Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sông Xa

Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khoác áo lính cho, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu Lai đã khẳng định được tài năngvà phong cách của mình. Trong số đó thì Sông xa cũng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với những câu chuyện và những phận người đầy gai góc Sống xa là dòng hồi tưởng kể về số phận xót xa của những người lính đã anh dũng chiến đấu trong thời chiến. Câu chuyện có nhiều tình tiết bất ngờ, lôi cuốn và có cái nhìn hiện thực mới lạ: trong người tốt vẫn có những phần ích kỷ và trong người xấu vẫn có những phần rất nhân văn... Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Đã lâu lắm chúng tôi mới có dịp ngồi lại với nhau như thế này. Chúng tôi là những người lính, hay đúng hơn là năm thằng cựu chiến binh may mắn còn sống sót trong cả đội hình một trung đoàn vượt Trường Sơn năm xưa. Hòa bình được mười năm rồi, bây giờ ngồi nhìn nhau cứ thấy buồn buồn.Cuộc đời trôi nhanh quá! Cuộc chiến cũng lùi về quên lãng với tốc độ không chậm. Mới đó mà đầu tóc đã có sợi bạc, sợi đen, đã đùm đề vợ con, đã bị cái khó của đời thường làm cho đạo mạo, làm cho nói năng trễ nải đi nhiều. Đứa nào cũng đã bước qua vạch tuổi 40 rồi. Thằng làm giám đốc, thằng làm thày giáo, thằng làm ngoại giao và có cả thằng mất sức sớm, về nhà kỳ cạch ngồi sửa xe máy cho thiên hạ kiếm sống. Tất nhiên có cả thằng đến nay vẫ còn đeo đuổi binh nghiệp mà đôi quân hàm cũng rất khiên tốn nếu đem so với những gì cậu ta đã trải qua, đã cống hiến. Thế mà đã có một thời cả năm đứa chỉ làm độc một nghề, nghĩ cùng một hướng, mang trên mặt cùng một màu da sốt rét và chỉ duy nhất một niềm hy vọng mỏng manh: còn sống mà trở về. Có lẽ khác với một số đông người khác, họ không thích nhắc lại quá khứ, không thích kể lại những tháng ngày gian khổ đã qua với một lý do nghe chừng có vẻ biện chứng: cái gì qua cho nó qua, nhớ lại làm gì, cho nhọc lòng, cuộc sống đã chẳng quá nhọc nhằn rồi sao! Đành là thế nhưng chúng tôi cứ thích tạo một thứ thành lũy cho cảm hứng hoài cổ thánh thiện của mình. Lâu lâu tụ bạn bè, chúng tôi vẫn cứ thích lôi chuyện cũ ra kể, kể chân thành, kể say sưa mà có lẽ chẳng có đề tài nào có khác khiến chúng tôi có thể đạt được độ nhiệt tâm cao như thế. Rất đơn giản: bởi lẽ chúng tôi chỉ còn lại năm người trong đội hình trai trẻ một ngàn năm trăm người; bởi lẽ, người lính không nhớ lại chuỗi ngày làm lính của mình thì còn nhớ cái gì khác nữa, và cuối cùng cũng có thể vì, bây giờ tuy mỗi đứa một hoàn cảnh, một số phận khác nhau nhưng đều ý thức rất rõ rằng: đoạn đời ở rừng cầm cây súng chắc chắn sẽ là đoạn đời đẹp nhất. Điều này được thể hiện mạnh đến nỗi, anh bạn trung đội phó công binh ngồi cạnh tôi, nay là giám đốc hay tổng giám đốc gì đó của một xí nghiệp lớn ở phía Nam, phải chân thành thốt lên: - Chao! Giá mà được sống lại một ngày của cái thời ấy....Một cái bồng, một cái võng, một khẩu súng. Tất cả chỉ có thế, bước nhẹ tênh trong cuộc đời, chẳng bận bịu, chẳng lo toan và ngay cả cái chết cũng không làm lòng bớt thanh thản... Tất nhiên đó là nghĩ ngợi của riêng cậu ấy nhưng dù sao, câu nói không đượm chút giả tạo đó đã dồn đuổi đầu óc tất cả chúng tôi cùng trôi ngược về phía sau, nơi thấp thoáng những cánh rừng ẩm thấp và những đồng bưng nhòe nhoẹt ánh hỏa châu kẻ thù... - Buồn cười nhỉ! Khi oánh nhau, bọn mình có nghĩ ngợi xa xôi gì lắm đâu mà bây giờ ngồi ngẫm lại cứ bật ra đủ thứ này nọ. Thì ra người ta nói đúng: chiến tranh ít triết lý nhất nhưng chiến tranh cũng chứa đựng nhiều triết lý nhất. Người bạn nhà giáo, vốn trước đây làm đại đội trưởng bộ binh ở một vùng rất ác liệt mào đầu với cái giọng khá khúc triết. Chúng tôi gật đầu. Nghe đâu anh bạn này gần đây có viết một vài lý luận về văn học chiến tranh sang tiếng Việt được dư luận chú ý. Trong những buổi gặp gỡ, cậu ta bao giờ cũng tìm được những câu nói thú vị để đưa đà cho một đêm tâm tình cựu chiến binh như vậy. Và để đối lập với khẩu khí thâm trầm ấy, bao giờ cũng vẫn là giọng nói bỗ bã của Tịnh, anh bạn chữa xe máy kiêm bán rượu chui ở một thị trấn buồn tênh ngoại thành Hà Nội. Tịnh vẫn giữ được cái phong độ ngang ngang, hơi bề trên của một người tiểu đoàn trưởng hào hoa và can đảm mười lăm năm về trước, khi ấy anh là thủ trưởng của tất cả bọn chúng tôi, một thủ trưởng nghiêm khắc và khó gần. Tịnh lôi từ túi áo lông ra một chai lít đựng thứ nước đùng đục: - Mỗi đứa uống một ly rồi hẵng triết lý các chú! Rượu chính tay tao cất đấy. Toàn nếp thôi. Nếp cũng do chính tay tao trồng. Chôn xuống chân giường hai năm nay, giờ mới moi lên để nhậu lai rai với các chiến hữu. Rót đi! Để một phút nhớ lại ba cái xị đế trước kia. Đế đắng bỏ mẹ, nhạt phèo, lại chỉ toàn uống với lá giang, lá lộc vừng khé cổ nhưng zô hết sức. Nào, nâng ly! Nâng ly mừng cho những thằng còn sống và mừng cho những thằng đã chết. - Chết mà mừng gì anh Hai? – Tôi rụt rè đế vào. - Xét đến cùng là mừng. Còn sống, giờ này cũng cực lắm. Chết khỏe re. Tao nghiệm ra, thằng người đã chót có một thời trần thân trận mạc rồi thì sống đời thường nó cứ thế nào ấy. Vướng víu, ngứa ngáy và nặng đầu bỏ mẹ. Các chú thấy sao? Có lẽ ở đây không ai mếch lòng với lối xưng hô suồng sã của Tịnh, một anh bán hàng nước ở ngã tư đường, kể cả Hoàng, anh viên chức cao cấp đã đáp máy bay ra chỉ để gặp nhau tối nay. Tịnh cứ phải thế mới là Tịnh, tối nay chúng tôi dừng sống khác đi mới đúng là chúng tôi. Rượu uống vào cứ như không nhưng uống đến đâu, người nóng phừng phừng đến đó tưởng như tất cả tế bào thân thể muốn giãn ra, nở bung trong sự giao cảm tột cùng với những vùng sâu thẳm nhất của thần kinh tâm lý. Chúng tôi nói đến đủ thứ chuyện, ôn lại vài kỷ niệm, dăm ba trận đánh, nhắc nhở đến mấy thằng bạn chết vì B52, vì biệt kích Mỹ phục giữa rừng; đến thời tiết khí hậu của một vùng sông, một vùng đất; đến vị đắng của mìn Klêmo, vị ngọt của măng tầm vông, của trái khổ qua nhấm nháp trong đêm chờ vượt lộ...Nói đến nhiều lắm. Có chuyện hình như đã nói rồi, hôm nay nói lại vẫn thật mới, thật bồi hồi. Người này nói nhiều, người kia nói ít, có người không nói chỉ ngồi nghe. Nói bằng đủ thứ giọng. Giọng trầm lắng có, giọng sôi nổi có, lại có cả những câu văng tục đốp chát mà nghe vẫn cứ thấy đó là câu chuyện, là tâm tư của mình. Nhà ngoại giao hôm nay nói lại mười lăm lần hút chết hôm xưa để rồi bồng bột kết luận với cái cách không giống tính cách ngoại giao chút nào: “Con người ta ở đâu cũng chịu sự an bài của số phận. Sống, chết, giàu nghèo, sướng khổ đã định sẵn khi anh sinh ra đời, có gồng lên cũng chẳng thay đổi được gì, chỉ bể đầu sứt trán. Đấy như tớ - anh nói – Ngày xưa vốn nổi tiếng là một tay trinh sát nói năng bán trời không văn tự, ai ngờ hết chiến tranh lại húc vào nghề này, mà lại húc được”. “Thì cũng như tớ - ông Tổng giám đốc hùa theo – Ngày xưa đánh giặc rát như cáy, cứ nghe mùi B52 là nước đái chảy trong quần, xểnh ra là tìm cách chuồn về phía sau, vậy mà bây giờ... có khi có số thật. Cái may, cái họa nó cứ lù lù ập đến, chả đứa nào biết trước được mà tu rèn, mà chuẩn bị. Thì cứ như cái ông Tịnh này này...” Cậu ta dừng lại. Tư duy của một nhà quản lý kinh doanh cao cấp đủ tinh nhạy để giữ cậu ta không đẩy tiếp luồng ngôn ngữ buông thả đến trót câu, mặc dù Tình đã há mồm cười thật to để đón trước câu nói bạn bè đó. Duy chỉ có một người, tôi để ý từ đầu đến giờ chỉ cười không nói. Đó là Thắng. Thiếu tá Thắng, vừa ở tiền đồn Hà Tuyên về chiều nay, có thể nói từ đầu tóc, mặt mũi đến bộ quân phục mặc trên người còn sặc mùi biên ải gió sương. Thắng ngồi im lặng rót thêm rượu cho người này, đưa cái tăm cho người kia, rút thuốc châm lửa cho người kia nữa. Thỉnh thoảng lại xuống bếp giúp bà chủ nhà, vợ tôi, mang lên một đĩa xào, đĩa nấu gì đó. Thắng ngồi đấy, hiền hậu như một đứa em gái, lại bao dung như một bà chị cả tốt tính. Trong bất cứ cuộc rượu nhỏ, to nào; trong cái đám người thích nói, tranh nhau nói, nói không cần ai nghe hoặc buộc tất cả phải nghe, một tính cách hiền hậu, chu đáo như thế là rất cần. Chỉ có đôi mắt có vẻ ít ngủ của Thắng là hiện rõ vẻ yêu thương, quý trọng bạn bè đến ủy mị. - Thôi, vất mẹ nói chuyện số phận đi! - Tịnh bẻ một miếng bánh đa nghe cái rắc. – Bây giờ chuyển làn sang nói về đàn bà. Đàn bà thời chiến đàng hoàng chứ không phải thứ đàn bà vớ vẩn chung chung đâu. Tớ sống ở chiến trường lâu hơn các chú, va chạm với họ nhiều hơn các chú, tớ có quyền nói rằng: Chả có cái gì khổ bằng làm một người đàn bà trong trận mạc. Khổ kinh khủng. Và sức chịu đựng cũng kinh khủng. Tớ mê họ và kính trọng họ sát đất. À...Mà cái đó cũng lại là số phận rồi còn quái gì. Hở? Tít mù nó lại vòng quanh... Tịnh cười vang. Tiếng cười đầy sức lây lan. - Phải chăng vì thế mà ông Tịnh dám vác hẳn một cô gái Lái Thiêu ra xứ lạnh này làm vợ mà không sợ cô ta chê nghèo, chê khổ bỏ đi. Ông này khôn! Nghĩ cái gì ra cái đó. Nếu không bị vết thương ở đầu năm 1970 làm cho cụt ngẵng đường quan lộ thì lúc này ông đâu có thèm ngồi ở đây – Nhà bình luận văn học nhận định, không giấu nổi một chút tâng bốc chân thành. - Ở địa bàn tam giác sắt của tớ có một cô xã đội trưởng thân hình dềnh dàng như đàn ông, vào trận cũng thét lác như đàn ông, nhưng đêm mò về hầm lại úp mặt xuống võng khóc một mình. Dạo ấy... - Cái hồi Mậu Thân, chính tay tớ chôn cất một cô du kích nằm chết giữa rừng đã lâu ngày. Cũng là cái chết nhưng xác đàn ông trông đỡ hơn, còn xác đàn bà...Thịt da vẫn trắng, tóc xõa ra vẫn đen nhánh. Tội lắm! Nhất là... - Mình lại có kỷ niệm với một cô giao liên ở đường 14 biên giới, chẳng hiểu tại sao thỉnh thoảng lại lăn đùng ra, sùi cả bọt mép. Một lần kia... - Còn tớ... - Theo mình thì... Lại tranh nhau nói...Những đoạn hồi ức được bùng nổ bất thần, đan chéo vào nhau, khi nặng nề, lúc dí dỏm, lúc đằm xuống thành im lặng. Chính trong cái khoảnh khắc im lặng đa thanh đó. Tịnh đã buộc được Thắng phải lên tiếng. Thoạt đầu Tịnh cười cười: - Thôi chứ! Cứ cả vú lấp miệng em mãi. Cũng phải để cho thằng Thắng nó nói một câu gì chứ. Sáng mai chúng mình nghỉ, nó lại phải lặn lội lên trên đó rồi! - Nhất trí nhưng – Nhà quản lý kinh tế nói - Tớ tin chắc thằng Thắng sẽ không bao giờ nói về thế giới đó. Hận thù truyền kiếp thì có. Mang hình ảnh cô người yêu ở nhà đi suốt các cánh rừng, khi trở về cô ta đã có con với người khác. Đàn bà... Điểm chốt là nhà. Thôi, tha cho nó. - Không....không đến nỗi thế đâu - Thắng đột ngột lên tiếng bác bỏ với cái cười ngượng nghịu – Các anh chỉ hay nói quá! Tôi...thực ra tôi cũng có biết một người phụ nữ, một người chị... Cuộc đời chị ấy... Nhưng mà dài lắm! Tôi lại không biết cách kể... - Không sao! Cứ nói đi! Nói đại đi! Đêm nay giành cho cậu. Cậu hoàn toàn có quyền được sử dụng phần thời gian còn lại của hội cựu chiến binh đêm nay. Mạnh dạn lên! Chú lính! Hầu như tất cả chúng tôi đều nhất loạt lên tiếng giục Thắng như thế. Không phải vì để lấp đầy khoảng trống, cũng chẳng phải do tò mò muốn được nghe một câu chuyện lạ - còn cái gì là lạ nữa khi chúng tôi đã đi hết tuổi trẻ của mình trong chết chóc – Mà có lẽ bạn bè muốn được nghe Thắng nói, Thắng tâm sự một cái gì đấy. Giữa năm thằng, Thắng là đứa trẻ nhất và có lẽ cuộc đời cũng trắc trở, lận đận nhất, lận đận đến tận hôm nay. Chúng tôi muốn san sẻ với Thắng tất cả, muốn Thắng ngày mai lên đường có thể mang theo được chút ít hơi ấm của tình bạn chân thành đêm nay. Chúng tôi muốn được nghe Thắng nói. Và Thắng đã nói. Nói nhỏ nhẹ, nói vấp váp, thỉnh thoảng lại quên, lại ngừng, lại ho khan. Những điều Thắng nói không sáo rỗng, không một chi tiết giả trá. Thắng nói như rút ruột của mình ra phơi bày trước mặt bạn vè. Và, rất không ý thức, chúng tôi ngồi nghe mà trời sáng khi nào chẳng hay... Hôm nay, Thắng không còn nữa, anh đã hy sinh ngay sau tháng thứ hai khi tạm biệt chúng tôi. Nhớ bạn, thương bạn, bốn đứa còn lại bảo tôi xin nghỉ phép năm mà chép lại những điều Thắng kể. Chép tỉ mỉ, đừng để sót, đừng bịa đặt, mà cũng đừng tránh né sự thật trần trụi, kẻo Thắng nó oán. Họ nhủ tôi thế. Và tôi đã cố gắng làm đúng như thế. Dưới đây là tất cả những lời của Thắng kể về người đàn bà ấy, gần như hoàn toàn nguyên văn, tôi chỉ làm cái động tác sắp xếp điều chỉnh một chút cho rõ ý, rõ nghĩa.   Mời các bạn đón đọc Sông Xa của tác giả Chu Lai.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Đứa Trẻ Vừa Chạy Trốn Khỏi Tôi Tập 1 - Nguyễn Nga
Đó không phải là gia đình. Nơi mỗi ngày nhân vật "Tôi" cùng anh chị chạy trốn những cơn say rượu điên cuồng của cha. Thói bắt nạt "đàn anh" của những đứa trẻ ngày càng tàn nhẫn. Nhân vật “Tôi” đối mặt với đói, cô đơn, tổn thương và cái chết…khi cô bé chỉ mới 10 tuổi. *** Nguyễn Nga hiện là nhà văn, biên kịch, blogger sống và làm việc tại TP.HCM. Đọc những mẩu chuyện cực ngắn nhưng ý nghĩa, thú vị về tình yêu-hôn nhân-gia đình, cuộc sống trên instagram của cô ấy. INSTAGRAM:https://www.instagram.com/vietlach/ Đọc miễn phí truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và bài viết chia sẻ kinh nghiệm viết cũng như hướng dẫn SEO sách, ebook tại blog cá nhân của cô ấy. BLOG:http://vietlachvn.com/ Lưu ý: Tất cả tác phẩm, bài viết của Nguyễn Nga tuy là miễn phí nhưng mong quý bạn đọc tôn trọng quyền tác giả. Chỉ sử dụng với mục đích cá nhân, việc chia sẻ lại nên ghi rõ nguồn của tác giả. Mời các bạn đón đọc Một Đứa Trẻ Vừa Chạy Trốn Khỏi Tôi Tập 1 của tác giả Nguyễn Nga.
35 Ki Lô Hy Vọng - Anna Gavalda
Grégoire ghét trường học, ghét đến nỗi mới lớp sáu, nó đã phải ở lại lớp đến hai lần. Thế nhưng nó lại có một biệt tài: chế tạo và sửa chữa những đồ lặt vặt. Nơi duy nhất mà nó thực sự thích, góc trú ẩn của nó, đó là căn lều nhỏ ở góc vườn của ông Léon, bởi ông là người duy nhất lắng nghe nó, hiểu nó, và chia sẻ niềm đam mê với nó. Tuy vậy khi Grégoire bị đuổi khỏi trường, ông Léon đã vô cùng tức giận. Lần này, ông từ chối an ủi thằng cháu nhỏ và cũng chẳng còn che chở cho nó nữa. Tình yêu của người ông ẩn giấu sau thái độ lạnh nhạt ấy giúp Grégoire dần hiểu ra đã đến lúc nó phải lớn lên và tự đi tìm con đường cho chính mình bằng lòng dũng cảm và niềm hy vọng... 35 ki lô hy vọng là cuốn sách thứ tư của Anna Gavalda sau Giá đâu đó có người đợi tôi, Bố đã từng yêu vàChỉ cần có nhau được xuất bản tại Việt Nam. Đây cũng là cuốn sách đầu tiên của bà dành cho các bạn trẻ. Một cuốn sách tâm tình và xúc động, ở đó vấn đề được đặt ra là học cách sống và tìm thấy vị trí của mình. Một cuốn sách tràn ngập tinh thần lạc quan, tình yêu và hy vọng - có lẽ không chỉ 35 ki lô! *** Anna Gavalda sinh ngày 9-12-1970 tại Boulogne-Billancourt. Cô đã theo học và nhận bằng cử nhân văn chương tại Đại học Sorbonne. Hiện nay cô đang làm ở tạp chí Elle. Ngoài ra Gavalda còn viết thời luận cho tạp chí Paris-Ile-de-France của Journal du Dimanche và giảng dạy tiếng Pháp… Anna Gavalda là một giáo viên người Pháp và tiểu thuyết gia từng đoạt giải thưởng. Được tạp chí Voici gọi là "hậu duệ xa xôi của Dorothy Parker", Anna Gavalda sinh ra ở một vùng ngoại ô thượng lưu của Paris. Sau “Giá đâu đó có người đợi tôi”, “Bố đã từng yêu”, “Chỉ cần có nhau”, “35 kilô hy vọng"… Anna Gavalda đã trở thành cái tên quen thuộc trên văn đàn Pháp với hơn 4 triệu bản sách bán ra. Mời các bạn đón đọc 35 Ki Lô Hy Vọng của tác giả Anna Gavalda.
Chim Én Liệng Trời Cao - Ma Văn Kháng
Trên văn đàn Việt Nam, có lẽ hiếm tác giả có sức viết dẻo dai, bền bỉ như nhà văn Ma Văn Kháng. Sau gần ba mươi tác phẩm ở nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, tản văn…; mới đây, ở tuổi ngoài 80, nhà văn Ma Văn Kháng cho ra mắt tiểu thuyết Chim én liệng trời cao - tác phẩm gần 400 trang sách phát triển từ truyện ngắn Chim én do ông khởi bút gần nửa thế kỷ trước. Bút danh Ma Văn Kháng khiến nhiều độc giả tưởng rằng đây là nhà văn miền núi, người dân tộc thiểu số, chứ ít ai nghĩ ông là nhà văn Hà Nội gốc, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ra tại làng Kim Liên, quận Đống Đa, một ngôi làng cổ của Hà Nội. Ông từng là giáo viên dạy văn và hiệu trưởng một trường cấp ba tại tỉnh Lào Cai. Hơn 20 năm tuổi trẻ gắn bó với vùng đất này, dường như cuộc sống, văn hóa của người dân vùng núi rừng Tây Bắc đã trở nên máu thịt trong ông. Ông từng chia sẻ: “Linh giác đây là vùng đất, vùng thẩm mỹ đầy bí ẩn đã mê hoặc tôi ngay từ khi tôi vừa đặt chân lên mảnh đất Lào Cai, vùng địa đầu của Tổ quốc. Gọi linh giác có lẽ là chính xác vì lúc đó tôi 18 tuổi, vậy mà lại đinh ninh rằng ở vùng đất này, mình sẽ làm được cái gì đó để lập thân, lập nghiệp và có ích cho đời, thế có lạ không?”. Chim én liệng trời cao là khúc ca đẹp, hùng tráng về cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp của người dân vùng núi rừng Tây Bắc khoảng thời gian cuối những năm 40, đầu những năm 50 của thế kỷ trước. Bối cảnh câu chuyện diễn ra tại địa bàn Cam Đồng, một xã gồm bốn thôn người Tày và một thôn U Sung trên núi cao thuần người Dao. Cuộc chiến đấu đầy gian khổ, sự trưởng thành của người dân về tư tưởng và tinh thần đấu tranh cách mạng thể hiện xuyên suốt qua nhân vật Tiển. Từ một cậu bé ở bản quê Cam Đồng hằng ngày ngồi trên lưng trâu, ngắm “bầy chim én cất tiếng rộn vang trên bầu trời sớm mai”, thổi sáo trúc bài “Chim én liệng trời cao”, Tiển sớm gia nhập vào hàng ngũ những người làm cách mạng, trở thành chiến sĩ liên lạc và trưởng thành cùng sự phát triển của cách mạng trên mảnh đất quê hương. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Chim Én Liệng Trời Cao Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Chim Én Liệng Trời Cao của tác giả Ma Văn Kháng.
Ván Bài An Ủi - Anna Gavalda
Cuộc sống ở tuổi 47 của Charles, một nghề kiến trúc sư, tưởng chừng sẽ bình lặng trôi đi. Nhưng một ngày kia, anh gần như suy sụp và bơ vơ khi được tin mẹ một người bạn thời ấu thơ qua đời. Suốt một năm sống trong đau buồn, lên đường tìm kiếm, day dứt giữa quá khứ và hiện tại, anh đã mang lại cho chính mình đầy ắp những bất ngờ. Một tình bạn ngỡ như tan vỡ được hàn gắn, những đứa trẻ mồ côi được đoàn tụ, những người chết được trở về và một tình yêu lớn nảy nở. Tất cả thấm đẫm cảm xúc và mỗi câu chuyện, mỗi sự việc đều toát lên hơi ấm của tình yêu, bởi “chúng ta còn lại gì nếu chúng ta không nói với nhau về tình yêu hay về điều mà mình thích”? *** Lời khen tặng dành cho Ván bài an ủi “Một cuốn tiểu thuyết thật lạ, thật buồn.” - Le Figaro “Bạn mong văn chương mang đến cho bạn những cơn thác cảm xúc? Xóa nhòa đời sống thường nhật của bạn? Khiến bạn bất ngờ khóc òa? Bạn sẽ có tất cả trong Ván an ủi của Anna Gavalda.” - Tạp chí Psychologies “Một câu chuyện đẹp và cảm động về những con người luôn gắn bó với nhau bất chấp mọi thương tổn và phức tạp.” - critiqueslibres.com "Cuốn tiểu thuyết rườm rà, điên rồ và đầy ắp những khám phá.” - Le Monde “Anna Gavalda lại một lần nữa tạo ra những điều kỳ diệu.” - Tạp chí Lire *** Anna Gavalda sinh ngày 9-12-1970 tại Boulogne-Billancourt. Cô đã theo học và nhận bằng cử nhân văn chương tại Đại học Sorbonne. Hiện nay cô đang làm ở tạp chí Elle. Ngoài ra Gavalda còn viết thời luận cho tạp chí Paris-Ile-de-France của Journal du Dimanche và giảng dạy tiếng Pháp… Anna Gavalda là một giáo viên người Pháp và tiểu thuyết gia từng đoạt giải thưởng. Được tạp chí Voici gọi là "hậu duệ xa xôi của Dorothy Parker", Anna Gavalda sinh ra ở một vùng ngoại ô thượng lưu của Paris. Sau “Giá đâu đó có người đợi tôi”, “Bố đã từng yêu”, “Chỉ cần có nhau”, “35 kilô hy vọng"… Anna Gavalda đã trở thành cái tên quen thuộc trên văn đàn Pháp với hơn 4 triệu bản sách bán ra. Mời các bạn đón đọc Ván Bài An Ủi của tác giả Anna Gavalda.