Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Làm Người Chịu

Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Mấy bữa rày nhựt báo ở Sài Gòn rập nhau mà khen ngợi rạp hát Casino hát tuồng “Les Miserables”[1] hay lắm. Nàng Lý Tố Nga ưa coi hát bộ, chứ ít ham coi hát bóng, nhưng vì nàng ở nhà cứ đọc truyện hoài rồi cũng buồn, mà lại thấy nhựt báo khen quá, nên tối lại nàng rửa mặt, gỡ đầu, thay quần, đổi áo, tính đi coi hát bóng một bữa mà chơi. Nàng bước vô rạp hát thấy có người ta ngồi rải rác các hạng ước chừng năm sáu chục người. Nàng lựa hàng ghế trống rồi phăng phăng đi lại ngồi cái ghế đầu, đặng vãn hát đi ra cho dễ. Nàng Tố Nga mình mặc một cái áo tố đen phía trong lót màu bông hường lợt, dưới bận một cái quần lục trắng chơn mang một đôi giày nhung đen. Tuy tay có đeo một bộ cà rá hột xoàn, tai có đeo một đôi bông hột xoàn, và cổ cũng có đeo một sợi dây chuyền cũng nhận hột xoàn, song sự trang sức của nàng coi cũng tầm thường, chớ không có vẻ chưng diện chi hết. Chẳng hiểu vì cớ nào lúc nàng mới đi vô thì người ta lại chong mắt, day đầu lại mà ngó nàng, rồi chừng nàng kiếm chỗ ngồi yên, người ta lại cũng cứ ngó nàng hoài nữa. Có lẽ nàng thấy người ta ngó thì nàng e lệ, nên nàng lột cái khăn màu hột gà xuống mà bỏ trong lòng, rồi với tay lấy tờ chương trình hát bóng cầm mà coi. Cách chẳng bao lâu có hai người đàn bà đi vô, rồi xăm xăm lại hàng ghế của Tố Nga mà ngồi, người nhỏ chừng mười bảy mười tám tuổi, thì ngồi một bên Tố Nga, còn người lớn, tóc đã bạc hoa râm thì ngồi kế đó nữa. Tố Nga liếc mắt ngó người trẻ tuổi, mà người ấy cũng liếc mắt ngó nàng hai người ngó nhau rồi cười nhưng vì không quen với nhau, nên không chào hỏi chi hết. Hai người mới vô đó vừa ngồi yên chỗ, thì người trẻ tuổi nói với người kia rằng: “Mình ngồi hàng ghế nầy có gần một chút. Chớ chi mình vô sớm, mình mua giấy ngồi phía sau dễ coi hơn?” Người kia đáp nhỏ rằng: “Ngồi đây cũng được. Phía sau có Tây nhiều, khó lòng.” Tố Nga nghe người nhỏ kêu người lớn bằng dì, thì biết không phải là mẹ con. Nàng coi kỹ thấy người lớn mặc áo xuyến đen, quần lãnh đen tay đeo một chiếc huyền, mang một đôi dõn.[2]Người ấy trắng trẻo, mập mạp, tuy tóc đã điểm bạc mà da mặt còn chưa dùn. Còn người nhỏ mặc áo màu nguyệt bạch, quần lãnh đen, đầu choàng khăn lục trắng có thêu bìa, chơn mang giày thêu kim tuyến, tai đeo bông hột xoàn, cổ đeo một sợi dây chuyền nhỏ có nhận ba hột xoàn lớn tay trái đeo một chiếc cẩm thạch, tay mặt đeo một chiếc huyền[3] cẩn. Người dong dảy, không mập không ốm nhưng cườm tay no tròn, ngón tay suông đuột, bàn tay dịu nhiễu, da mặt không dồi phấn mà trắng trong, môi không thoa son mà ửng đỏ, răng nhỏ rức lại trong ngần, mắt hiền lương lại sáng rỡ. Tố Nga thấy người dung nhan thiệt là đẹp đẽ, muốn làm quen đặng hỏi thăm coi người ở đâu, song nàng chưa kiếm được chước mà làm quen, thì lại nghe rung chuông sửa soạn hát. Đèn trong rạp tắt hết, rồi nghe phía ngoài cửa máy quay lạch xạch. Chẳng bao lâu khởi sự coi hát. Người lớn ai cũng ngồi im lìm chống mắt mà coi, duy có sấp con nít la ó rồi lại vỗ tay vang rân. Tố Nga mắc coi, nên cái khăn rớt xuống đất nàng không hay. Người con gái ngồi một bên đó dòm thấy lật đật cúi xuống lượm giùm, rồi đưa cho nàng. Tố Nga cười và nói: “Cám ơn cô.” Tiếng nghe ngọt xớt. Hai người đều có ý muốn làm quen với nhau, lại cũng muốn thừa dịp ấy mà nói, ngặt vì bóng đương chớp, đèn còn tắt, liệu thế nói nhiều không tiện, nên làm lơ mà coi hát. Bóng chớp đến lúc nàng Fantine khốn khổ, phải cắt tóc nhổ răng mà bán đặng lấy tiền trả cho người lãnh nuôi con mình thì hai nàng đều cảm xúc nên ứa nước mắt một lượt. Thình lình hết lớp, họ vặn đèn khí bực lên sáng lòa. Hai nàng người nào cặp mắt cũng ướt rượt, người nào cũng sợ hổ thẹn, nên đồng thò tay vào túi móc khăn nhỏ ra mà lau nước mắt. Tố Nga thấy nàng ngồi một bên đó cũng lạc lõng như mình, thì nàng hết ái ngại nữa, nên nàng day qua má nói rằng: “Tuồng nầy hát coi động lòng quá cô há.” Nàng ấy liền chúm chím cười và đáp rằng: “Nãy giờ tôi khóc ngay. Tôi thấy người đàn bà mà bị khốn khổ quá như vậy tôi chịu không được. Tôi hay mủi lòng lắm, nên tôi ít muốn đi coi hát.” Tố Nga nghe mấy lời thật thà ấy rất hiệp với ý nàng nên nàng nói tiếp rằng: - Tôi cũng vậy. Tôi coi hát hễ tới mấy khúc người ngay mà bị hoạn nạn, thì tôi chảy nước mắt. Hổm nay tôi thấy nhựt báo khen tuồng nầy hay lắm, nên nữa nay tôi đi coi thử, té ra tuồng hay thiệt. - Tôi cũng vậy.Tại tôi thấy nhựt báo khen quá, nên tôi mới xin dì tôi dắt tôi đi coi đây. - Nhà cô ở đâu? - Tôi ở trong Chợ Lớn. - Dì đây là dì ruột của cô hay là dì sao? - Dì ruột tôi. Chị ruột của má tôi. Còn cô ở Sài Gòn hay là ở lục tỉnh lên chơi? - Tôi ở Sài Gòn. Tôi người gốc Trà Vinh, mới mua nhà về ở trên nầy chừng vài năm nay. - Thầy đổi về làm việc ở trên nầy hay sao? - Không. Ở nhà tôi làm việc Tòa án dưới Mỹ Tho. Vì thằng em tôi nó còn học trường Chasseloup, mà tôi muốn gần gũi nó, nên mới mua nhà mà ở trên nầy. - Thầy làm việc dưới Mỹ, sao cô lại ở trên nầy? Tố Nga nghe hỏi câu đó, thì nàng cúi mặt bộ coi buồn xo, song nàng gượng mà đáp rằng: - Vì tôi còn có một mình má tôi, nên tôi phải ở hủ hỉ với má tôi cho vui…Cô có chồng hay chưa? Chuyến nầy tới nàng mặc áo màu nguyệt bạch ấy nghe hỏi như vậy, có sắc hổ thẹn, nên cũng cúi mặt xuống và đáp nhỏ rằng: - Chưa. - Hai bác còn mạnh giỏi hết há? - Tía má tôi đều khuất hết. - Nếu vậy thì bây giờ cô ở với dì đây phải hôn? - Phải. - Cô năm nay được mấy tuổi? - Tôi mười bảy tuổi. - Té ra cô nhỏ hơn tôi ba tuổi. Hai nàng mới nói chuyện tới đó, kế họ tắt đèn hát tiếp nên phải nín thinh để coi hát. Từ đó về sau hễ hết chớp thì hai nàng nói chuyện với nhau, lúc thì luận về tuồng hát, lúc thì hỏi việc gia đình, tuy mới gặp một lần đầu, mà câu chuyện có hơi dan díu, chẳng khác nào như đã quen biết lâu rồi vậy. Gần mười một giờ rưỡi mới vãn hát. Tố Nga khuyên dì cháu nàng ở Chợ Lớn đó ngồi nán đợi họ ra bớt rồi mình sẽ ra sau, cho dễ. Khi đứng dậy đi ra Tố Nga mới nói với hai dì cháu rằng: “Về Chợ Lớn đường vắng quá, tôi sợ đi xe kéo không tiện.” Người lớn tuổi đáp rằng: “Dám đi xe kéo đâu. Để ra ngoài kiếm xe mui mướn đi.” Ra tới cửa rồi, Tố Nga từ giã, bèn nói với người con gái rằng: “Nhà tôi ở đường Thuận Kiều, số 112; tôi mời cô với dì bữa nào có dịp ra ngoài nầy ban ngày thì ghé nhà tôi chơi.” Nàng ấy cúi đầu và đáp rằng: “Cám ơn cô, để khi nào có dịp tôi sẽ ra thăm cô. Còn cô có vô Chợ Lớn chơi, tôi cũng xin cô ghé nhà tôi uống nước. Tôi ở đường Cây Mai, số 82.” Hai nàng cúi đầu chào nhau rồi lên xe kéo mà đi. Tố Nga về dọc đường, trong trí nàng thầm khen nàng ấy hoài, không biết nàng là con của ai mà dung nhan đẹp đẽ văn nói có duyên, tướng đi tướng đứng dịu dàng, cách ngó cách cười đằm thắm, thuở nay chưa gặp một nàng nào ngôn dung được vậy. Nàng nầy là con gái của ông Bang Siêu, tên nàng là Thái Cẩm Vân năm nay được 17 tuổi rồi mà chưa có chồng. Ông Bang Siêu từ Triều Châu ở bên Tàu qua Việt Nam hồi 22 tuổi. Ông buôn bán làm ăn khá lần rồi mới lập một tiệm trà tại đường Gia Long. Ông cưới một người vợ Việt Nam ở phía dưới Cần Giuộc, cách ít năm mới sanh nàng Cẩm Vân. Ông buôn bán ngày càng thêm khá. Vả ông là người chơn chất ngay thẳng bởi vậy người một nước đều tin cậy ông, nên có một năm nọ đều hiệp nhau mà cử ông làm Ban Trưởng. Khi Cẩm Vân được 9 tuổi, ông Bang Siêu để tiệm trà cho vợ coi, đặng ông về Tàu mà thăm tổ quán. Ai cũng tưởng ông về Tàu ít tháng rồi ông trở qua, nào dè ông đi mới có một tháng rưỡi thì có thơ bên Tàu gởi qua nói ông chết. Vợ ông Bang Siêu lấy làm bối rối, phần thì tiệm lớn mua bán bạc muôn, phần thì bà không biết chữ Tàu, bà không xem sổ sách được. Bà sợ tài phú gian lận, bởi vậy bà sang tiệm cho người khác, lấy ba muôn rưỡi đồng bạc bà mua năm căn phố sầu tại đường Cây mai, giá hai muôn tám còn bảy ngàn bà để làm vốn mà nuôi con. Bà dọn ở căn đầu, còn lại bốn căn bà cho mướn, mỗi tháng góp tiền phố được vài trăm đồng. Qua năm sau bà cho Cẩm Vân vào nhà trắng[4] Chợ Lớn mà học, Cẩm Vân sẳn khiếu thông minh, lại nhờ tánh cần cố, nên nàng mới học 5 năm đã biết nói tiếng Tây, biết viết chữ Tây đủ dùng, mà nàng lại biết thêu thùa và may vá khéo lắm. Nàng tính học luôn cho đến 20 tuổi mới thôi chẳng dè khi nàng mới được 15 tuổi, mẹ nàng tỵ trần nhà cửa không ai coi bởi vậy nàng phải thôi học đặng về nhà mà cai quản sự nghiệp. Nàng không có bà con đông: bên nội thì có vài người chú họ mà thôi, chớ không có bà con ruột; còn bên ngoại thì có một người dì, chồng chết không có con, ở dưới Rạch Kiến chớ không còn ai nữa. Vả Cẩm Vân là con khách Triều Châu nhưng vì cha chết hồi nàng còn nhỏ dại, rồi từ ấy về sau ở nhà thì gần gũi với mẹ Việt Nam, vô trường thì bầu bạn với con gái Việt Nam, nàng tập tánh nết lễ nghĩa theo con người Việt Nam bởi vậy nếu ai không rõ cội rễ của nàng thì chẳng bao giờ mà nghi nàng là con khách trú. Khi mẹ nàng khuất rồi nàng liệu ở một mình không tiện, nên năn nỉ với dì, là cô ba Hài, về ở với nàng. Cô ba Hài cũng có vốn năm bảy trăm, chớ không phải nghèo cực gì, nhưng vì bà không chồng, không con, ở một mình quạnh hiu, lại thấy cháu còn nhỏ dại không lỡ không bảo bọc nó, bởi vậy bà mới bán nhà về ở Cẩm Vân. Cẩm Vân cư tang báo hiếu cho mẹ thiệt là chính chắn. Trọn hai năm nàng xẩn bẩn ở trong nhà mà hủ hỉ với dì chẳng khi nào nàng ló ra đường, họ khen hát Quảng đông hay nàng làm lơ mà họ đồn lễ Khổng Tử lớn nàng cũng không kể. Nàng mới mãn tang mẹ được vài tháng mà đã có hai người mái chính[5] với một người con ông Bang cậy mai nói mà cưới nàng. Trong ba chỗ ấy nàng không ưng chỗ nào hết. Hai người chú một họ đến khuyên lơn nàng hết sức, mà nàng cũng không chịu. Họ giận họ rầy và hỏi vì cớ nào mà mấy chỗ đều giàu có xứng đáng mà nàng lại chê hết thảy, thì nàng nói rằng, nàng còn nhỏ, nên chưa muốn lấy chồng, chớ nàng không nói duyên cớ nào khác. Bữa nay nàng đọc nhựt báo thấy có lời khen rạp hát Casino ngoài Sài Gòn hát tuồng mới hay lắm nàng mời dì đi coi thử nên nàng mới gặp nàng Tố Nga mà làm quen đó. Còn nàng Tố Nga là con bà Tổng Hiền, gốc ở Láng Thé, thuộc tỉnh Trà Vinh. Không ai biết ông Tổng Hiền sanh đẻ tại xứ nào. Theo lời mấy ông già bà cả nói tại, thì lúc Hiền còn trai tráng anh ta đến Láng Thé kiếm chỗ làm ăn. Anh ta vào ở đợ với cựu Hương cả Khoan. Hương cả Khoan có chừng vài chục mẫu ruộng mà thôi, chớ không giàu chi lắm.Vợ ông chết sớm, để lại cho ông một đứa con gái tên là Thị Lài. Lúc ông mướn tên Hiền ở thì Thị Lài được 21 tuổi rồi mà chưa có chồng. Tuy Hiền nghèo đi ở đợ, nhưng mà anh ta biết chữ nho chút ít, bộ tướng mạnh dạn, văn nói khôn lanh, mặt mày sáng láng. Anh ta ở được có ít tháng thì đã tư tình với con gái ông chủ nhà, Hương cả Khoan sợ làm rầy ra càng thêm xấu hổ, bởi vậy gả phứt Thị Lài cho tên Hiền, đặng trong khỏi oán thù, ngoài khỏi dị nghị. Hiền là tay khôn ngoan, khi Hương cả Khoan chết rồi, anh ta kế nghiệp thì anh ta tung hoành, quyết dùng gia tài chút đỉnh của cha vợ để lại đó mà làm một sự nghiệp lớn ở trong tỉnh Trà Vinh. Anh ta nghĩ nếu không có quyền thế thì khó mà làm giàu được. Anh ta mới ra làm làng, ban đầu làm Hương hào, xã trưởng, lần lần mò lên chức Hương quản Hương sư. Anh ta dùng cái quyền Hương chức mà hung hiếp lường gạt những Thổ dân khờ khạo ở trong làng, nhờ làm như vậy nên làm tương chức trong mười năm thì ruộng đất đã tăng số lên tới một trăm mẫu. Anh ta tại gặp dịp may, lúc ấy trong tổng khuyết chức Phó Tổng. Anh ta ra tranh cử, nhờ trong nhà có tiền, hể nói đâu người ta nghe đó bởi vậy cho nên lo có một tháng, tốn có một ngàn đồng, mà được làm thầy Phó. Anh ta làm Phó Tổng không có quyền hành gì bao nhiêu, nhưng mà anh ta là người thấy xa, nên không lấy sự đó làm buồn nghĩ vì ông Cai Tổng đã già rồi nếu mình biết nhẫn nhịn trong một ít năm thì cái quyền cai Tổng không lọt khỏi tay mình được. Thiệt quả ông Hiền làm phó Tổng mới ba năm, kế Cai Tổng qua đời, ông ta được cấp bằng làm Cai Tổng. Quyền thế đã sẵn rồi, oai nghi lập thêm không khó gì, ông Hiền mới dùng quyền thế, lập oai nghi mà sửa trị dân làng trong tổng. Cách ông sửa trị khác hơn người ta hết thảy; ông sửa là sửa bộ điền bộ địa; ông trị là trị thổ tá canh chớ không phải ông sửa tục xấu thói hèn, không phải ông trị côn đồ cướp đản như một hai ông Cai Tổng khác. Ông sửa trị có mấy năm mà ruộng đất của dân Thổ mười phần đã sang tên ông đứng bộ hết bảy tám phần. Ông Tổng Hiền có hai đứa con: đứa con gái lớn tên là Lý Tố Nga, đứa con trai nhỏ tên là Lý Chánh Tâm. Tuy ông làm quan ông ít thương dân, nhưng ông làm cha thì ông thương con nhiều lắm. Đứa con gái ông cho lên Nữ học đường mà học, còn đứa con trai thì ông gởi nhà người quen đặng đi học trường tỉnh Trà Vinh. Tố Nga học tới 16 tuổi, có bằng sơ học rồi ông mới đem về tính gả lấy chồng. Cách ba năm trước ông xin phép đi Sài Gòn hầu Toà Phúc Án về vụ ông kiện giành 120 mẫu đất với tên Thạch Gồng. Khi ông về đến nhà thì khí sắc ông hân hoan lắm. Ông nói cho vợ con hay rằng, ông đã đặng kiện rồi, mà ông đã hứa gả Tố Nga cho con trai ông Cai Tổng Hỉ ở Mỹ Tho, chàng ấy tên là Lê Phùng Xuân, đương làm thông ngôn Toà Phúc Án trên Sài Gòn. Mời các bạn đón đọc Kẻ Làm Người Chịu của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam)
Những Câu Chuyện Cũ Về Một Vùng Đất MớiÐồng bằng sông Cửu Long là một vùng lương thực chủ yếu của miền Nam. Việc khai thác những tiềm năng phong phú của vùng đất mới này bắt buộc mọi người phải ra sức tìm hiểu nó một cách cặn kẽ. Càng đi sâu tìm hiểu những đặc điểm về lịch sử, về địa lý, về xã hội và đặc biệt là về con người miền Nam, người ta càng thấy việc tìm hiểu này không chỉ là cần thiết, không thể thiếu được mà còn bổ ích và đầy hứng thú đối với các nhà khoa học, các nhà văn hoá và nghệ thuật. Trong bước đầu tìm hiểu, không ít người đã tìm đọc lại Sơn Nam, đặc biệt là cuốn lịch sử khẩn hoang miền Nam và cuốn Ðồng bằng sông Cửu Long hay là Văn minh Miệt Vườn. Những cuốn sách và những bài báo của Sơn Nam đã giúp người ta đi trở lại những ngày đầu khai phá tìm hiểu những điều kiện thiên nhiên và xã hội của cuộc sống trong vùng, có khi cách nay nhiều thế kỷ, về cách thức làm ăn và sinh sống của con người những thời kỳ ấy. Sơn Nam kể"truyện đời xưa" nhưng không phải theo kiểu viết sử thông thường. Nói là Lịch sử... nhưng không viết theo niên biểu, anh viết đọc như thể anh có gì thì nói nấy, cần thì nói không cần thì thôi, không nhứt thiết phải đủ lễ bộ, chương hồi cho đầy đủ, cân đối. Ðối với người mới tìm hiểu, chưa có thì giờ vào thư viện lục tài liệu xưa, đọc sách Sơn Nam, thấy rất bổ ích. Thật vậy, sách anh viết, tài liệu vừa đủ để nêu được vấn đề, không nhiều quá làm người đọc phải mệt mà không cần thiết, mà cũng không ít quá để không nắm được gì, viết vui gọn, ngưòi đọc như được thưởng thức một bữa cơm bình dân, trông đạm bạc mà ngon miệng. Trong đống tài liệu cũ nằm bắt bụi trong những kho lưu trữ, anh tìm ra, chép lại không phải tất cả, mà gạn lọc lấy những cái cần thiết, những cái thiên hạ chưa biết hoặc ít biết, thành ra những cái vốn đã cũ mà vẫn thấy mới là vậy. Tìm mua: 26 Truyện Ngắn Sơn Nam TiKi Lazada Shopee Nhưng Sơn Nam không chỉ có những trang khảo luận mà còn có nhiều truyện ngắn, mà một tuyển tập được nhiều người biết đến, có cái tên khá tiêu biểu: Hương Rừng Cà Mau. Cà Mau vùng đất cuối cùng của Tổ Quốc, được kể lại vào cái thời kỳ mà phần lớn diện tích của nó còn là rừng với đủ thú dữ và hiểm nguy nhưng lại đầy hương sắc vì con người miền Nam đã tới đó sinh cơ lập nghiệp. Về người nông dân miền Nam, đặc biệt là miền Tây, từ Hà Tiên tới mũi Càm Mau, tức là miền đất được khai phá sau cùng. Vì đi tới đây sau cùng, những người khai phá này đã tới những vùng khỉ ho cò gáy nhứt, trước họ không ai thèm làm. Rừng sâu, nước độc, rắn rết hùm beo. Nhưng không thể lùi được vì không còn đất sống nữa người ta mới phải lang bạt tới đây. Muốn tồn tại, muốn sống sót được trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn như vậy, con người phải có một sức mạnh tinh thần đáng kể. Không được sự giúp đỡ nào của chính quyền lúc bấy giờ mà còn bị áp bức bóc lột nặng nề, những người phải rời bỏ quê quán tới xứ này phải sớm biết đùm bọc lấy nhau. Sức mạnh tinh thần đó không bắt nguồn từ kinh sách của thánh hiền vì phần lớn những người đi khẩn hoang đều thất học. Ðó là những giá trị tinh thần của dân tộc mà người ta mang từ nơi chôn nhau cắt rún tới đây và được phát triển lên trong hoàn cảnh đấu tranh mới, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống lại thiên nhiên còn thù địch với con ngưòi và chống lại những thế lực áp bức bóc lột cũng thù địch với con người không kém. Giá trị tinh thần nổi bật trong cuộc đấu tranh này là tình nghĩa giai cấp của những người nghèo, bắt buộc phải xa xứ mà tới đây, cùng nhau lập quê hương mới, nơi ca dao còn ghi lại: Cà Mau khỉ khọt trên bưng, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um. Hoặc: Tới đây xứ sở lạ lùng, Chim kêu cũng sợ, cá vùng cũng ghê. Trong cảnh ngộ đó, con người sống bằng gì? Bằng cái Nghĩa! Ngày xưa, ở xứ này, thường nói! Sống phải điệu nghệ! Theo Sơn Nam, điệu nghê là đạo nghĩa, nói trại ra. Rừng của Sơn Nam có hương là vì vậy. Tình nghĩa giữa con người ở đây không có xuất xứ trong cái cộng đồng làng xã, cái"tâm lý làng" như có người gọi, mà nó rộng hơn, nó sinh sôi nẩy nở từ trong vùng đất mới, khẩn hoang lập ấp, trong đấu tranh khắc phục ngoại cảnh thù địch, chống áp bức bóc lột, nên nó vẫn giữ được cái chân chất thật thà của người lao động gần thiên nhiên mà lại không tủn mủn hẹp hòi. Ðây là một nét đặc biệt nữa mà ca dao còn ghi được: Dấn mình vô chốn chông gai, Kề lưng cõng bạn ra ngoài thoát thân. Lao xao sóng bủa dưới lùm, Thò tay vớt bạn chết chìm cũng ưng. Cái tình nghĩa bốn phương bè bạn này rất sâu đậm, nó thể hiện trong ca dao, trong các làn điệu dân ca và về sau, chúng được gặp lại nó trong Lục Vân Tiên, giữa Vân Tiên và các bạn, giữa Vân Tiên với Tiểu đồng... Cái tình bạn này đi lièn với cái nghĩa "giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha", mà chúng ta cũng thấy rõ trong truyện Vân Tiên. Từ trước tới nay, truyện ngắn của Sơn Nam được biết nhiều nhất là qua tập Hương Rừng Cà Mau. Sự thật, Sơn Nam còn viết rất nhiều truyện ngắn đăng rải rác trên các báo Sài Gòn trong một thời gian dài hàng chục năm chưa được sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu. Ðối với các bạn trẻ hôm nay, truyện"xưa" của Sơn Nam làm sống lại cảnh đời của cha ông đi khai phá thời trước, sống lại cái không khí hoang sơ mà hào hứng của buổi ban đầu lập nghiệp, theo dõi cách sống mộc mạc mà"điệu nghệ" của ông cha. Ðối với bạn đọc ở kháp các nơi, những trang khảo cứu và những truyện ngắn của Sơn Nam là những chìa khoá mở cửa vào tâm hồn của người Việt ở miền Nam. Trên tinh thần đó, chúng tôi chọn để giới thiệu với bạn đọc thêm 26 truyện ngắn của Sơn Nam, trước đây đăng rải rác trên các báo ở Sài Gòn. Những tên truyện được đưa vào tập này, tự nó đủ giới thiệu nội dung: Chuyện Rừng Tràm, Nhứt Phá Sơn Lâm, Con rắn ri voi, Cái ổ ong, Con sấu cuối cùng, Ðơn Hùng Tín chào đời... Như đã nói trên, truyện của Sơn Nam, cũ mà mới. Nói những chuyện cũ của một vùng đất mới, một vùng đất mà khó ai dám nói, kể cả những người sanh trưởng tại chỗ, là đã thật hiểu biết đầy đủ. Mong rằng những truyện ngắn này sẽ góp thêm hiểu biết về miền đất thân yêu của chúng ta.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Sơn Nam":Cá Tính Của Miền NamHồi Ký Sơn Nam Toàn TậpLịch Sử Khẩn Hoang Miền NamSài Gòn Xưa, Ấn Tượng 300 Năm Và Tiếp Cận Với Đồng Bằng Sông Cửu LongĐi Và Ghi NhớCon Sấu Cuối Cùng26 Truyện Ngắn Sơn NamBiển Cỏ Miền Tây Hình Bóng CũChuyện Xưa Tích CũTuyển Tập Truyện Ngắn Sơn NamLễ Hội Dân Gian Miền NamNgười Bạn Triệu PhúVạch Một Chân Trời, Chim Quyên Xuống ĐấtĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 26 Truyện Ngắn Sơn Nam PDF của tác giả Sơn Nam nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
13 Lý Do Tại Sao (Jay Asher)
Từ trường trở về nhà, Clay Jesen phát hiện một bưu kiện kỳ lạ đề tên mình nằm trước hiên nhà. Bên trong cậu phát hiện những cuộn băng cassette ghi âm giọng nói của Hannah Baker - bạn học cùng lớp và là cô gái Clay thầm mến. Hannah đã tự sát hai tuần trước đó. Hannah giải thích rằng có mười ba lý do khiến cô ấy quyết định chấm dứt cuộc sống của mình. Clay là một trong những lý do đó. Nếu cậu ấy nghe những cuốn băng, cậu ấy sẽ hiểu vì sao. Clay đã trải qua cả một đêm đi khắp thị trấn theo chỉ dẫn của Hannah. Cậu trở thành người đầu tiên chứng kiến nỗi đau của Hannah và khám phá được một sự thật về bản thân mình - một sự thật mà cậu không bao giờ muốn đối diện…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 13 Lý Do Tại Sao PDF của tác giả Jay Asher nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
12 Kỳ Án Trung Hoa (Huyền Cơ)
Với chiều dài lịch sử hơn 5000 năm, các triều đại phong kiến Trung Hoa xưa kia chắc chắn phải đối mặt với muôn vàn vụ án khó khăn, tế nhị và không ít vụ án phán đoán sai lệch, làm cho nhiều người khác bị hàm oan, bởi thiếu rất nhiều lý luận khoa học như ngày nay. Tuy nhiên, cũng không ít các phán quan công minh sáng suốt xuất hiện, giúp cho người dân giải được hàm oan. Nổi bật nhất trong các phán quan là Bao Chửng, được dân gian biết đến qua tên Bao Công ở đời Bắc Tống. Sau đó đến thời Nam Tống, một phán quan khác còn nhiều công lao hơn đó là Tống Từ, không những lấy việc giải oan cho người dân làm niềm đam mê mà còn có tinh thần rất tiến bộ, lấy pháp y học ra làm chứng cứ kết tội hoặc giải oan. Trong khi Tây phương mãi đến thập niên 17, 18 mới có hai nhà nghiên cứu pháp y học người Italia đứng ra phổ biến thì Tống Từ đã biết đến phương pháp khoa học từ hơn 450 năm trước. Sau khi Tống Từ qua đời vào 1247, tức là vào thập niên thứ 13, ông để lại cuốn "Tẩy oan lục" rất có giá trị, giúp những phán quan đời sau có thêm tư liệu để hoàn thiện phương pháp để xử án.. Trải qua mấy trăm năm nữa, hệ thống dùng Pháp Y học làm chứng cứ xét án đã được phát triển rất mạnh và lên tới tột đỉnh vào các đời nhà Minh, Thanh với rất nhiều phán quan sáng suốt chẳng kém Bao CôngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 12 Kỳ Án Trung Hoa PDF của tác giả Huyền Cơ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
12 Kỳ Án Trung Hoa (Huyền Cơ)
Với chiều dài lịch sử hơn 5000 năm, các triều đại phong kiến Trung Hoa xưa kia chắc chắn phải đối mặt với muôn vàn vụ án khó khăn, tế nhị và không ít vụ án phán đoán sai lệch, làm cho nhiều người khác bị hàm oan, bởi thiếu rất nhiều lý luận khoa học như ngày nay. Tuy nhiên, cũng không ít các phán quan công minh sáng suốt xuất hiện, giúp cho người dân giải được hàm oan. Nổi bật nhất trong các phán quan là Bao Chửng, được dân gian biết đến qua tên Bao Công ở đời Bắc Tống. Sau đó đến thời Nam Tống, một phán quan khác còn nhiều công lao hơn đó là Tống Từ, không những lấy việc giải oan cho người dân làm niềm đam mê mà còn có tinh thần rất tiến bộ, lấy pháp y học ra làm chứng cứ kết tội hoặc giải oan. Trong khi Tây phương mãi đến thập niên 17, 18 mới có hai nhà nghiên cứu pháp y học người Italia đứng ra phổ biến thì Tống Từ đã biết đến phương pháp khoa học từ hơn 450 năm trước. Sau khi Tống Từ qua đời vào 1247, tức là vào thập niên thứ 13, ông để lại cuốn "Tẩy oan lục" rất có giá trị, giúp những phán quan đời sau có thêm tư liệu để hoàn thiện phương pháp để xử án.. Trải qua mấy trăm năm nữa, hệ thống dùng Pháp Y học làm chứng cứ xét án đã được phát triển rất mạnh và lên tới tột đỉnh vào các đời nhà Minh, Thanh với rất nhiều phán quan sáng suốt chẳng kém Bao CôngĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook 12 Kỳ Án Trung Hoa PDF của tác giả Huyền Cơ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.