Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dự đoán theo Tứ Trụ - Thiệu Vĩ Hoa - Trần Viên

Dự đoán theo Tứ Trụ của Thiệu Vĩ Hoa diễn giải một cách tỉ mĩ về việc dự đoán bận mệnh con người. Trong đó: Tứ Trụ còn gọi là Tử Bình hay Bát Tự là một loại thuật số căn cứ vào thiên can địa chi của giờ, ngày, tháng, năm, sinh, để luận ngũ hành hơn kém và theo khí hóa mà dự đoán vận mệnh con người.

Dự đoán theo Tứ Trụ của Thiệu Vĩ Hoa diễn giải một cách tỉ mĩ về việc dự đoán bận mệnh con người.

Trong đó:

Tứ Trụ còn gọi là Tử Bình hay Bát Tự là một loại thuật số căn cứ vào thiên can địa chi của giờ, ngày, tháng, năm, sinh, để luận ngũ hành hơn kém và theo khí hóa mà dự đoán vận mệnh con người.

Tương truyền, người đầu tiên phát minh ra Bát Tự là Lạc Lộc, sống vào thời Đường. Từ Cư Dịch và Đạo Hồng là hai nhân vật nổi tiếng nhất trong môn số thuật này. Cho đến nay, Tứ Trụ đã được hoàn thiện và trở thành môn học thường nghiệm phục vụ đắc lực cho cuộc sống hằng ngày.

Tương truyền, người đầu tiên phát minh ra Bát Tự là Lạc Lộc, sống vào thời Đường. Từ Cư Dịch và Đạo Hồng là hai nhân vật nổi tiếng nhất trong môn số thuật này. Cho đến nay, Tứ Trụ đã được hoàn thiện và trở thành môn học thường nghiệm phục vụ đắc lực cho cuộc sống hằng ngày.

Phàm là người, ai cũng có hai cái sợ, thứ nhất sợ bệnh tật, thứ hai sợ tai nạn. Người có bệnh đi mời thầy thuốc chữa, đó gọi là Y bệnh. Người muốn đề phòng tai họa, cần phải dự đoán mệnh vận để biết tai họa mà đề phòng, đó gọi là Y mệnh. Có bệnh không mời thầy thuốc chữa thì dễ chết; không biết được thông tin về tai họa thì có thể vì gặp phải những tai họa bất ngờ mà thiệt mạng. Do đó, thầy thuốc và nhà dự đoán học là y bệnh, y mệnh cứu người.

Tứ trụ dự đoán học là một nhánh khoa học dự đoán thông tin dựa trên cơ sở "Chu dịch". Chu dịch bát quái là khoa học dự đoán những thông tin không cố định của người và sự việc. Tứ trụ dự đoán là khoa học chuyên dự đoán những thông tin cố định của con người. Nó vẫn lấy sự biến hóa của âm dương làm nguyên lý, lấy ngũ hành sinh khắc chế hóa quy tắc, lấy thời điểm ra đời của người làm căn cứ để đoán mệnh vận. Nó là môn khoa học dạy người ta hướng về điều tốt, tránh xa cái xấu.

Cuốn sách Dự Đoán Theo Tứ Trụ này được chia làm hai phần, tất cả có hai mươi chương. Phần thứ nhất nói về lý luận ứng dụng cơ bản; phần thứ hai nói về ứng dụng các tiêu chí thông tin của tứ trụ và cách giải các ví dụ. Cuốn sách này được viết với các đặc điểm sau:

Sách được viết theo một hệ thống hoàn chỉnh và giản dị, dễ hiểu. Sách trình bày bắt đầu từ những kiến thức cơ sở, từ thấp đến cao, kết hợp lý luận với các ví dụ thực tế.

Đối với những vấn đề trong thực tiễn ứng dụng xưa nay đều tranh luận như: cách tra "sống dễ", bàn về "hàm trì" đều được bàn đến một cách tỉ mỉ trong sách.

Trong sách không những đã thu hút được những tinh túy của mệnh lí học cổ đại, những kinh nghiệm phong phú của thực tiễn dự đoán theo tứ trụ mà còn công bố những điều tâm huyết và thành quả trong nhiều năm nghiên cứu của tác giả. Ví dụ sự nghiên cứu về đồng bộ trong thông tin, bảng năm phối hôn của nam nữ...

Sách nhấn mạnh mặt ứng dụng, làm thay đổi thói quen các sách xưa nặng về lý luận. Sách đã căn cứ những thông tin có liên quan chứa trong tứ trụ, đem những thông tin có liên quan với mệnh vận mà mọi người đều muốn biết sắp xếp thành 11 chuyên đề, đầu mỗi chuyên đề đều nêu lên những tiêu chuẩn thông tin để đoán cát hung, sau đó mới lần lượt dự đoán riêng từng sự việc, có căn cứ lý luận, có cơ sở thực tiễn, có ví dụ, có phương pháp, có kết luận.

Trong những ví dụ thực tế, những người được đề cập đến có cán bộ cao cấp, có cán bộ bình thường; có trí thức cao cấp, có kỹ sư hoặc kỹ thuật viên; có người là dân thườn; có người giàu kẻ nghèo... Nội dung rất phong phú, diện kiến thức dự đoán được đề cập rất rộng, có thể vừa đọc, vừa học, thực sự là bộ sách giáo khoa để học về y mệnh.

Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn.

MUA SÁCH (TIKI)

MUA SÁCH (TIKI)

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Kinh Dịch: Những phương pháp tự dự đoán nhanh - Đông A Sáng
Hệ từ thượng truyện viết, Kinh Dịch có bốn đạo, thánh nhân thường dùng là: Khi nói năng, chúng ta theo lời từ (quái từ, hào từ) trong Kinh. Khi hành động, chúng ta tuân theo lẽ biến hóa trong Kinh. Khi chế tạo đồ dùng, chúng ta phỏng theo hình tượng trong Kinh. Khi bói toán, chúng ta theo nguyên lý bói phệ trong Kinh. Vậy, Kinh Dịch có 4 công dụng, công dụng quan trọng là bói phệ, để biết thời cơ, tránh xấu tìm tốt, tránh họa tìm phúc; gọi là dự đoán học. Hệ từ thượng truyện viết, Kinh Dịch có bốn đạo, thánh nhân thường dùng là: Khi nói năng, chúng ta theo lời từ (quái từ, hào từ) trong Kinh.Khi hành động, chúng ta tuân theo lẽ biến hóa trong Kinh. Khi chế tạo đồ dùng, chúng ta phỏng theo hình tượng trong Kinh. Khi bói toán, chúng ta theo nguyên lý bói phệ trong Kinh.Vậy, Kinh Dịch có 4 công dụng, công dụng quan trọng là bói phệ, để biết thời cơ, tránh xấu tìm tốt, tránh họa tìm phúc; gọi là dự đoán học. Hệ từ thượng viết: Người quân tử sắp làm việc gì, thì dùng bói phệ mà hỏi Dịch. Dịch nhận được mệnh bói phệ và trả lời nhanh như tiếng vang; không kể xa gần, sâu tối, Dịch cũng biết được cái gì sẽ xảy ra. Nếu Dịch không phải là cái gì rất tinh vi trong thiên hạ thì đâu có làm được như vậy? Kinh Dịch cũng khẳng định: Qua Bát quái (dự đoán) mà biết được tốt xấu (cát hung), thì sẽ làm nên nghiệp lớn (đại nghiệp). Có nhà nghiên cứu còn cho rằng, Kinh Dịch – Bát quái vốn bao la vạn tượng, không gì là không có ở trong đó, là kho thông tin vô tận của nhân loại; chúng ta sử dụng (để dự đoán) hoài không hết và không tốn kém tiền bạc, khác với những kho thông tin, những kênh, những phương tiện thông tin hiện đại khác! Hệ từ thượng viết: Người quân tử sắp làm việc gì, thì dùng bói phệ mà hỏi Dịch. Dịch nhận được mệnh bói phệ và trả lời nhanh như tiếng vang; không kể xa gần, sâu tối, Dịch cũng biết được cái gì sẽ xảy ra. Nếu Dịch không phải là cái gì rất tinh vi trong thiên hạ thì đâu có làm được như vậy?Kinh Dịch cũng khẳng định: Qua Bát quái (dự đoán) mà biết được tốt xấu (cát hung), thì sẽ làm nên nghiệp lớn (đại nghiệp).Có nhà nghiên cứu còn cho rằng, Kinh Dịch – Bát quái vốn bao la vạn tượng, không gì là không có ở trong đó, là kho thông tin vô tận của nhân loại; chúng ta sử dụng (để dự đoán) hoài không hết và không tốn kém tiền bạc, khác với những kho thông tin, những kênh, những phương tiện thông tin hiện đại khác!
Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư - Hi Di Trần Đoàn
Tử vi đẩu số toàn thư (1973) Tác giả: Hi Di Trần Đoàn Dịch giả: Vũ Tài Lục Tử vi đẩu số toàn thư (1973)Tác giả: Hi Di Trần ĐoànDịch giả: Vũ Tài Lục Cuốn sách này được làm thành, đại bộ phận dịch từ tập : Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh do La Hồng Tiên biên soạn, do nhà xuất bản Trúc Lâm An Thư Cục ấn hành tại Đài Loan. Phần bình chú qua tham khảo các sách Tử Vi Xiến Vi của Trương Huy Văn, Chiêm Tinh Thuật của Hoàng Tiểu Nga, Mệnh Lý Huyền Vi của Vô Nhai Cư Sĩ, Trích Thiên Tuỷ của Lưu Bá On, Mệnh Lý Giảng Nghĩa của Vi Thiên Lý, Hám Long Kinh của Dương Quân Tùng, Tạo Hoá Nguyên Thược của Nhiệm Thiết Tiều, Mệnh Lý Chính Tôn của Thần Phong Khảo, Uyên Hải Từ Bình của Từ Tử Bình, Quỷ Cốc Toán Mệnh Thuật … Phần phú nôm để đối chiếu, chúng tôi trích dẫn từ việc ghi chép công phu của Tử Vi Ao Bích của Việt Viêm Tử và Tử Vi Thực Hành của Dịch Lý Huyền Cơ. Cuốn sách này được làm thành, đại bộ phận dịch từ tập : Tử Vi đẩu số toàn thư của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh do La Hồng Tiên biên soạn, do nhà xuất bản Trúc Lâm An Thư Cục ấn hành tại Đài Loan. Phần bình chú qua tham khảo các sách Tử Vi Xiến Vi của Trương Huy Văn, Chiêm Tinh Thuật của Hoàng Tiểu Nga, Mệnh Lý Huyền Vi của Vô Nhai Cư Sĩ, Trích Thiên Tuỷ của Lưu Bá On, Mệnh Lý Giảng Nghĩa của Vi Thiên Lý, Hám Long Kinh của Dương Quân Tùng, Tạo Hoá Nguyên Thược của Nhiệm Thiết Tiều, Mệnh Lý Chính Tôn của Thần Phong Khảo, Uyên Hải Từ Bình của Từ Tử Bình, Quỷ Cốc Toán Mệnh Thuật … Phần phú nôm để đối chiếu, chúng tôi trích dẫn từ việc ghi chép công phu của Tử Vi Ao Bích của Việt Viêm Tử và Tử Vi Thực Hành của Dịch Lý Huyền Cơ.
60 Năm Sinh Trong Hoa Giáp
Trong một thế giới rộng lớn và vũ trụ bao la vô cùng, vô tận, con người luôn muốn biết, muốn tìm hiểu, nghiên cứu những bí ẩn và ứng nghiệm những kiến thức và hiểu biết của mình, nhằm thỏa mãn khao khát ước muốn và trí tò mò của bản thân. Trong một thế giới rộng lớn và vũ trụ bao la vô cùng, vô tận, con người luôn muốn biết, muốn tìm hiểu, nghiên cứu những bí ẩn và ứng nghiệm những kiến thức và hiểu biết của mình, nhằm thỏa mãn khao khát ước muốn và trí tò mò của bản thân. Ấy vậy mà trí tuệ của loài người vẫn đang còn bị hạn chế. Mặc dù từ thế hệ này qua thế hệ khác, mỗi ngày loài người lại khám phá cái mới, sáng tạo cái mới, nhưng cũng đồng thời lại quên lãng hay bỏ qua nhiều kiến thức uyên thâm, những thành quả vĩ đại của các thời đại cổ xưa ví dụ như các nền văn minh In Ca, Cổ: Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc v.v… Nhiều nền văn minh sán lạng của lục địa Châu Phi cổ xưa đã làm con người ngày nay phải ngỡ ngàng, sững sờ khi tình cờ phát hiện ra từ lòng đất. Ngay như một điều hiển nhiên là trái đất quay quanh mặt trời, thế mà gần 16 thế kỷ (kể từ công lịch) các học thuyết tôn giáo vẫn phủ nhận và khi Galile bác bỏ thuyết “địa tâm” ủng hộ thuyết “nhật tâm” của Copecnic ông đã bị thiêu sống. Rồi Bruno cũng phải chết trong tù đầy vì ủng hộ cái sự thật hiển nhiên ấy! Thế mới biết nhiều khi chính con người đề ra học thuyết này, nọ và các trường phái triết học khác nhau chỉ bởi vì lợi ích giai cấp của trường phái, chứ họ không quan tâm mấy đến sự thực hiển nhiên là vậy. Ai cũng bảo cái của mình là duy nhất đúng, là chân lý tuyệt đối. Không, vũ trụ bao la và vô tận, thế giới con người, sinh vật và thực vật vẫn còn chất chứa vô vàn huyền bí mà loài người với trí tuệ còn có hạn của mình vẫn hàng giờ say sưa khám phá, chiêm nghiệm hết thế hệ này đến thế hệ khác để thỏa mãn trí tò mò và vì lợi ích của chính mình. Về lĩnh vực con người, hàng nghìn năm trước cho đến ngày nay người ta cũng rất muốn biết những điều bí ẩn của chính mình. Biết bao học giả đã, đang dày công nghiên cứu áp dụng và kiểm chứng qua nhiều khoa phép để dự đoán xem tương lai của mỗi cá thể sẽ phải trải qua trong thời gian sống thế nào. Đã có nhiều khoa dự báo ra đời. Ví như: dùng thuật tướng. Các tướng thuật gia cho rằng “Mệnh là căn bản của một đời người. Tướng là trợ thủ cho Mệnh mà hình thành”. Như vậy có Mệnh ắt phải có Tướng và ngược lại có Tướng phải có Mệnh. Nếu riêng về Thuật Tướng, con người còn chia nhỏ để kiểm nghiệm, đúc kết ví dụ: gồm Diện Tướng (tướng mặt), Hình Tướng (tướng dáng người), Tọa Tướng (tướng ngồi), Thanh Tướng (tướng qua tiếng nói) v.v.. Tướng Thuật gia nổi tiếng đời Đường Trung Quốc, ngài Viên Thiện Cương sau khi xem tướng cho Võ Tắc Thiên năm lên 9 tuổi đã tiên đoán với diện tướng “mắt rồng, cổ phượng, tướng cực quý hiếm” sẽ là thiên tử. Quả đúng là với dự đoán ấy, 28 năm sau ứng nghiệm. Hay dùng Thuật số (tử vi). Ở thời Tiền nhà Đường, Trung Quốc có rất nhiều Mệnh số gia nổi tiếng như: Ngài Dương Cấn ở Tứ Xuyên, tuy bị lòa mà giỏi đoán Mệnh, ông Thông Diễn, ông Chương Tấn Công, tể tướng bị bãi chức thời Kánh Lịch (Trung Quốc) v.v… đều là những Mệnh số gia uyên thâm dự báo, số mệnh không một lần sai. Họ đã được sách sử ghi chép. Rồi còn Chiêm tinh gia, Bốc Phệ gia (bốc quẻ); Nhà ngoại cảm, hay Kinh Dịch gia độn Giáp v.v.. Tất cả đều là các khoa phép dự báo ứng nghiệm trong thực tế cuộc sống. Cuối thế kỷ XX có nhiều Chiêm tinh gia rất nổi tiếng, nhà ngoại cảm tài ba, nhưng họ cũng chịu bất hạnh vì sự thù ghét của ý thức hệ. Đó là bà Vangelia Pendeva Minitrova, người phụ nữ Bulgari được mệnh danh là nhà tiên tri Vanga nhìn thấu tương lai và quá khứ, bà bị mù năm 16 tuổi và khi 30 tuổi đã thành nhà tiên tri và chính bà cũng đã bị ngồi tù vì không phù hợp ý thức hệ đang thống lĩnh lúc đó. Người phụ nữ Pháp Maria Adelaida Lenorman sinh ra ở Alanson Paris 1772 đã từng dự báo qua những con bài để biết về số phận chính xác đến tuyệt đối, ngay cả của hoàng đế nước Pháp hồi bấy giờ là Napoleon Bounaparte… Còn rất nhiều nhà ngoại cảm tìm hài cốt lỗi lạc nữa… Với quyển sách nhỏ được tập hợp từ nhiều kiểm chứng Đông, Tây, kim cổ góp phần dự báo để bạn đọc chiêm nghiệm và tham khảo. Ấy vậy mà trí tuệ của loài người vẫn đang còn bị hạn chế. Mặc dù từ thế hệ này qua thế hệ khác, mỗi ngày loài người lại khám phá cái mới, sáng tạo cái mới, nhưng cũng đồng thời lại quên lãng hay bỏ qua nhiều kiến thức uyên thâm, những thành quả vĩ đại của các thời đại cổ xưa ví dụ như các nền văn minh In Ca, Cổ: Ai Cập, Hy Lạp, La Mã, Ấn Độ, Trung Quốc v.v…Nhiều nền văn minh sán lạng của lục địa Châu Phi cổ xưa đã làm con người ngày nay phải ngỡ ngàng, sững sờ khi tình cờ phát hiện ra từ lòng đất. Ngay như một điều hiển nhiên là trái đất quay quanh mặt trời, thế mà gần 16 thế kỷ (kể từ công lịch) các học thuyết tôn giáo vẫn phủ nhận và khi Galile bác bỏ thuyết “địa tâm” ủng hộ thuyết “nhật tâm” của Copecnic ông đã bị thiêu sống. Rồi Bruno cũng phải chết trong tù đầy vì ủng hộ cái sự thật hiển nhiên ấy!Thế mới biết nhiều khi chính con người đề ra học thuyết này, nọ và các trường phái triết học khác nhau chỉ bởi vì lợi ích giai cấp của trường phái, chứ họ không quan tâm mấy đến sự thực hiển nhiên là vậy.Ai cũng bảo cái của mình là duy nhất đúng, là chân lý tuyệt đối.Không, vũ trụ bao la và vô tận, thế giới con người, sinh vật và thực vật vẫn còn chất chứa vô vàn huyền bí mà loài người với trí tuệ còn có hạn của mình vẫn hàng giờ say sưa khám phá, chiêm nghiệm hết thế hệ này đến thế hệ khác để thỏa mãn trí tò mò và vì lợi ích của chính mình.Về lĩnh vực con người, hàng nghìn năm trước cho đến ngày nay người ta cũng rất muốn biết những điều bí ẩn của chính mình. Biết bao học giả đã, đang dày công nghiên cứu áp dụng và kiểm chứng qua nhiều khoa phép để dự đoán xem tương lai của mỗi cá thể sẽ phải trải qua trong thời gian sống thế nào. Đã có nhiều khoa dự báo ra đời. Ví như: dùng thuật tướng. Các tướng thuật gia cho rằng “Mệnh là căn bản của một đời người. Tướng là trợ thủ cho Mệnh mà hình thành”. Như vậy có Mệnh ắt phải có Tướng và ngược lại có Tướng phải có Mệnh. Nếu riêng về Thuật Tướng, con người còn chia nhỏ để kiểm nghiệm, đúc kết ví dụ: gồm Diện Tướng (tướng mặt), Hình Tướng (tướng dáng người), Tọa Tướng (tướng ngồi), Thanh Tướng (tướng qua tiếng nói) v.v..Tướng Thuật gia nổi tiếng đời Đường Trung Quốc, ngài Viên Thiện Cương sau khi xem tướng cho Võ Tắc Thiên năm lên 9 tuổi đã tiên đoán với diện tướng “mắt rồng, cổ phượng, tướng cực quý hiếm” sẽ là thiên tử. Quả đúng là với dự đoán ấy, 28 năm sau ứng nghiệm.Hay dùng Thuật số (tử vi). Ở thời Tiền nhà Đường, Trung Quốc có rất nhiều Mệnh số gia nổi tiếng như: Ngài Dương Cấn ở Tứ Xuyên, tuy bị lòa mà giỏi đoán Mệnh, ông Thông Diễn, ông Chương Tấn Công, tể tướng bị bãi chức thời Kánh Lịch (Trung Quốc) v.v… đều là những Mệnh số gia uyên thâm dự báo, số mệnh không một lần sai. Họ đã được sách sử ghi chép.Rồi còn Chiêm tinh gia, Bốc Phệ gia (bốc quẻ); Nhà ngoại cảm, hay Kinh Dịch gia độn Giáp v.v.. Tất cả đều là các khoa phép dự báo ứng nghiệm trong thực tế cuộc sống.Cuối thế kỷ XX có nhiều Chiêm tinh gia rất nổi tiếng, nhà ngoại cảm tài ba, nhưng họ cũng chịu bất hạnh vì sự thù ghét của ý thức hệ. Đó là bà Vangelia Pendeva Minitrova, người phụ nữ Bulgari được mệnh danh là nhà tiên tri Vanga nhìn thấu tương lai và quá khứ, bà bị mù năm 16 tuổi và khi 30 tuổi đã thành nhà tiên tri và chính bà cũng đã bị ngồi tù vì không phù hợp ý thức hệ đang thống lĩnh lúc đó. Người phụ nữ Pháp Maria Adelaida Lenorman sinh ra ở Alanson Paris 1772 đã từng dự báo qua những con bài để biết về số phận chính xác đến tuyệt đối, ngay cả của hoàng đế nước Pháp hồi bấy giờ là Napoleon Bounaparte… Còn rất nhiều nhà ngoại cảm tìm hài cốt lỗi lạc nữa…Với quyển sách nhỏ được tập hợp từ nhiều kiểm chứng Đông, Tây, kim cổ góp phần dự báo để bạn đọc chiêm nghiệm và tham khảo.
Kinh Dịch - Trí huệ và quyền biến (Mưu của người quân tử) - Quyển hạ
Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa. Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ. Kinh Dịch xuất hiện từ thời thượng cổ, là cuốn Kinh đứng đầu những cuốn Kinh – quần Kinh chi thủ của Trung Hoa.Từ khi ra đời cho đến nay, Kinh Dịch đã cuốn hút không biết bao nhiêu nhà nghiên cứu thuộc nhiều thế hệ. Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức. Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng. Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy. Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt. Kinh Dịch không chỉ là thế giới hấp dẫn đối với các học giả Trung Quốc, học giả các nước phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, mà còn hấp dẫn các nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây như Anh, Pháp, Mĩ, Đức.Kinh Dịch bao gồm cả Đạo Trời – Đạo Đất – Đạo Người. Riêng Đạo Người, Kinh Dịch có 64 quẻ, tượng trưng các thời ; 384 hào tượng trưng 384 nhân vật điển hình, thiện có, ác có, sang có, hèn có ; mỗi nhân vật ở trong hoàn cảnh đặc biệt và có thời riêng.Trong thời chung, thời cơ riêng, ở hoàn cảnh đặc biệt, mỗi nhân vật điển hình trong Kinh Dịch thường đứng giữa ranh giới thiện – ác, tối – sáng, hoạ – phúc, thuận – nghịch, lợi – hại, tốt – xấu … chọn hướng nào là ẩn số của bài toán ở đời? Phù hiệu, văn tự của mỗi quẻ, mỗi hào là những dữ kiện của những bài toán ấy.Dịch là biến dịch, biến hoá ; quan trọng của Dịch là chữ Thời. Các nhà nghiên cứu thường dựa vào các dữ kiện tìm ra đáp số là lợi hay hại, thuận hay nghịch, xấu hay tốt.Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất. Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành. (Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi. Mở đầu Thượng kinh là hai quẻ Càn – Khôn, mở đầu Hạ kinh là quẻ Hàm, nam – nữ gặp nhau ; thể hiện tam tài Thiên – Địa – Nhân hoặc Thiên – Nhân hợp nhất.Thứ tự quẻ, tự quái giải thích như sau : Đầu tiên có Trời Đất, sau mới có vạn vật, đã có vạn vật, sau mới có trai gái, có trai gái mới có âm dương giao kết mà thành vợ chồng, đã có vợ chồng mới có công sinh dục mới thành cha con. Vậy sau mới thành trật tự loài người, mới sinh ra quân thần, đã có quân thần mới có chế độ mà chia ra trên dưới, đã có trên dưới, vậy sau mới đặt ra lễ nghĩa, mới có chỗ thực hành.(Hữu thiên địa, nhiên hậu hữu vạn vật, hữu vạn vật, nhiên hậu hữu nam nữ, hữu nam nữ, nhiên hậu hữu phu phụ, hữu phu phụ, nhiên hậu hữu phụ tử. Hữu liễu phụ tử nhiên hữu quân thần, hữu liễu quân thần, nhiên hậu hữu thượng hạ, hữu liễu thượng hạ, nhiên hậu lễ nghĩa hữu sở kiến lập, hữu sở thực chi.