Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Quận Chúa Nổi Loạn - Alexandre Dumas

Nếu như bạn đã từng đọc Ba người lính ngự lâm, 20 nǎm sau và Cái chết của ba người lính ngự lâm - những tác phẩm đồ sộ, tiêu biểu đã hầu như bộc lộ hết tài nǎng của Alexandre Dumas thì đến với Những quận chúa nổi loạn của ông, các bạn sẽ được thấy một thế giới đầy màu sắc với những tính cách tiêu biểu của phụ nữ : ghen tuông, tò mò, cay độc nhưng cũng đầy nữ tính.  Những tình tiết gay cấn, những diễn biến bất ngờ của một mối tình tay ba cay nghiệt, éo le giữa nữ tử tước De Cambes, tiểu thư Nanon với một chàng nam tước hào hoa, đa tình mà dũng cảm đã lôi cuốn người đọc kể từ trang đầu tiên cho tới trang cuối cùng của cuốn sách. Xin mời các bạn đón đọc Những quận chúa nổi loạn để một lần nữa chiêm nghiệm tài nǎng của một bậc lão sư phù thuỷ chế tạo tình tiết - Alexandre Dumas.  *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Trên đường đến Libourne. một thành phố nhộn nhịp soi mình bên dòng sông nước chảy xiết của con sông Dordogne. giữa hai làng Fronsac và Saint Michel la Riviere. trước kia có một ngôi làng xinh xắn với những bức tường trắng và những mái ngói đỏ. nằm khuất quá nửa dưới hàng cây bạch phong. và dẻ gai. Con đường từ Libourne đến Saint André de Cubzac chạy qua giữa những ngôi nhà nằm thẳng hàng đối diện với nhau. và là những quang cảnh duy nhất của ngôi làng đó. Đằng sau các ngôi nhà ấy. cách độ khoảng một trăm bước chân. là dòng sông đang uốn khúc với chiều rộng và độ chảy xiết báo hiệu rằng biển đang kề cận. Những cuộc nội chiến đã đi ngang qua đấy: Thoạt đầu nó đã xô ngã cây cối. sau đó đuổi dân cư ra khỏi nhà của họ. và những ngôi nhà này. nằm phơi mình trước những cơn cuồng phong thịnh nộ và vì không thể bỏ chạy như cư dân của mình. nên từ từ xụp đổ trên đám cỏ dại. biểu lộ sự phản kháng theo cách riêng của chúng trước cảnh tàn phá của những cuộc nội chiến. rồi dần dần đất như được tạo ra để chôn vùi tất cả đã phủ lên những xác nhà xưa kia từng là nơi vui vẻ và nhộn nhịp. cuối cùng cỏ mọc lên trên tất cả mặt đất giả tạo kia. và ngày nay. người lữ khách rong ruổi trên con đường cô quạnh sẽ không bao giờ ngờ được - khi trông thấy những đàn gia súc đông đảo như vẫn thường thấy Ở vùng Mi di. đang gặm cỏ trên những khoảng đất lồi lõm - rằng mục đồng và đàn chiên kia đang dẫm trên một bãi tha ma nơi an nghỉ của cả một ngôi nhà. Nhưng. vào thời mà chúng ta đang nói đến. nghĩa là khoảng tháng 5 năm 1650. đấy là một ngôi làng với vùng thảo mộc sung túc. khách lạ đi ngang qua sẽ cảm thấy ưa thích những nông dân đang bận rộn tháo cột ngựa khỏi lưỡi cày. những người dân chài đang kéo lưới bên bờ sông. nặng trĩu những con cá trắng. hồng của dòng sông Dordogne. và những người thợ rèn đang mệt nhọc gõ mạnh xuống đe trong lò rèn sáng lên từng hồi bởi những đám tàn lửa bắn ra từ cây búa. Thế những điều có thể làm cho người khách thích thú hơn cả, nhất là khi đường dài mang đến cho những kẻ vốn thích rong ruổi cái đói muôn thuở. thì sẽ là cách ngôi làng ấy khoảng năm trăm bước chân. một ngôi nhà thấp và dài. chỉ gồm một tầng trệt và một tầng lầu. mà những đám khói tỏa ra từ ống khói và mùi xào nấu bay ra từ các cửa sổ. cho biết rõ hơn một tấm tôn đỏ vẽ hình cái đầu bê vàng chóe treo lơ lửng trước tầng lầu rằng người khách. cuối cùng đã đến được một nơi nghỉ chân. Tại sao lữ quán Con Bê Vàng lại Ở cách làng. theo như người ta kể lại với tôi. năm trăm bước chân thay vì nằm kề với những ngôi nhà xinh xắn khác dọc theo hai bên đường? Trước hết. dù lạc lõng giữa một nơi hẻo lánh như thế. vị chủ nhân. về mặt nấu nướng. là một nghệ sĩ bậc thầy. Thế nhưng. nếu ông ta đến cư ngụ hẳn trong làng. ông ta có thể sẽ bị lẫn lộn với vài tên chủ quán hạng bét mà nếu bị buộc phải nhìn nhận đó là những đồng nghiệp. ông ta vẫn không thể nào chấp nhận họ như những tay ngang hàng. vì thế khi tách riêng ra ông ta sẽ lôi kéo sự chú ý của những kẻ sành điệu và những người này sau một lần được thưởng thức tài nghệ của ông. sẽ kháo với nhau rằng: Khi nào bạn đi từ Libourne đến Saint André Cubzac hoặc từ Saint André Cubzac đến Libourne. đừng quên ghé lại ăn sáng. ăn trưa hoặc ăn tối tại quán Con Bê Vàng cách làng Matifou khoảng năm trăm bước chân. Và thế là những kẻ sành điệu ghé lại. hài lòng ra về. gởi đến những tay sành điệu khác. cứ như thế. ông chủ quán khôn ngoan dần dần góp được một gia tài. và điều này không ngăn cản ông ta. một chuyện hiếm hoi. vẫn giữ cao giá trị ẩm thực của mình. chứng tỏ rằng. như chúng ta đã nói. Biscarros là một nghệ sĩ thực thụ. Và vào một buổi chiều tháng 5 ấm áp. khi thiên nhiên đã bừng dậy Ở vùng Mi di cũng như đã bắt đầu bừng dậy Ở Miền Bắc. những làn khói dày đặc và những hương vị thơm ngon hơn những ngày bình thường tỏa ra từ các ống khói và các cửa sổ của lữ quán Con Bê Vàng. trong khi đó nơi bậc thềm. đích thân mét Biscarros. mặc toàn trắng như thông lệ của các thầy tế thần của mọi thời đại và mọi đất nước. đang dùng đôi bàn tay cao quý của mình vặt lông mấy con chim cút và đa đa dành riêng cho một trong những bữa tiệc sang trọng mà ông ta biết rành cách tổ chức và có thói quen. luôn luôn là do tình yêu của ông ta đối với môn nghệ thuật ấy. tự tay mình chăm chút đến mọi chi tiêu. Ngày đã gần tàn. dòng sông Dordogne nơi một đoạn quanh co khúc khuỷu vẫn thường thấy trên suốt khoảng đường của nó. tách ra khỏi con đường khoảng lộ độ một phần tư dặm để băng qua dưới chân đồi lũy Vayres. đã bắt đầu trắng xóa dưới những tàn lá sẫm tối. Ĩ nh mịch và u ám trải dài trên cánh đồng cùng với cơn gió nhẹ của chiều tối. những người nông dân trở về nhà cạnh mấy con ngựa đã tháo cày. những người dân chài với mớ lưới còn nhiều nước. những tiếng động trong làng đang tắt dần và sau tiếng búa cuối cùng báo hiệu một ngày làm việc đã chấm dứt. tiếng hót đầu tiến của chim họa mi bắt đầu vang lên từ một bụi cây gần đó. Sau những nốt nhạc đầu tiến thoát ra từ cổ họng của nhạc sĩ tí hon. mét Biscarros cũng bắt đầu hát theo. và hậu quả của sự tranh chấp đó cộng với sự chăm chú làm việc của ông chủ quán khiến ông ta chẳng nhận thấy một nhóm sáu kỵ sĩ vừa mới xuất hiện nơi đầu làng Matifou và đang tiến về phía lữ quán. Nhưng một tiếng kêu hoảng hốt vang lên từ một cửa sổ tầng trên. và tiếng cánh cửa sổ đóng sập lại vội vàng khiến cho người chủ quán nổi tiếng nghệch mũi nhìn lên và thế là ông thấy ngay người kỵ sĩ đi đầu nhóm đang tiến thẳng về phía ông. Tiến thẳng không phải từ chính xác cho lắm. chúng tôi xin được sửa lại. bởi vì người đó cứ khoảng hai mươi bước lại dừng lại. ném ra hai bên những ánh mắt dò xét. xúc xạo các thân cây, đường mòn. và bụi rậm. một tay giữ trên đầu những cây súng dài để sẵn sàng tấn công cũng như tự vệ và thỉnh thoảng lại ra hiệu cho các bạn đồng hành lập lại y hệt mọi cử động của y. từ từ tiến đến. Kế đó. y lại dấn lên thêm vài bước nữa với cùng động tác dè dặt như trước. Bicarros đưa mắt nhìn theo người kỵ sĩ. mà cung cách khác thường làm cho ông ta chú ý đến nỗi suốt khoảng thời gian đó. ông ta cứ giữ khư khư túm lông đang nắm giữa những ngón tay cái và ngón trỏ. - Chắc là một ngài đang muốn tìm quán của mình đây - Biscarros tự nhủ - Tôn ông này có lẽ bị cận thị. tấm biển Con Bê Vàng của mình mới được sơn lại và trông nổi bật hẳn lên kia mà. Nào. ta chường mặt ra thôi. Và mét Biscarros đến đứng ngay giữa đường. vẫn không ngừng vặt lông con vật với những động tác đầy quan trọng và uy nghiêm. Cử chỉ ấy đạt ngay kết quả mà lão chờ đợi. vừa trông thấy ông ta. người kỵ sĩ liền tiến thẳng đến và lịch sự giở nón chào: - Xin lỗi mét Biscarros - Người đó nói - ông có thấy từ hướng nào một nhóm chiến sĩ bạn tôi có thể đang tìm tôi không? Chiến sĩ. nói vậy cũng hơi quá. những người có mang gươm thì đúng hơn. nói cho chính xác là những người có vũ trang. nói như vậy đúng với ý nghĩ của tôi hơn. ông có thấy một nhóm người có vũ trang không? ... Mời các bạn đón đọc Những Quận Chúa Nổi Loạn của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cuộc Chiến Bí Mật Chống Hà Nội - Richard H. Shultz Jr
Cuộc  chiến tranh Việt Nam - theo cách gọi của người  Mỹ - đã lùi xa hơn một phần tư thế kỷ, nhưng thất bại của Mỹ và những hậu quả kèm theo - được khái quát bằng cụm từ " Hội chứng Việt Nam" - vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi. Câu hỏi: Tại sao V iệt Nam? Vẫn còn đó và tiếp tục thách thức các nhà nghiên cứu Mỹ tìm ra câu trả lời thoả đáng. Cuốn sách " Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội" xuất bản năm 1999, của nhà nghiên cứu Mỹ, giáo sư  Richard H. Shultz Jr mà các bạn đang có trong tay là một trong những nỗ lực giải đáp câu hỏi đó: Như tên gọi, cuốn sách đề cập đến một khía cạnh rất đặc biệt và bí mật của cuộc chiến tranh. Nhưng khác với một số ít cuốn sách đã viết về đề tài này,  Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội không khai thác những yếu tố bí mật, đặc biệt để lôi kéo độc giả. Ngược lại, với các nguồn tài liệu tuyệt mật của CIA, Bộ Quốc phòng và Nhà Trắng mới được công bố, và đặc biệt là các cuộc phỏng vấn những người trực tiếp chỉ đạo, điều hành và thực hiện cuộc chiến tranh bí mật, cuốn sách đi sâu phân tích tư tưởng chỉ đạo, dựng lại quá trình hoạt động, phân tích các nguyên nhân thất bại và trên cơ sở đó rút ra những bài học cần thiết cho nước Mỹ. Có thể nói cuốn sách là một tổng kết khá đầy đủ của các nhà nghiên cứu Mỹ về các hoạt động bí mật chống phá miền Bắc trong cuộc chiến tranh  Việt Nam. Theo cuốn sách, từ năm 1951 đến 1972, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và CIA, Mỹ đã thành lập một tổ chức cực kỳ bí mật để tung gián điệp biệt kích ra miền Bắc, điều hành hoạt động tuyên truyền tâm lý chiến, tiến hành các hoạt động phá hoại trên biển và ngăn chặn đường mòn Hồ Chí Minh. Tác giả đã làm rõ vai trò của giới lãnh đạo cao cấp nhất ở Washington và những toan tính của họ trong quyết định tiến hành các hoạt động bí mật chống miền Bắc. Họ là Tổng thống Kenedy, Johnson và Nixon; là Bộ trưởng Quốc phòng Mc.Namara, Giám đốc Cục tình báo Trung ương Mỹ Colby, Cố vấn an ninh Tổng thống Bundy, Bộ trưởng Tư pháp Robert Kenedy và nhiều quan chức dân sự, quân sự cao cấp khác. Đồng thời, qua những trang sách, các phương thức hoạt động, kể cả những thủ đoạn "bẩn thỉu" mà Mỹ sử dụng trong hoạt động bí mật cũng được mô tả chi tiết. Mặc dù được tập trung chỉ đạo, sử dụng một số lượng lớn nguồn nhân lực và vật lực trong một thời gian dài, cuốn sách kết luận Mỹ đã thất bại. Hầu hết số gián điệp biệt kích tung ra Bắc đều bị bắt giữ hoặc tiêu diệt, chiến tranh tâm lý bị phá sản, con đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển vẫn tiếp tục hoạt động. Như cuốn sách thừa nhận, Việt Nam là đối thủ quá khó chơi đối với Mỹ. Tuy nhiên, thay vì tìm nguyên nhân thất bại trong sai lầm chiến lược của giới cầm quyền Mỹ như Mc.Namara đã từng chỉ ra, tác giả mới chỉ dừng lại ở những nguyên nhân về tổ chức, năng lực và phối hợp của phía Mỹ. Với những nội dung và cách đặt vấn đề trong cuốn sách, có thể thấy tác giả đã cố gắng có cách nhìn tương đối khách quan về cuộc chiến tranh bí mật của Mỹ ở Việt Nam. Mặc dù một số đánh giá nhận định của tác giả mang tính phiến diện một chiều, do đó còn có những hạn chế nhất định, cuốn sách đã góp phần làm sáng tỏ một khía cạnh còn ít được nghiên cứu của cuộc chiến tranh Việt Nam. Với mong muốn giúp bạn đọc quan tâm đến vấn đề này hiểu thêm cách nhìn nhận đánh giá từ phía học giả Mỹ và qua đó cảm nhận đầy đủ hơn về chiến thắng vĩ đại của chúng ta, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin xin trân trọng giới thiệu cuốn sách: Cuộc chiến tranh bí mật chống Hà Nội như một tài liệu để chúng ta cùng tham khảo. Mời các bạn đón đọc  Cuộc Chiến Bí Mật Chống Hà Nội của tác giả  Richard H. Shultz Jr.
Người Dịch Bệnh - Jhumpa Lahiri
Jhumpa Lahiri sinh tại London, cha mẹ cô là người Băng-gan. Cô lớn lên tại Rhode Island, Mỹ. Hiện cô sinh sống tại New York. Các Truyện ngắn của cô xuất hiện nhiều trên những tạp chí của Mỹ. Tập truyện “Người dịch bệnh”, tác phẩm in của cô giành giải thưởng Pulitzer năm 2000 cho thể loại truyện hư cấu, giải thưởng cuốn sách đầu tay hay nhất của New York và giải thưởng PEN/Hemingway.   Những câu chuyện tuyệt vời của Jhumpa Lahiri kể về cuộc sống của những người Ấn Độ tha hương, về những người đang loay hoay giữa những phong tục nghiêm ngặt mà họ thừa hưởng và một thế giới mới đầy trở ngại mà họ phải đối đầu hàng ngày. Dù bối cảnh ở Boston hay ở Băng-gan, những câu chuyện tràn đầy tính hài hước và những yếu tố huyền ảo này không chỉ gần gũi với người xa xứ mà còn gần gũi với rất nhiều đối tượng khác.   Bạn sẽ thấy tác phẩm của Jhumpa Lahiri gắn liền với mọi mặt thường gặp của cuộc sống và cách nhìn các chi tiết rất tinh tế, sắc bén là một điểm nổi bật của cô. Cô viết về một người hướng dẫn du lịch có trái tim nồng ấm trong “Người dịch bệnh”, về một đôi vợ chồng gắng hiểu nhau sau ngày cưới trong “Ngôi nhà được ban phước”, về một mối quan hệ tay ba, người đàn ông ích kỷ, vô tình trong “Gợi tình”. Dường như cô đã thổi vào mỗi trang sách một cuộc sông bất ngờ và người đọc khi kết thúc mỗi câu chuyện càng cảm thấy bị quyến rũ hơn, mong được đi cùng những nhân vật của nó đến tận cùng.   Mời các bạn đón đọc Người Dịch Bệnh của tác giả Jhumpa Lahiri.
Gió Đông, Gió Tây - Pearl S. Buck
Gió Đông, Gió Tây, East Wind: West Wind, là tiểu thuyết đầu tay của Pearl S. Buck, được xuất bản năm 1930. Tác phẩm mô tả Quế Lan, một phụ nữ Trung Quốc, và những thay đổi mà cô và gia đình đã trải qua. Gió Đông gió Tây là tác phẩm được Pearl Buck viết khi bà đã ngoài ba mươi tuổi và có những năm tháng dài hòa mình vào cuộc sống ở Trung Hoa. Như hầu hết các tác phẩm khác của nhà văn này, cuốn sách thể hiện sự giao thoa văn hóa rõ rệt , thậm chí ngay từ tiêu đề.  Vào bối cảnh lúc bấy giờ ,sự thông hiểu lẫn nhau giữa các nền văn minh vẫn là điều mờ mịt như màn đêm mù sương, chỉ thấp thoáng những hình thù không rõ nét và tràn ngập những bất đồng, thì Pearl Buck đã may mắn có được một vị thế thuận lợi để quan sát và tái hiện sự va chạm ấy. *** Quế Lan phải lấy chồng qua một cuộc hôn nhân sắp đặt, nhưng chồng của cô không phải là người như cô mong đợi. Họ ra ở riêng chứ không sống cùng cha mẹ chồng. Chồng Quế Lan là một bác sĩ, đi học ở phương Tây về và dường như không có cảm hứng với cô cho đến khi cô yêu cầu anh gỡ bỏ bó chân cho mình. Sau đó, họ có với nhau một con trai. Quế Lan có một người anh trai sống ở Mỹ được vài năm. Một ngày nọ, bạn của anh viết thư về cho gia đình anh, thông báo rằng anh đã cưới một phụ nữ Mỹ. Anh trai của Quế Lan và vợ là Mary trở về Trung Quốc để xem liệu họ có thể thuyết phục gia đình chấp nhận Mary hay không. Tuy nhiên gia đình không chấp nhận một con dâu ngoại quốc và bảo anh cho cô tiền rồi cho cô về Mỹ. Anh trai Quế Lan không theo lời. Một thời gian ngắn sau đó Mary mang thai đứa con trai đầu lòng. Đỉnh điểm của câu chuyện là lúc mẹ Quế Lan qua đời. Gia đình yêu cầu người anh trai phải buộc Mary trở về Mỹ và cưới cô gái gia đình đã chọn, nếu không anh sẽ bị tước thừa kế. Người anh trai từ chối, rời khỏi khu nhà của gia đình, sống tại một ngôi nhà gần nhà Quế Lan. Đứa trẻ được sinh ra, gắn kết bố mẹ cậu bé với nhau và cả hai nền văn hoá. Mời các bạn đón đọc Gió Đông, Gió Tây của tác giả Pearl S. Buck.
Đất Lành - Pearl S. Buck
Ra đời năm 1931, Đất lành mang đến cho độc giả một cái nhìn đầy tính hiện thực về những con người sống trong những vòng luẩn quẩn của xã hội Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XX, mà Vương Lung là một đại diện điển hình. Cũng giống như  tác phẩm Gió Đông, Gió Tây trước đó của bà, Pearl S. Buck một lần nữa đã thổi vào Đất lành sự hòa hợp Đông - Tây - vốn là một trong những thế mạnh của mình được đúc kết từ những năm tháng sống tại Mỹ và Trung Quốc - để từ đó khắc họa lên cuộc đời của Vương Lung từ kiếp nô lệ cho đến khi trở thành một điền chủ giàu có trong cái không gian đa diện mang đậm tính sử thi của một xã hội Trung Quốc trong những biến động dữ dội đầu thế kỉ XX. Không những tạo nên tên tuổi cho Pearl S. Buck trên khắp thế giới, Đất lành còn mang về cho bà giải Pulitzer danh giá vào năm 1931. Mời các bạn đón đọc Đất Lành của tác giả Pearl S. Buck.