6/2007 vì sự nghiệp văn chương. Tuy còn nhiều đánh giá trái chiều về đóng góp của ông cho văn học, nhưng không thể phủ nhận Rushdie là một trong những tác gia văn chương đáng kể hiện nay. Quỳnh Anh *** Trong tia sáng cuối cùng của ngày hôm ấy, mặt hồ lấp lánh Trong tia sáng cuối cùng của ngày hôm ấy, mặt hồ lấp lánh dưới kinh thành như biển vàng nung chảy. Một lữ khách thả bước lối này trong hoàng hôn - lữ khách ấy, bấy giờ, thả bước lối này, dọc con đường ven hồ - tưởng đâu mình đang đến gần ngai vàng của vị quốc vương giàu có hoang đường đến mức có thể cho phép trút một phần kho báu của mình vào một cái hố khổng lồ trong lòng đất khiến cho khách khứa của ngài lóa mắt và kinh sợ. Lớn bằng cả một hồ vàng, nhưng chắc hẳn chỉ là một giọt nước nhểu ra từ biển của cải còn lớn hơn nữa - trí tưởng tượng của người lữ khách không thể nắm bắt được tầm vóc mẹ đại dương! Cũng không có người lính canh nào bên mé hồ nước vàng; phải chăng nhà vua hào phóng đến mức cho phép mọi thần dân của mình, có lẽ cả những người xa lạ và những vị khách như chính người lữ khách đây, được thoải mái múc lấy thứ tặng vật lỏng từ dưới hồ? Quả thật có một ông hoàng trong số mọi người, tên gọi là Prester John. Vương quốc của chàng nay đã mất, toàn những bài ca và truyền thuyết, hàm chứa những điều không thể tin được. Có lẽ (người lữ khách phỏng đoán) đài phun nước thanh xuân vĩnh cửu nằm bên trong những bức tường thành - hay biết đâu ngay cả cánh cửa trong truyền thuyết dẫn đến Thiên dường trên Mặt đất cũng ở đâu đấy cận kề tầm tay? Nhưng sau đó mặt trời lặn dưới chân trời, khối vàng chìm xuống dưới mặt nước, biến mất. Các nhân ngư và mãng xà lại canh gác nó cho đến khi ánh sáng ban ngày trở lại. Từ giờ cho đến lúc ấy, kho báu duy nhất mời gọi sẽ chỉ là nước hồ, tặng vật mà người lữ khách khát bỏng chấp nhận đầy biết ơn. Người khách lạ đi trên một cỗ xe bò, nhưng thay vì ngồi trên những tấm đệm xù xì trên xe, y lại đứng như một vị thần, một tay hờ hững bám vào tay vịn của khung gỗ mắt cáo chiếc xe. Chuyến đi bằng xe bò hoàn toàn không êm ả, cỗ xe hai bánh lắc lư xóc nảy theo nhịp bước của con vật, tùy theo cả sự thất thường của mặt đường phía dưới. Một kẻ đứng trên xe có thể dễ dàng ngã gãy cổ. Tuy nhiên, lữ khách vẫn đứng, vẻ bất cẩn và hài lòng. Người đánh xe từ lâu đã không còn quát tháo y nữa, ban đầu anh ta cho gã xa lạ này là kẻ gàn dở - nếu hắn muốn chết trên đường thì kệ hắn, chẳng người nào ở cái đất nước này thương tiếc! Tuy nhiên, không lâu sau, thái độ dè bỉu của người đánh xe nhường chỗ cho sự ngưỡng mộ đầy ác cảm. Người này có thể hơi ngốc nghếch thật, nhưng ta có thể nói mà không sợ quá lời rằng y có gương mặt gã khờ quá đẹp và mặc bộ quần áo gã khờ không phù hợp - một chiếc áo choàng chắp vá từ những mảnh da nhuộm màu hình quả trám, trong tiết trời nóng như thế! Nhưng tài giữ thăng bằng của y thì không chê vào đâu được, thật đáng kinh ngạc. Con bò đực bước đi khó nhọc, bánh xe va phải ổ gà, vào đá, vậy mà người đang đứng ấy hầu như không lắc lư, và bằng cách nào đó vẫn tỏ ra phong nhã. Một gã khờ phong nhã, người đánh xe nghĩ, hay có lẽ không khờ khạo chút nào. Có thể là kẻ nào đó đáng cho ta trông cậy. Giả sử y có lỗi, thì ấy là lỗi cố gắng không chỉ là chính y mà còn là màn trình diễn của y, vả chăng, người đánh xe nghĩ, xung quanh đây mọi người đều phần nào như thế, vì vậy suy cho cùng người này không hoàn toàn xa lạ với bọn ta. Khi lữ khách bảo rằng y khát, người đánh xe bỗng thấy mình đi đến bờ nước múc một cốc bằng quả bầu rỗng đánh bóng, đoạn giơ ra cho khách lạ uống, hệt như thể y là một quý tộc xứng đáng được người ta hầu hạ. “Anh cứ đứng đó như ông lớn, còn tôi chạy nháo nhào theo yêu cầu của anh,” người đánh xe nhíu mày nói. “Tôi không hiểu sao mình đối xử tốt với anh vậy. Ai cho anh cái quyền ra lệnh cho tôi? Anh là ai nào? Không phải một quý tộc, cái đó thì chắc rồi, nếu không thì đã chẳng ở trên cỗ xe bò này. Nhưng vẫn có cái vẻ ta đây ở anh. Vậy có lẽ anh thuộc loại du côn du kề.” Người kia vục vào quả bầu để uống. Nước trào qua khóe miệng vương vào chiếc cằm cạo nhẵn giống như bộ ria bằng chất lỏng. Lúc lâu sau, y trả lại quả bầu rỗng, thở dài hài lòng, lau nước dính ở ria. “Tôi là ai?” y nói, như thể đang nói một mình, nhưng lại dùng ngôn ngữ của chính người đánh xe. “Tôi là người có một điều bí mật, và điều bí mật đó là gì, chỉ có tai của hoàng đế mới nghe thấy được.” Người đánh xe chắc mẩm: gã này khờ thật rồi. Không cần phải kính cẩn với y nữa. “Cứ giữ lấy bí mật của anh,” anh ta nói. “Chúng chỉ dành cho trẻ con, và gián điệp.” Người lạ xuống xe bên ngoài trạm nghỉ dành cho khách lữ hành, nơi mọi hành trình bắt đầu và kết thúc. Y cao đến lạ và xách theo một cái túi may bằng vải thảm. “Và cho các thầy phù thủy,” y nói với người đánh xe bò. “Cho cả các tình nhân. Và những vị vua.” Ở trạm nghỉ, đâu đâu cũng ồn ào, náo nhiệt. Gia súc được chăm sóc: ngựa, lạc đà, bò đực, lừa, dê, trong khi thú hoang chưa thuần thì chạy loạn xạ: bọn khỉ kêu choe chóe, lũ chó chẳng phải thú cưng của ai. Đám vẹt la hét inh tai bay ùa ra như pháo hoa xanh trên bầu trời. Thợ rèn đang làm việc, cả thợ mộc cũng thế, còn trong các cửa hàng tạp hóa khắp bốn phía quảng trường rộng lớn, những người đàn ông chắc nịch lực lưỡng tính toán trù liệu hành trình, mua tích trữ đồ tạp hóa, nến, dầu, xà phòng, dây thừng. Những anh cu li đội khăn xếp mặc áo đỏ đóng khố dhoti không ngừng chạy tới lui đây đó, với những bó to không hiểu nổi và nặng trĩu trên đầu. Nhìn chung là rất nhiều hàng lên hàng xuống. Giường nghỉ qua đêm ở đây hẳn rẻ, những chiếc giường căng dây khung gỗ trải đệm lông ngựa chăn bông, sắp hàng như đội hình nhà binh trên mái những tòa nhà một tầng vây quanh cái sân lớn mênh mông của khu nhà trạm, những chiếc giường nơi người ta có thể nằm ngửa mặt lên trời mà tưởng tượng mình là thiên sứ. Xa hơn, về phía Tây, là doanh trại rì rầm của các đoàn quân của hoàng đế mới từ chiến trận trở về. Quân đội không được phép vào khu vực cung điện mà phải ở lại đây dưới chân ngọn đồi hoàng gia. Một đội quân thất nghiệp, mới từ chiến trường về, phải được đối xử cẩn trọng. Khách lạ nghĩ đến La Mã cổ đại. Một hoàng đế không tin người lính nào trừ vệ sĩ của mình. Người lữ khách biết rằng câu hỏi về lòng tin chính là câu hỏi y sẽ phải trả lời thật thuyết phục. Bằng không, y sẽ sớm mất mạng. Cách không xa khu nhà trạm, một ngọn tháp tua tủa những ngà voi đánh dấu cổng vào cung điện. Mọi con voi đều thuộc về hoàng đế, và việc trang trí tháp bằng ngà voi thể hiện quyền lực của ông. Hãy cẩn thận! ngọn tháp cảnh báo. Ngươi đang bước vào địa phận của Vua Voi, vị quốc chủ sở hữu nhiều giống vật da dày này đến độ có thể hoang phí răng nanh của hàng nghìn con thú khổng lồ chỉ để trang trí cho tôi đấy. Qua cách phô trương sức mạnh của tháp, người lữ khách nhận thấy cũng cái tính chất phô trương ấy nóng bỏng trên trán y như một ngọn lửa, hay dấu ấn của Quỷ dữ; nhưng người làm ra ngọn tháp này lại chuyển thành sức mạnh cái phẩm tính mà ở người lữ khách thường được xem như một nhược điểm. Quyền lực có phải là lý do duy nhất biện minh cho một cá tính hướng ngoại? lữ khách tự hỏi và không trả lời được, song tự thấy mình hy vọng rằng vẻ đẹp có thể là một lý do nữa, bởi y chắc là mình đẹp, và biết rằng dáng vẻ ngoài của y cũng có sức mạnh riêng. Xa hơn tòa tháp ngà voi là một cái giếng to đại, bên trên nó là một hệ thống cấp nước phức tạp đến không sao hiểu nổi phục vụ cung điện nhiều mái vòm trên đỉnh đồi. Không có nước, chúng ta chẳng là gì, người khách nghĩ. Thậm chí một hoàng đế không có nước cũng sớm thành tro bụi. Nước là đấng quân vương đích thực và tất cả chúng ta là nô lệ. Một lần ở nhà tại Florence y đã gặp một người có thể làm cho nước biến mất. Pháp sư này đổ nước đầy đến miệng bình, lẩm nhẩm câu thần chú, lật ngược cái bình, thế là thay vì nước, vải vóc tuôn ra, một dòng những khăn lụa nhiều màu xối xả. Đó chỉ là mẹo lừa, tất nhiên, và chưa hết ngày hôm đó người khách đã moi được bí mật của gã phù thủy và cất đi cùng những bí mật khác của mình. Y là một người có nhiều điều bí mật, nhưng chỉ có một điều xứng cho một vị vua. Con đường dẫn đến tường thành bỗng nhiên dốc hơn và trong khi leo dốc, y nhìn thấy tầm cỡ của cung điện nơi mình đến. Rõ ràng nó là một trong những thành phố lớn trên thế giới, theo quan sát của y, lớn hơn Florence, Venice hoặc Rome, lớn hơn bất kỳ thành phố nào mà lữ khách từng thấy. Y đã thăm Luân Đôn một lần; nó cũng nhỏ hơn nơi này. Khi ánh sáng nhạt nhòa đi, thành phố dường như lớn hơn lên. Những khu dân cư đông đúc chen chúc bên ngoài tường thành, thầy tu báo giờ từ trên những tòa tháp giáo đường, và từ xa, y nhìn thấy ánh sáng của những điền trang lớn. Lửa bắt đầu cháy trong ánh chiều chạng vạng, như những lời cảnh báo. Từ trên mái vòm tối đen của bầu trời xuất hiện ánh sáng hồi ứng của những vì sao. Như thể trái đất và thiên đường là những đội quân sắp xung trận, y nghĩ. Như thể doanh trại của hai bên ém mình trong đêm chờ đợi trận chiến của ban ngày nổ ra. Và trong tất cả những đường ngang ngõ tắt này, trong tất cả những ngôi nhà của kẻ quyền thế kia, xa hơn nữa, trên các cánh đồng, sẽ không người nào nghe nói đến tên y, không ai tin được câu chuyện mà y sắp kể. Nhưng y vẫn phải kể. Y đã vượt qua cả thế gian để làm điều đó, và y sẽ làm. Y sải những bước dài và cuốn theo nhiều ánh mắt tò mò, vì mái tóc vàng cũng như chiều cao, mái tóc vàng và phải thừa nhận là bẩn thỉu của y xõa quanh khuôn mặt giống như mặt nước bằng vàng trên hồ. Con đường mòn thoai thoải đi qua tòa tháp ngà voi, dẫn đến cổng đá bên trên có phù điêu hai con voi quay mặt vào nhau. Qua cái cổng để ngỏ vọng đến tiếng người đang vui chơi, ăn uống, tiệc tùng. Có những người lính đứng gác ở cổng Hatyapul, nhưng tư thế của họ thoải mái. Những rào cản thực còn ở phía trước. Đây là nơi công cộng, một chốn dành cho việc họp hành, mua bán và giải trí. Người ta vội vã đi qua trước mặt khách lữ hành, bị thôi thúc bởi cái đói và cơn khát. Ở cả hai bên con đường lát đá giữa cổng bên ngoài và bên trong là những nhà trọ, quán rượu, tiệm ăn, cả người bán hàng rong đủ loại. Công việc mua bán muôn đời chính là đây. Quần áo, đồ bếp núc, đồ trang sức rẻ tiền, vũ khí, rượu rum. Chợ chính nằm ở phía dưới cổng thành nhỏ hơn về phía Nam. Cư dân trong thành thường mua bán ở đó mà tránh nơi này, vốn chỉ dành cho những người mới đến ngờ nghệch không biết giá thật của các thứ. Đây là chợ của những kẻ bịp bợm, chợ của kẻ cắp, những kẻ giọng khàn, nói thách và bần tiện. Song những khách lữ hành mệt mỏi, không rành địa bàn thành phố, bao giờ cũng ngại, không muốn đi bộ vòng quanh bức tường thành bên ngoài để đến khu chợ lớn giá cả phải chăng hơn, nên họ không còn cách nào ngoài giao dịch ngay với các thương gia ở cổng voi. Nhu cầu của họ thường khẩn và đơn giản. Lũ gà sống, kêu ầm ĩ vì hoảng sợ, bị treo ngược đầu, đập cánh loạn xạ, hai chân bị trói vào nhau, chờ nồi nước sôi. Đối với người ăn chay thì có thứ khác, những cái nồi yên ả hơn; rau cỏ không kêu gào. Và có phải người khách nghe thấy trong gió tiếng những người đàn bà đang kêu réo, đùa bỡn, chào mời, cười cợt những người đàn ông vô hình? Có phải đó là những người đàn bà mà y ngửi thấy mùi trong gió chiều? Dù sao thì cũng đã quá muộn, không thể đi tìm hoàng đế đêm nay được. Khách có tiền trong túi và đã trải qua một hành trình dài, vòng vo. Con đường y đi như thế này: tiến đến đích một cách gián tiếp, với nhiều lần tạt ngang, thơ thẩn. Kể từ đặt chân đến Surat, y đã đi qua Burhanpur, Handia, Sironj, Narwar, Gwalior và Dholpur cho đến Agra, rồi từ Agra đến đây, kinh đô mới này. Bây giờ y muốn có một cái giường thật tiện nghi, và một người đàn bà, tốt nhất là không có ria, và cuối cùng là một lượng lãng quên, trốn chạy khỏi chính mình nhất định, thứ không bao giờ tìm thấy được trong vòng tay đàn bà mà chỉ có trong cơn say đến độ. Sau đó, khi những khát khao được thỏa mãn, y lăn ra ngủ trong một nhà chứa nồng nặc, ngáy ầm ĩ bên một gái điếm bị mắc chứng mất ngủ, và mơ. Y có thể mơ bằng bảy thứ tiếng: Ý, Tây Ban Nha, Ả Rập, Ba Tư, Nga, Anh, Bồ Đào Nha. Y nhặt được các thứ tiếng này dọc đường đi theo cách giống như hầu hết cánh thủy thủ nhiễm bệnh vào người; ngôn ngữ là bệnh lậu của y, bệnh giang mai của y, bệnh xcobuýt của y, bệnh truyền nhiễm của y. Ngay khi y thiếp đi, một nửa thế giới bắt đầu thì thào trong óc y, kể những câu chuyện của những lữ khách phi thường. Trong thế giới mới được khám phá nửa vời này, mỗi ngày đều mang đến tin tức về những phép màu mới. Bài thơ-giấc mộng thấu thị và khai ngộ của cái hằng ngày hãy còn chưa bị nghiền nát bởi thực tế buồn tẻ, bị che đậy. Bản thân y, một người kể chuyện, bị những câu chuyện kỳ thú đưa chân ra khỏi nhà, một trong số đó có thể đem lại cho y một gia tài hoặc khiến y phải trả giá bằng sinh mạng. Mời các bạn mượn đọc sách Nàng Phù Thủy Thành Florence của tác giả Salman Rushdie & Nguyễn Thị Hiền Thảo (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hiệp Hội Bảo Vệ Nhẫn - J. R. R. Tolkien
• Cuốn sách này được NXB Hội Nhà Văn chia làm bảy tập, từ 6 đến 12. Ebolic gộp lại thành một khi chế bản ebook, năm tập sách trước thuộc dự án Ebolic #32 Người Hobbit. Mục lục được chia lại theo từng tập. Bìa mỗi tập được chèn ở đầu chương lớn, bìa ở đầu tác phẩm do chúng tôi thiết kế. • Tất cả lỗi dịch sai, lỗi chính tả, viết sai tên, cách trình bày dấu câu, trình bày đoạn văn, hình minh họa bị thiếu đều được chúng tôi sửa lại và bổ sung, đối chiếu nguyên tác The Fellowship of the Ring. • Chú thích đề Tornad là của người làm ebook; chú thích không đề gì là của dịch giả Nguyễn Nam. Phần Phụ lục I trình bày lại từ mục Câu lạc bộ ở cuối mỗi tập. Phụ lục II là sản phẩm của Ebolic sáng tác và thêm vào. • Để giữ mức độ trung thành nhất có thể với bản in, Ebolic chỉ sửa những lỗi dịch sai từ vựng sao cho vẫn mang văn phong cũ, còn những lỗi sai cả câu văn và đoạn văn thì chúng tôi không sửa. Tinh thần của bản gốc là dịch nhân danh và địa danh, bản dịch này không làm thế, nhưng chúng tôi cũng không dịch lại. Do đó cuốn sách này không mang đến sự chính xác tuyệt đối về thế giới Trung Địa và tinh thần tác phẩm đến cho bạn đọc. Chúng tôi khuyến cáo chỉ nên coi cuốn sách này như một bản dịch tham khảo. Cuốn thứ 5: Kẻ trộm trong đêm đã kết thúc phần đầu của bộ sử thi Chúa Tể những Chiếc Nhẫn – Người Hobbit. Chúng ta sẽ chia tay với Bilbo Baggins nơi đây (trong tập 6 này), chia tay với nhà thám hiểm đầu tiên của những người Hobbit, một con người tuy nhỏ bé nhưng can đảm, mưu trí và có một ý chí quả cảm không gì lay chuyển được. Cuốn Người Hobbit của giáo sư J. R. R Tolkien vẫn được coi như phần dẫn truyện của bộ sử thi Chúa Tể những Chiếc Nhẫn. Những tình tiết trong câu chuyện đã giúp bạn đọc làm quen với vùng Trung Địa trong Niên Đại Thứ Ba, làm quen với những cư dân chính của vùng đất diệu kỳ này: những người Elf vui tính và cuồng nhiệt, những người Dwarf tham vàng nhưng không thiếu lòng can đảm, bọn Goblin tàn độc… và cả với những người Hobbit tuy nhỏ bé nhưng có một ý chí quả cảm đáng khâm phục. Tuy nhiên câu chuyện vẫn để mở, bạn chắc vẫn còn nhớ lời của Gandalf khi gặp lại Bilbo trong tập 5: “Không lẽ anh bạn lại cho rằng ngần đó lần tai qua nạn khỏi, lại chỉ trông cậy vào vận may kỳ lạ thôi ư? Anh là một người tuyệt diệu, anh bạn Baggins, và ta rất tự hào về anh đấy, nhưng dẫu sao anh cũng chỉ là một anh chàng bé nhỏ trong cả cái thế giới lớn lao này!” Bilbo có thể không hay, nhưng những con người thông thái và hùng mạnh như Elrond vẫn ý thức được sức mạnh của Cái Ác. Khi nghe về ước vọng xua đuổi Necromancer ra khỏi Trung Địa, Elrond đáp: “Như thế thì tuyệt diệu,” Elrond nói. “Nhưng tôi sợ là chuyện đó sẽ không xảy ra trong Niên Kỷ này, và cả nhiều Niên Kỷ tiếp sau nữa.” Hơn ai hết, chính Elrond cũng là một nạn nhân của Sauron – Chúa Tể Hắc Ám. Sau một trận chiến trong Niên Kỷ Thứ Hai, Elrond đã phải náu mình về thung lũng thần tiên Rivendell. Và dù cho Sauron đã bị đánh bại vào cuối Niên Kỷ Thứ Hai, Chiếc Nhẫn Quyền Uy của hắn bị chặt đứt cùng cánh tay trong Trận Chiến Cuối Cùng, hắn vẫn náu mình dưới cái tên Necromancer, và âm thầm chiêu binh mãi mã dưới bóng toà lâu đài đen của xứ sở Mordor. Và nay, hoàn toàn tình cờ, một người Hobbit (Chúa Tể Hắc Ám đâu thèm biết tới tộc người nhỏ bé này) đã tìm ra Chiếc Nhẫn. Hắn đã được biết tin này, và nếu có được Chiếc Nhẫn trong tay, hắn lại trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, hắn sẽ đủ sức mạnh để biến cả thế giới thành nô lệ. Những kẻ thù của Chúa Tể Hắc Ám đã chia rẽ và không còn mạnh như trước nữa, còn chính hắn, nung nấu căm thù, đã trở nên quyết liệt hơn bao giờ hết. Lối thoát duy nhất của những người Hobbit và những tộc người khác là tìm cách ngăn chặn hắn đoạt lại được Chiếc Nhẫn Tối Thượng. Đó là khởi đầu bộ Hiệp Hội bảo vệ Nhẫn. *** John Ronald Reuel Tolkien sinh năm 1892 tại Bloemfontein, Nam Phi. Ký ức thời thơ ấu của ông luôn gắn liền với thành phố này và trang trại của gia đình. Cha chết sớm do thấp khớp, ông cùng mẹ và em trai quay về Anh Quốc. Gia đình ông sống tại Anh trong cảnh nhà không dư dả. Niềm vui lớn của Tolkien lúc này là đọc sách. Những tác gia lớn của Anh thời đó như H. G. Wells, G. K. Chesterton rất được ông ngưỡng mộ. Năm 16 tuổi, ông đã có được học bổng của Đại học Oxford danh tiếng. Trong suốt cuộc đời mình, Tolkien luôn có một niềm đam mê ám ảnh, đó là niềm say mê ngôn ngữ, nhất là những ngôn ngữ cổ. Ông nhuần nhuyễn trong những sử thi Iceland, Na Uy, Phần Lan. Ngay tên một số nhân vật như những người Dwarf trong cuốn Người Hobbit này cũng được mượn từ Sử thi Bắc Âu. Thorin Khiên Sồi vốn chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Thần Thor của những người Viking đấy. Năm 1914, Thế Chiến Thứ Nhất nổ ra, Tolkien gia nhập quân ngũ với vai trò một sỹ quan tại Trận Somme, nơi ông đã chứng kiến sự hy sinh của bao bạn hữu. Ông bị thương năm 1917 và được đưa về hậu cứ. Không khi nào Tolkien có dịp ra tiền tuyến nữa. Năm 1925, cùng một số đồng nghiêp, ông cho công bố bản dịch Lãnh chúa Gawain và Hiệp sĩ xanh. Tác phẩm có tiếng vang lớn, và Tolkien được mời làm giáo sư ngôn ngữ của Đại học Oxford. Người Hobbit – tập sách đã làm Tolkien nổi tiếng ra đời năm 1936. Ông bắt đầu viết tập sách này khi đang chấm một bài thi quá tệ của sinh viên. Cuốn sách khi viết xong đã được gửi cho NXB Unwin. Thật thú vị, người chấp thuận cho cuốn sách được in lại là cậu con trai mười tuổi của ông chủ NXB. Nhanh chóng, Người Hobbit trở thành bestseller và mang lại danh vọng cho Giáo sư Tolkien. Cùng với C. S. Lewis, tác giả Alice ở xứ sở diệu kỳ, một giáo sư đồng nghiệp, Tolkien gia nhập nhóm Inklings, một nhóm sáng tác nổi tiếng lúc này.  Cũng như những người Hobbit của mình, Tolkien hiếm khi nào rời tẩu thuốc. Ông cũng thích đố chữ, thích ngủ trễ như anh chàng Bilbo Baggins hiền lành. Và bạn hãy nhìn xem, ngôi nhà của ông bà Tolkien đây liệu có giống cái lỗ của những người Hobbit? Cuối những năm 30, ông đặt bút viết tiếp 3 tập tiếp theo của Chúa Tể những chiếc Nhẫn. Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng những ảnh hưởng của thời kỳ đen tối này đã buộc Tolkien ngẫm nghĩ lại nhiều điều, và tác phẩm chỉ ra mắt độc giả vào năm 1953. Cậu con trai mười tuổi khi nào của NXB Unwin, nay đã trưởng thành, một lần nữa là người ấn hành tác phẩm của Tolkien. Chúa Tể những chiếc Nhẫn được in thành 3 phần, và là một trong những cuốn sách được ưa chuộng nhất trong mọi thời đại. Danh tiếng và sự giàu có vừa là sự hài lòng, vừa là nỗi khổ của Tolkien. Tuy nhiên, ông chấp nhận sự nổi tiếng này và luôn phải bận rộn với việc quan tâm của công chúng ái mộ. Bà Edith vợ ông qua đời năm 1971. Mất mát này giáo sư Tolkien không chịu nổi; ông đau đớn suốt hai năm ròng và qua đời năm 1973, ngày mùng hai tháng Chín. *** Khi ông Bilbo Baggins ở Bag End thông báo rằng nay mai ông sẽ ăn mừng sinh nhật thứ một trăm mười một của mình bằng một buổi liên hoan đặc biệt hoành tráng, thì có rất nhiều xôn xao bàn tán và phấn khích ở Hobbiton. Bilbo rất giàu và rất lập dị, và đã là kỳ quan của xứ Shire1 suốt sáu mươi năm, kể từ vụ biến mất kỳ lạ và lần trở về bất ngờ của ông ta. Những của cải ông mang về sau những chuyến du hành giờ đã trở thành một truyền thuyết trong vùng, dư luận chung tin rằng, bất kể những bố già có nói gì, là Vùng Đồi ở Bag End chằng chịt những đường hầm chứa đầy kho báu. Và nếu thế chưa đủ lừng danh thì vẫn còn sự khang kiện kéo dài của ông ta để mọi người phải thán phục. Thời gian cứ trôi qua nhưng có vẻ nó chả ảnh hưởng gì đến ông Baggins. Ở tuổi chín mươi chín, họ bắt đầu gọi ông ta là được bảo quản tốt, nhưng chữ không thay đổi chắc là gần với sự thật hơn. Có một số người đã lắc đầu và nghĩ sao mà một ai đó sở hữu (một cách hiển nhiên) cả tuổi trẻ lâu dài cũng như (theo ước đoán) sự giàu có vô tận. “Cái này sẽ phải trả giá,” họ nói. “Thế là trái tự nhiên, rồi nó sẽ đẻ ra rắc rối cho coi!” Nhưng tới nay thì vẫn chưa thấy có rắc rối gì, và vì ông Baggins hào phóng với tiền bạc của mình, nên hầu hết mọi người sẵn lòng tha thứ cho cả những điều kỳ quái lẫn cái tài sản khổng lồ của ông. Ông ta vẫn đi lại với họ hàng (dĩ nhiên là ngoại trừ nhà Sackville-Baggins), và ông ta có rất nhiều kẻ hâm mộ tận tình trong đám Hobbit thuộc những gia đình nghèo khổ và không địa vị. Nhưng ông ta không có bạn thân, cho đến khi đám em út trong họ ít tuổi hơn bắt đầu lớn lên. Người lớn nhất trong số này, và được Bilbo ưa thích là anh chàng Frodo Baggins2. Khi Bilbo chín mươi chín, ông ta chọn Frodo làm kẻ thừa kế và đem anh về sống ở Bag End; và mọi hy vọng của nhà Sackville-Baggins sau cùng đã tan nát. Bilbo và Frodo tình cờ lại có cùng ngày sinh, 22 tháng Chín. ... Mời các bạn đón đọc Hiệp Hội Bảo Vệ Nhẫn của tác giả J. R. R. Tolkien.
Người Hobbit - J. R. R. Tolkien
• Cuốn sách này được NXB Hội Nhà Văn chia làm bảy tập, từ 1 đến 5. Ebolic gộp lại thành một khi chế bản ebook. Mục lục được chia lại theo từng tập. Bìa mỗi tập được chèn ở đầu chương lớn, bìa ở đầu tác phẩm do chúng tôi thiết kế. • Tất cả lỗi dịch sai, lỗi chính tả, viết sai tên, cách trình bày dấu câu, trình bày đoạn văn, hình minh họa bị thiếu đều được chúng tôi sửa lại và bổ sung, đối chiếu nguyên tác The Fellowship of the Ring. • Chú thích đề Tornad là của người làm ebook; chú thích không đề gì là của dịch giả Nguyễn Nam. Phần Phụ lục I trình bày lại từ mục Câu lạc bộ ở cuối mỗi tập. Phụ lục II là sản phẩm của Ebolic sáng tác và thêm vào. • Để giữ mức độ trung thành nhất có thể với bản in, Ebolic chỉ sửa những lỗi dịch sai từ vựng sao cho vẫn mang văn phong cũ, còn những lỗi sai cả câu văn và đoạn văn thì chúng tôi không sửa. Tinh thần của bản gốc là dịch nhân danh và địa danh, bản dịch này không làm thế, nhưng chúng tôi cũng không dịch lại. Do đó cuốn sách này không mang đến sự chính xác tuyệt đối về thế giới Trung Địa và tinh thần tác phẩm đến cho bạn đọc. Chúng tôi khuyến cáo chỉ nên coi cuốn sách này như một bản dịch tham khảo. Ban đọc thân mến, “Liệu Chúa Tể những chiếc Nhẫn có thể dựng thành phim?” Câu hỏi ấy hôm nay nghe thật ấu trĩ, nhưng mới gần đây thôi, giới phê bình và biên kịch phương tây đều thống nhất là: “Không!” Đạo diễn Peter Jackson của New Line Cinema đã thực hiện một “nhiệm vụ bất khả” – dựng lại Chúa Tể những chiếc Nhẫn thành 3 tập trên màn ảnh lớn. Kết quả cũng thật mỹ mãn: 11 đề xuất, 04 giải Oscar 2002 cùng doanh số trên 400 triệu USD riêng cho tập 1 Hiệp hội bảo vệ chiếc nhẫn. Cùng thể loại, nhưng Chúa Tể những chiếc Nhẫn đã đẩy bật Harry Potter xuống phía sau trên cả quầy sách lẫn trên màn ảnh lớn. Những tập tiếp theo sẽ ra mắt trong dịp Giáng Sinh năm nay và năm sau chắc chắn sẽ còn làm tốn khối giấy mực của giới phê bình. Thật may cho Peter Jackson, bởi anh đã chạm vào đúng mạch. Nên nhớ, thế giới của Chúa Tể những chiếc Nhẫn đã ăn đậm trong tâm trí người đọc từ lâu, chưa nói đến 50 triệu bản phát hành toàn cầu bằng 37 thứ tiếng (tiếng Việt là ngôn ngữ thứ 38), chưa nói đến chuyện được bình chọn là “Cuốn sách hay nhất thế kỷ 20” (Britain Channel 4 và WaterStones bình chọn; Amazon cũng cho cùng kết quả), riêng đối mặt với hằng hà sa số game điện tử: War Craft, Heroes Of Might and Magics, Age Of Wonders, Heroes Chronicles dựa trên cốt truyện Chúa Tể những chiếc Nhẫn cũng đã đủ mệt lắm rồi. Thế giới huyền ảo Trung Địa (Middle Earth) đã được tác giả Tolkien và trí tưởng tượng của độc giả khắc hoạ từ bao thập niên nay. Jackson đã không phạm “húy”, và anh đã thành công. Vậy điều gì đã tạo nên sự bất tử cho vùng Trung Địa của giáo sư đại học Oxford J. R. R. Tolkien? Bạn đọc sẽ có thời gian đế khám phá điều này khi phiêu bạt cùng những người Hobbit nhỏ bé, trung hậu nhưng bất khuất, đối mặt với bao hiểm nguy rình rập trên đường thực hiện những “sứ mệnh bất đắc dĩ” của mình. Để tiện theo dõi, chúng tôi xin giới thiệu sơ qua về Trung Địa vào thời trước khi câu chuyện này diễn ra. Vào thời hồng hoang, Eru Ilúvatar, chúa tể của vạn vật đã khai sinh và tạo ra những người Ainur – những người thần thánh. Người Ainur đã tấu lên khúc nhạc của mình, và thế giới Trung Địa đã được sinh ra trong tiếng nhạc này. Những tộc người cũng đã nối nhau xuất hiện trên Trung Địa, những người Elf thông thái rồi người lùn rậm râu Dwarf cao ngạo, người Hobbit hiền lành, loài Người can đảm… Nhưng những thế lực quỷ thuật dưới tay Chúa Tể Hắc Ám đầu tiên Melkor cũng theo nhau lộ diện: bọn Rồng của Glaurung – Cha của loài Rồng, bọn quỷ khổng lồ Troll – những con quái vật ù lì của bóng đêm, bọn Goblin tàn độc… Cuộc chiến gìn giữ Trung Địa đã bắt đầu ngay từ trước Niên Kỷ Thứ Nhất. Những trận giao tranh tàn khốc đã diễn ra. Những pháp sư cao quý của Hội Đồng Bạch Đạo đã đôi lần đánh bại Melkor và kẻ kế thừa của hắn – Chúa Tể Sauron. Nhưng họ cũng phải chịu vô số tổn thất. Chỉ biết rằng Chúa Tể Hắc Ám Sauron đã biến mất vào đầu Niên Kỷ Thứ Ba. Có thể hắn đang thâu thập thêm lực lượng, bởi những kẻ bộ hạ của hắn vẫn còn nguyên đó: bọn Goblin, bọn Rồng, bọn quỷ núi khổng lồ… Nhưng các pháp sư thuộc Hội Đồng Pháp Sư Bạch Đạo Tối Cao có những suy nghĩ khác… Và như vậy, vào năm 2941 Niên Kỷ Thứ Ba, vào một buổi sáng đẹp trời ở xứ Shire, xứ sở an lành và biệt lập của những người Hobbit, câu chuyện đã bắt đầu… ***   John Ronald Reuel Tolkien sinh năm 1892 tại Bloemfontein, Nam Phi. Ký ức thời thơ ấu của ông luôn gắn liền với thành phố này và trang trại của gia đình. Cha chết sớm do thấp khớp, ông cùng mẹ và em trai quay về Anh Quốc. Gia đình ông sống tại Anh trong cảnh nhà không dư dả. Niềm vui lớn của Tolkien lúc này là đọc sách. Những tác gia lớn của Anh thời đó như H. G. Wells, G. K. Chesterton rất được ông ngưỡng mộ. Năm 16 tuổi, ông đã có được học bổng của Đại học Oxford danh tiếng. Trong suốt cuộc đời mình, Tolkien luôn có một niềm đam mê ám ảnh, đó là niềm say mê ngôn ngữ, nhất là những ngôn ngữ cổ. Ông nhuần nhuyễn trong những sử thi Iceland, Na Uy, Phần Lan. Ngay tên một số nhân vật như những người Dwarf trong cuốn Người Hobbit này cũng được mượn từ Sử thi Bắc Âu. Thorin Khiên Sồi vốn chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Thần Thor của những người Viking đấy. Năm 1914, Thế Chiến Thứ Nhất nổ ra, Tolkien gia nhập quân ngũ với vai trò một sỹ quan tại Trận Somme, nơi ông đã chứng kiến sự hy sinh của bao bạn hữu. Ông bị thương năm 1917 và được đưa về hậu cứ. Không khi nào Tolkien có dịp ra tiền tuyến nữa. Năm 1925, cùng một số đồng nghiêp, ông cho công bố bản dịch Lãnh chúa Gawain và Hiệp sĩ xanh. Tác phẩm có tiếng vang lớn, và Tolkien được mời làm giáo sư ngôn ngữ của Đại học Oxford. Người Hobbit – tập sách đã làm Tolkien nổi tiếng ra đời năm 1936. Ông bắt đầu viết tập sách này khi đang chấm một bài thi quá tệ của sinh viên. Cuốn sách khi viết xong đã được gửi cho NXB Unwin. Thật thú vị, người chấp thuận cho cuốn sách được in lại là cậu con trai mười tuổi của ông chủ NXB. Nhanh chóng, Người Hobbit trở thành bestseller và mang lại danh vọng cho Giáo sư Tolkien. Cùng với C. S. Lewis, tác giả Alice ở xứ sở diệu kỳ, một giáo sư đồng nghiệp, Tolkien gia nhập nhóm Inklings, một nhóm sáng tác nổi tiếng lúc này.  Cũng như những người Hobbit của mình, Tolkien hiếm khi nào rời tẩu thuốc. Ông cũng thích đố chữ, thích ngủ trễ như anh chàng Bilbo Baggins hiền lành. Và bạn hãy nhìn xem, ngôi nhà của ông bà Tolkien đây liệu có giống cái lỗ của những người Hobbit? Cuối những năm 30, ông đặt bút viết tiếp 3 tập tiếp theo của Chúa Tể những chiếc Nhẫn. Chiến tranh thế giới thứ hai, cùng những ảnh hưởng của thời kỳ đen tối này đã buộc Tolkien ngẫm nghĩ lại nhiều điều, và tác phẩm chỉ ra mắt độc giả vào năm 1953. Cậu con trai mười tuổi khi nào của NXB Unwin, nay đã trưởng thành, một lần nữa là người ấn hành tác phẩm của Tolkien. Chúa Tể những chiếc Nhẫn được in thành 3 phần, và là một trong những cuốn sách được ưa chuộng nhất trong mọi thời đại. Danh tiếng và sự giàu có vừa là sự hài lòng, vừa là nỗi khổ của Tolkien. Tuy nhiên, ông chấp nhận sự nổi tiếng này và luôn phải bận rộn với việc quan tâm của công chúng ái mộ. Bà Edith vợ ông qua đời năm 1971. Mất mát này giáo sư Tolkien không chịu nổi; ông đau đớn suốt hai năm ròng và qua đời năm 1973, ngày mùng hai tháng Chín. *** Thuở nọ, có một Hobbit1 sống trong “lỗ” nhà mình dưới lòng đất. Bạn chớ nghĩ đó là một cái “lỗ” bẩn thỉu và ẩm thấp, nơi đuôi giun và rễ cây thò ra từ bốn phía, bốc mùi khó ngửi. Mà đó cũng chẳng phải một “lỗ” trong vùng cát khô, nơi không có gì ăn được và cũng chẳng ăn được thứ gì. Không, “lỗ” của chúng ta là một lỗ Hobbit, và điều đó có nghĩa là no đủ. Nó khởi đầu từ một cánh cửa rất tròn, giống lỗ mạn thuyền, được sơn màu xanh lá, với tay nắm đồng sáng lấp lánh ở giữa. Cửa mở vào trong, thẳng tới một hành lang dài, gần giống như một đường hầm xe lửa ngày nay. Nhưng đường hầm này không có khói, cũng chẳng có bụi, lại rất ấm cúng: tường được lát gỗ tấm, sàn lát gạch và có thảm phủ trên; dọc theo tường là những ghế gỗ bóng xếp hàng, khắp nơi đóng đầy mắc áo để treo mũ và áo khoác – dân Hobbit vốn rất hiếu khách. Đường hầm này cứ kéo dài, kéo dài mãi xuống dưới, nhưng chưa đến tâm của Vùng Đồi, như dân nhiều dặm quanh đây quen gọi. Dọc hai bên đường hầm có nhiều, rất nhiều những cửa tròn, cái này kế tiếp cái kia. Hobbit không ưa cầu thang: tất tật nào phòng ngủ, phòng tắm, nào kho chứa đồ (cả dãy kho chứa đồ), phòng chứa quần áo (hobbit dành hẳn vài phòng để giữ quần áo), nào nhà bếp và nhà tắm, đều nằm gọn ở một tầng, nói cho đúng thì cùng nằm trong hành lang trên cả. Những phòng tốt nhất nằm bên tay trái, và chỉ riêng những phòng này có cửa sổ bên trong – những cửa sổ sâu, hình tròn, nhìn ra vườn và những trảng cỏ xanh chạy dài xuống mé sông. Gã Hobbit của chúng ta là một Hobbit “con nhà lành” thuộc họ Baggins. Nhà Baggins đã sống ở vùng ven Đồi từ thuở nảo thuở nào tới giờ và luôn được coi như một gia đình danh giá. Phần vì đa số họ giàu có, phần vì họ chưa từng rơi vào những cảnh éo le hay chơi trò lập dị. Không hỏi, bạn cũng biết trước dân họ Baggins sẽ đáp những gì. Nhưng tôi sẽ kể bạn nghe chuyện về một gã trong họ Baggins, người cuối cùng cũng đã bị cuốn vào một cuộc phiêu lưu, hắn đã miệng nói tay làm những việc khó ngờ. Có thể hắn sẽ mất đi sự kính trọng của xóm giềng, nhưng bù lại hắn lại có đủ… À vâng, tự bạn sẽ thấy kết cục hắn có được gì chăng. ... Mời các bạn đón đọc Người Hobbit của tác giả J. R. R. Tolkien.
Ngự Thú Nữ Vương - Luyến Nguyệt Nhi
Tỉnh lại lần nữa, nàng trở thành bé gái bảy tuổi. Cùng đại ca sinh đôi sống nương tựa lẫn nhau, bị đánh, bị vứt đến bãi tha ma. Thoát khỏi con đường chết, nàng và đại ca được một cao thủ thần bí đã ẩn cư cứu giúp. Bắt đầu cuộc sống mới. Cuộc sống tái sinh, cô bé bảy tuổi đã trở thành thiếu nữ tuyệt mỹ. Cưỡi Bạch Hổ, thổi ngọc tiêu, dẫn ngàn quân vạn thú quét ngang giang hồ. Những kẻ thiếu nợ anh em nàng cũng đừng hòng chạy trốn. Nợ máu phải trả bằng máu, kẻ nào dám đụng vào nàng thì chỉ có con đường chết. Người nàng muốn bảo vệ, nàng cam nguyện lấy thân mình che chở. Còn kẻ địch của nàng thì giết không tha. Chọc đến nàng, tất phải chết. Chọc đại ca của nàng, kẻ đó sẽ sống không được mà chết cũng không xong. Nữ vương cưỡi thú vừa xuất hiện, khiến cho vô số mỹ nam tranh nhau ngả mũ. Hắn nói: Người có thể xứng với nàng chỉ có ta. (Mộc Nguyệt Ly ) Hắn nói: Nhất sinh nhất thế nhất song nhân, ta chỉ muốn nàng. (Vân Tuyệt Trần ) Hắn nói: Không thể yêu nhau, chỉ cầu mãi mãi cạnh nhau. (Âu Dương An) . . . . . . Thu phục từng mỹ nam, bí mật về thân thế cũng bị lộ ra. Nàng lại không phải con gái của Tướng quân. Vậy, nàng là ai? *** Mấy ngàn năm tuổi, hắn cũng chưa từng cảm thấy cô đơn. Nhưng sau khi thấy Mộc Nguyệt Tĩnh và Âu Dương An thành đôi, con cái lượn quanh đầu gối. Hắn lại cảm thấy có chút tịch mịch. Vân Khinh Cuồng đứng trong Vương Quốc của mình, phong cảnh bốn phía như tranh vẽ, cung điện sau lưng cũng là xinh đẹp như mộng. Cột lớn màu trắng chống đỡ lấy một tòa nhà cũng màu trắng, các thần tử của hắn đang ở chỗ không xa nhìn hắn. Ánh mặt trời từ trong bóng cây soi rọi xuống, bao phủ một chút ở trên người hắn. Mái tóc dài bạch kim rũ xuống bên hông, ánh mắt xanh biếc như một loại Phỉ Thúy xinh đẹp, thế nhưng lúc này lại nhiễm lên vài phần vắng vẻ cô đơn. Bờ môi khêu gợi khẽ nhếch, kèm theo sự trào phúng của chính mình, chẳng lẽ hắn cùng với Mộc Nguyệt Tĩnh bọn họ tiếp xúc lâu dài, lại cũng học được đa sầu đa cảm của loài người nhiều như vậy rồi sao? Có điều cũng tự mình chế giễu mình, hắn vẫn là cảm giác bản thân cô đơn. Hơn nữa Mộc Nguyệt Tĩnh bây giờ đã không còn cần đến hắn thường xuyên nữa, hắn lại càng cảm thấy cuộc sống như thế thật là nhàm chán, tuổi thọ quá dài, nhìn thế gian năm tháng tang thương biến đổi, cũng không thích hợp để duy trì loại quá khứ phai nhạt như vậy nữa, cảm giác đã thờ ơ ảm đạm. "Vương -" Một tiếng gọi nhẹ nhàng mà cung kính đem Vân Khinh Cuồng từ trong trầm tư thức tỉnh. Vân Khinh Cuồng nghiêng đầu, nhìn thị vệ cận thân của mình ở đây, gật đầu một cái: "Có chuyện gì?" "Khởi bẩm Vương thượng, chúng thần bắt được một con Hỏa Hồ. Hoài nghi nàng ta là thám tử." Thị vệ chắp tay hướng về Vân Khinh Cuồng cung kính đáp, mặc dù Vương thống trị tất cả nơi này, nhưng mà những năm tháng khi ngài gặp nạn, đã xuất hiện rất nhiều kẻ dã tâm không cam lòng, ý đồ mưu phản xưng bá yêu giới. Sau này Vương trở lại kịp lúc thu thập không ít, chỉ là vẫn còn có một ít lẩn trốn được sâu hơn. ... Mời các bạn đón đọc Ngự Thú Nữ Vương của tác giả Luyến Nguyệt Nhi.
Mục Thần Ký
Đại khư tổ huấn nói, trời tối, đừng đi ra ngoài. Đại khư tàn lão thôn già yếu tàn tật bọn họ từ bờ sông nhặt được một đứa bé, lấy tên Tần Mục, ngậm đắng nuốt cay đem hắn nuôi lớn. Một ngày này màn đêm buông xuống, bóng tối bao trùm đại khư, Tần Mục đi ra cửa chính. . . Làm gió xuân bên trong nhộn nhạo nhân vật phản diện đi! Người mù nói với hắn. Tần Mục nhân vật phản diện chi lộ, ngay tại quật khởi! *** Mục thần ký review – Trạch Trư mục thần ký Lại là một tác phẩm đặc sắc nữa của tác giả Trạch Trư. Và có thể nói đây sẽ là bộ truyện thành công nhất của Trạch Trư cho đến hiện tại, ông đã cho ra đời các bộ truyện như Đế Tôn, Độc Bộ Thiên Hạ, Nhân Đạo Chí Tôn nhưng đều không gây được nhiều sự chú ý. Mục Thần Ký là bộ truyện tiên hiệp hài hước, nhẹ nhàng nhưng vẫn mang trong mình đầy đủ những tình tiết kịch tính, màu sắc huyền bí, nội hàm rộng lớn phong phú mà thể loại truyện này cần phải có. Trạch Trư là cây bút phóng khoán, thổi luồng gió mới vào giới văn học mạng bên cạnh những cây bút đại thụ như Nhĩ Căn, Ngã Cật Tây Hồng Thị… Truyện mở đầu với một địa phương heo hút gọi là Tàn Lão Thôn, người đân trong thôn đều không phải là dạng hiền lành, toàn là bậc hung thần sát ác nhưng có lai lịch khác nhau, đến đây kéo dài hơi tàn, bọn họ vốn oán trời, oán đất, oán muôn người, oán khí rất nặng. Tần Mục được Tư bà bà của thôn nhặt được ở bờ suối, người trong Tàn Lão Thôn đặt tên cậu là Tần Mục với ý nghĩa là người lành lặn duy nhất trong thôn, là đứa bé chăn bò họ Tần. Chỉ cần cho đi chăn trâu chắc có lẽ vẫn sống qua ngày được. Hắn lớn lên theo Tư bà bà học may vá, gia gia què học cước pháp, gia gia mù học nhãn pháp, theo dược sư học hái thuốc, chế thuốc, theo người câm học làm ren, theo đồ tể học đao pháp, theo người điếc học chữ vẽ tranh. Còn được trưởng thôn chỉ dạy pháp môn tu hành. Đó đều là những bản lĩnh nghịch thiên, được mọi người một lòng dốc sức dạy bảo, Tần Mục đơn thuần như cây non hút nước, học không bỏ sót điều gì. Trong Đại Khư thần bí hắn lại gặp được những chuyện thần bí, học được thần âm, ma âm, phật âm. Vô tình phá được Linh thai bích, trở thành người đầu tiên có được bá thể. Tháng ngày ngược lại trôi qua rất nhanh, thiếu niên Tần Mục mang một thân bản lĩnh, cùng sự cơ trí, lanh lẹ của mình xông phá ra ngoài, kiến tạo con đường truyền kỳ cho riêng mình. Nhân Vật trong Mục Thần ký: Nam chính: Tần Mục thuở đầu là thiếu niên hiếu động, thông minh. Nhưng tiếp xúc với một đống người già rảnh rỗi, không có việc gì làm, suốt ngày bày trò lừa phỉnh con nít, nên hắn cực kỳ lanh lẹ, chỉ có mình đi lừa người chứ hiếm khi ai lừa được hắn. Xem thêm: Review Tần Mục-Tân Nhân Hoàng “Đại Khư thực sự quá nguy hiểm, trung hậu thật thà như chúng ta nếu như không học chút khôn lanh, nhất định sẽ bị lừa sạch sẽ trơn tru, bị ăn đến không còn một chút cặn thừa.” Nói hắn thiên tài thì chắc chắn là thiên tài hạng nhất, nhưng hắn không chỉ là thiên tài thuần tuý, mà là loại thiên tài có tâm cơ, xảo trá như hồ ly thành tinh vậy. Về sau hắn trở thành một nhân vật chính tà khó phân, lại sợ vợ một phép nên được gọi là Mục Tặc. Trên các diễn đàn những đoạn trích thú vị nhất về hắn vẫn hay được chia sẽ. Nhân vật phụ: Tuyến nhân vật phụ trong Mục Thần Ký đều được miêu tả rất hay, mỗi nhân vật đều có cá tính riêng không hề bị mờ nhạt. Nếu không có những nhân vật này, Mục Thần Ký có lẽ đã không thành công đến vậy. Ấn tượng nhất với mình là Nhân vật Quốc Sư Duyên Khanh – Một kẻ Quân Tử hiếm có. Tư bà bà, Mã gia cụt tay, thợ rèn câm, người mù, trưởng thôn, Dược sư xấu xí kì dị, … đều mang trong mình bản lĩnh nghịch thiên. Hơn nữa đó không phải là mấy ông lão bà lão bình thường, trong thôn bọn họ đều là chuyên gia lừa bịp, cáo già thành tinh. “Ngươi không biết tuổi ấu thơ của ta trôi qua như thế nào đâu! Từ nhỏ ta đã bị một đám ông lão, bà lão lừa bịp, ngay trước khi ta đi săn thú, bà bà còn gạt ta vào chuồng gà lấy trứng, đó là một con Kê Bà Long, nó đánh ta chạy khắp nơi, căn bản đánh không lại nó! Còn bà bà liền lén lút chuồn tới lượm trứng gà” Cảnh giới: -7 Đại thần tàng Trong thân thể ẩn giấu bảy đại thần tàng (kho báu lớn) là Linh Thai, Ngũ Diệu, Lục Hợp, Thất Tinh, Thiên Nhân, Sinh Tử, Thần Kiều, bảy kho báu lớn này bẩm sinh đã bị niêm phong, tựa như bảo tàng bị đóng kín, bởi vậy được gọi là bảy đại thần tàng. Bảy đại thần tàng đang ở trạng thái đóng kín, cần chính võ giả mở ra, mà ngăn cản võ giả mở ra thần tàng thì gọi là bích (tường), Linh Thai bích, Ngũ Diệu bích, Lục Hợp bích, Thất Tinh bích, Thiên Nhân bích, Sinh Tử bích, Thần Kiều bích. Quá trình phá tan bảy bức tường này gọi là phá bích. – Bên trong bảy Thần tàng, Linh Thai mở linh tính, Linh Thai hình thành trung tâm khai thiên tích địa. – Có Linh Thai, Linh Thai đứng phía trên linh đài, lấy Linh Thai làm trung tâm tạo ra Ngũ Diệu. Kim mộc thủy hỏa thổ năm viên tinh thần, chúng đều quay chung quanh linh đài. – Sau đó linh đài diễn sinh đại lục, đại lục định hình, có đông nam tây bắc tạo thành Lục Hợp. – Lục Hợp thành tựu, lại sinh nhật nguyệt, hợp là Thất Tinh. – Thất Tinh có, Linh Thai cũng đại thành, diễn sinh nhật nguyệt tinh đấu, trở thành Thiên Nhân. – Nguyên thần Thiên Nhân đủ cường đại, nguyên thần liên thông sinh tử. Tử chính là U Đô dưới chân nguyên thần, giấu ở phía dưới linh đài đại lục, U Đô tạo ra sinh tử. – Sinh chính là Thần Kiều, một Thần Kiều xuất hiện phía trên nguyên thần, đạp Thần Kiều tiến thẳng Thiên cung. Đi vào Thiên cung liền thoát ra khỏi U Đô khống chế, đã không còn thọ nguyên hạn chế. – Linh Thể Không phá được tường liền không cách nào tu luyện. Có người được trời cao chiếu cố, vừa sinh đã phá vỡ Linh Thai bích, bẩm sinh đã mở ra thần tàng Linh thai, loại thể chất này được gọi là linh thể, trời sinh được thần giúp đỡ, là hạt giống tu luyện. Người nắm giữ linh thể, thiên phú cao hơn người thường vô số lần, lúc tu luyện làm ít mà hiệu quả nhiều. Linh thai có bốn loại thuộc tính nên linh thể cũng có bốn loại là Thanh Long linh thể, Bạch Hổ linh thể, Chu Tước linh thể và Huyền Vũ linh thể. Muốn kiểm tra có hay không có linh thể liền cần Tứ Linh huyết này. Bá thể là con đường mới mà Tần Mục khai sinh ra, chỉ từ một lời nói dối tưởng vô hại nhưng dưới niềm tin tuyệt đối của trẻ thơ, đã trở thành động lực cho hắn từ một phàm thể bình thường, làm ra chuyện phi thường bước lên cảnh giới bá thể vô song có một không hai. “Chỉ cần có niềm tin thì phàm thể chính là Bá thể!” Cảm Nhận – Đánh giá: Hệ thống tu luyện trong truyện thì hơi đơn giản, nhưng bù lại Trạch Trư có lối hành văn rất hay, các giải thích các chiêu thức logic. Đặc biệt có một thứ ngạo khí giang ồ khó tìm trong các truyện tiên hiệp hiện nay. Khiến người đọc dễ dàng chấp nhận, rồi từ đó lại thành một nét riêng cho mạch truyện. Cảm nhận là tác giả rất có tâm và đủ tầm. Nên những chiêu thức trong Mục Thần Ký, những cảnh chiến đấu dù không quá dữ dội, tráng lệ lại cuốn hút người đọc lạ thường bởi sự am tường về tiểu thuyết võ hiệp cổ điển. Người chưa đọc thế hệ Kim Dung, Cổ Long, Mã Vinh Thành sẽ thấy mới, người từng đọc rồi thì như thấy lại bầu trời kỉ niệm. Xem thêm: so sánh Tân Thủ và Lão Làng. “Bùng cháy! Bùng cháy! Hãy cho đao của con bùng cháy, khí của con bùng cháy, tinh thần con bùng cháy. Bùng cháy xong tất thành thần thông!” “Đây chính là Thiên thủ Phật đà trong Lôi Âm Bát thức! Chỉ cần quyền của con nhanh hơn âm thanh liền có thể thao túng sấm chớp, một quyền một chưởng cũng có thể phá hủy hồn phách cùng thân thể của đối phương, khiến hắn vạn kiếp bất phục, vĩnh viễn không thể đầu thai!” Truyện mở đầu hay, có cái kết mở hơi mông lung hướng về cảm ngộ luân hồi. Không biết số phận mọi người, Tú muội ra sao, Linh Quân còn không? Khai, Hư, Ngự Thế nào? Nhưng tác giả có giải thích rất kĩ ở cuối truyện, các đạo hữu nếu có yêu mến mà đọc tới cuối truyện, thì thiết nghĩ nên hiểu cho tâm tư Trạch Trư gửi gắm. Tái bút Mục Thần Ký Truyện có tinh thần chủ đạo rất hay: Thần Vì Người Dùng; Nhân Mạng Lớn Hơn Trời; Thánh Nhân Chi Đạo Tại Bách Tính Hàng Ngày. Bắt đầu ở Đại Khư. Kết cục tại Đại Khư. Trời tối đừng ra ngoài Nhân vật: 9/10 Văn Phong: 9/10 Nội dung: 8.5/10 Đánh giá: 9/10 *** Tần Mục một mực cung kính nói: "Tiền bối yên tâm, vãn bối tu luyện từ thuở nhỏ, thận thủy dồi dào, nguyên dương no đủ, nhãn lực rất tốt, có thể nhìn thấy vật trong đêm đen, tự nhiên thấy rõ." Bóng người trên vách tường lay động một chút, tuy nhiên không làm thêm động tác nào, mà lại tiếp tục biểu diễn những ảo diệu trong việc hành công của nguyên khí. Ấn thứ ba Đại Tự Tại ấn là Đại Trí Tuệ ấn, sự vận hành của Đại Trí Tuệ ấn phức tạp hơn nhiều, con đường hành công của nguyên khí bên trong bóng đen kia càng lúc càng nhanh, mặc dù Tần Mục mở ra Thần Tiêu Thiên Nhãn cũng không cách nào hoàn toàn bắt kịp quỹ tích hành công của nguyên khí, khiến hắn không nhịn được muốn bước vào Thiên điện. Tần Mục chần chờ một chút, một chân bước vào cửa điện, chân còn lại vẫn ở ngoài điện, cuối cùng cũng coi như có thể gắng gượng thấy được con đường hành công của nguyên khí. Hắn liều mạng ghi nhớ, thế nhưng bóng người trên tường kia lại vận hành Đại Trí Tuệ ấn rất nhanh trong chỉ một lần, hắn thử khống chế Đại Trí Tuệ ấn, cho dù cũng triển khai được thế nhưng từ đầu đến cuối đều cảm thấy khiếm khuyết một vài chỗ. Hắn đã không thể hoàn toàn nhớ được con đường hành công của Đại Trí Tuệ ấn. "Đây là ấn thứ tư của Đại Tự Tại ấn, cũng là ấn mạnh nhất, tất cả uy lực của ba ấn trước đó đều sẽ dung nhập vào trong một ấn này." Bóng người trên tường càng có vẻ vô lực, cái bóng càng lúc càng nhỏ, âm thanh càng ngày càng thấp, nói: "Tuy nhiên ấn này phức tạp hơn, ta sợ ngươi không cách nào thấy rõ." ... Mời các bạn đón đọc Mục Thần Ký của tác giả Trạch Trư.