Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bản Du Ca Cuối Cùng - Erich Maria Remarque

Chiến tranh đã đẩy biết bao người vào con đường tha hương khi mỗi bến đỗ đều chỉ là tạm bợ cho đến lúc họ bị dồn đuổi đến nơi khác. Kern, một chàng thanh niên Đức, chạy trốn chế độ Quốc xã bạo tàn, lưu lạc đến Áo, bị trục xuất sang Thụy Sĩ, rồi lại tìm đường trốn sang Pháp... Trong cuộc hành trình bất định ấy, anh có duyên gặp gỡ những con người tốt bụng như Steiner, Marill; họ đã cưu mang, giúp đỡ anh trong cuộc sống khó khăn nơi đất khách. Số phận cũng cho anh gặp Ruth – người con gái mang đến cho anh một tình yêu, một niềm an ủi, một hy vọng mới. Họ đến với nhau bằng sự cảm thông sâu sắc giữa hai con người cùng cảnh ngộ. Họ yêu nhau và làm mọi cách để được ở bên nhau bất chấp những lần bị bắt giam, bị trục xuất. Hành trình của họ tựa như bản du ca của những con người không còn đất sống, chỉ có thể bám víu vào con thuyền mang tên hy vọng và tình người. *** Remarque (1898 – 1970) là nhà văn lừng danh người Đức. Ông nổi tiếng với Phía Tây không có gì lạ, một trong những tác phẩm hay nhất về Thế chiến I. Các tác phẩm tiêu biểu khác của ông như Ba người bạn, Khải hoàn môn, Đêm Lisbon…cũng góp phần không nhỏ trong việc khẳng định tài năng và danh tiếng của ông khắp năm châu. Năm 1931, ông được đề cử cả giải Nobel Văn chương và Hòa bình. Ra đời năm 1939, Bản du ca cuối cùng (Liebe Deinen Nächsten) là thiên tiểu thuyết đầu tiên của Remarque viết về những thân phận người trôi nổi trong cuộc sống lưu vong. Tác phẩm đã tái hiện một châu Âu trong thời kỳ tối tăm ly loạn, nhưng đằng sau đó lại là bài ca về cái đẹp, cái thiện, về niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống và con người. Những tác phẩm tiêu biểu: Phía Tây không có gì lạ; Khải hoàn môn; Ba Người Bạn Đường về; Tia lửa sống; Bia mộ đen; Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết … Hầu hết các tác phẩm đều mang khuynh hướng phê phán và tố cáo xã hội mãnh liệt đồng thời miêu tả sức hủy hoại kinh hoàng của cuộc chiến tranh đế quốc đối với thể chất và tinh thần của con người. *** Steiner tới nơi lúc mười một giờ trưa. Anh gởi vali tại nhà ga và đi thẳng tới bệnh viện. Anh không có thì giờ nhìn thành phố, anh chỉ thấy những đợt sóng người và xe cộ cùng những dãy nhà. Anh dừng lại trước một tòa nhà đồ sộ trắng, do dự một lúc. Anh nhìn cái cổng rộng lớn và những dãy cửa sổ ở các tầng lầu cao. Một chỗ nào trên đó… nhưng có chắc không... Anh mím môi bước vào. Hắn hỏi cô thư ký: - Xin cô vui lòng cho biết giờ thăm bệnh. - Hạng mấy... - Không rõ. Tối mới tới đây lần thứ nhứt. - Ông muốn thăm ai... - Bà Marie Steiner. Anh ngạc nhiên khi thấy cô thơ ký vẫn dửng dưng lật sổ. Anh đã tưởng tượng là trần nhà sẽ đổ xuống hoặc nữa người y tá ngồi ở bàn giấy sẽ nhảy dựng lên chạy ra ngoài hô hoán khi nói tới tên Steiner. Cô y tá vẫn tiếp tục lật sổ vừa dò tìm vừa nói: - Nếu nằm phòng hạng nhất thì được thăm suốt ngày. - Chắc không phải hạng nhất. Có thể là hạng ba. - Giờ thăm ở hạng ba là từ ba giờ đến năm giờ. Cô y tá tiếp tục tìm: - Lúc nãy ông nói tên gì... - Steiner, Marie Steiner. Steiner cảm thấy cổ họng như khô đắng. Anh nhìn chăm chăm vào khuôn mặt búp bê của người nữ y tá. Anh chờ cô ta nói tiếng “Đã chết”. - Đây, Marie Steiner, hạng nhì, phòng 505, lầu 5. Giờ thăm là từ ba tới sáu. Steiner mừng rỡ: - 505. cám ơn, cám ơn cô nhiều lắm. Tuy nhiên anh vẫn còn đứng đó. Chuông điện thoại reo, cô y tá vừa nhấc máy vừa hỏi: - Ông còn cần gì không... - Bà Steiner còn sống hay đã chết... Cô y tá đặt máy xuống. Chuông tiếp tục reo. Cô ta trả lời: - Dĩ nhiên là còn sống. Nếu không thì phải có lời phụ chú bên cạnh tên. - Cám ơn cô. Steiner phải cố gắng lắm mới không hỏi là có thể lên thăm được ngay bây giờ không. Anh đi lang thang qua nhiều con đường vòng khu bệnh viện. Thình lình, anh sợ bị nhận diện. Anh không sợ cho mình mà chỉ sợ bị bắt trước khi nhìn mặt vợ. Anh tìm một quán nhỏ trên con đường vắng nào đó ngồi chờ tới giờ thăm. Anh gọi thức ăn nhưng không nuốt nổi. Gã hầu bàn ngạc nhiên: - Ông ăn không vừa miệng... - Không. Ngon lắm. Cho tôi một ly Kirsh. Steiner cố nuốt trôi bữa ăn rồi hỏi mua một tờ báo và gói thuốc. Anh cố đọc báo để quên thì giờ nhưng rồi cũng không đọc nổi. Anh tưởng tượng là Marie đang lịm chết ngay trong lúc nầy, thấy mặt vợ ướt đẫm mồ hôi vì đau đớn trước khi chết. Anh phải hết sức tự chủ mới không đứng lên chạy thẳng tới bệnh viện. Kim đồng hồ từ từ xê dịch như cánh tay định mệnh muốn làm hắn nghẹt thở bằng sự chậm chạp, nặng nề. Anh ném tờ báo qua một bên rồi đứng lên. Gã hầu bàn đang đứng xỉa răng, thấy khách rời bàn gã tới gần hỏi: - Thưa, tính tiền... - Không, cho một ly bia nữa. Gã hầu bàn rót cho hắn một ly bia. Anh mời: - Bồ cũng uống một ly đi. - Cám ơn. Gã hầu bàn rót ngay cho mình một ly bia rồi nâng ly lên với hai ngón tay: - Kính ông. ... Mời các bạn đón đọc Bản Du Ca Cuối Cùng của tác giả Erich Maria Remarque.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hoa Phượng Đừng Đỏ Nữa - Nhã Ca
Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Hoa Phượng Đừng Đỏ Nữa của tác giả Nhã Ca.
Em Thuộc Về Anh - Emily Giffin
Ở tuổi ba mươi sáu, Marian Caldwell tạo dựng được một cuộc sống tưởng như hoàn hảo. Cho tới cái đêm cô buộc phải đối diện một bí mật cô đã cố gắng chôn vùi suốt mười tám năm... Kirby Rose - cô bé mười tám tuổi được cho đi làm con nuôi từ thuở lọt lòng - luôn cảm thấy lạc lõng giữa cái gia đình tràn trề tình yêu nhưng không cùng máu mủ. Trước ngưỡng cửa vào đời, cô quyết định tìm lại nguồn gốc. Cánh cửa quá khứ miễn cưỡng mở ra để một lần nữa buộc những người trong cuộc nhìn nhận những chuyển đã qua dưới một ánh sáng mới. Những ngộ nhận, day dứt, tiếc nuối và cả những đam mê nhen lên từ đống tro tàn đã được lột tả vô cùng tinh tế. Không chỉ chứa đựng những tình tiết lắt léo và cảm xúc phức tạp vốn là sở trường của ngòi bút Emily Giffin. Cuốn sách còn là một câu hỏi lớn: rốt cuộc, trải nghiệm hay việc đạt được mục tiêu mới làm nên ý nghĩa cuộc đời? Và, trái tim hay lý trí mới đưa ta về đúng chỗ? *** Emily Giffin (20/31972) là nhà văn nữ của Mỹ nổi tiếng với dòng tiểu thuyết “Chick Lit”, một dòng tiểu thuyết hiện đại gồm các sáng tác của các tác giả nữ, viết về giới nữ và dành cho giới nữ, bắt đầu từ giữa những năm 90. Emily Giffin đã học trung học tại trường Naperville North ở ngoại ô Chicago, nơi tác giả từng là thành viên của hội viết sáng tạo và là biên tập viên chính cho tờ báo của trường, sau đó tốt nghiệp tại trường đại học Wake Forest University và The University of Virginia. Ngoài Xúc Xắc Tình Yêu, Emily Giffin còn được biết đến với các tiểu thuyết khác như: Khao Khát Của Em, London Ngày Nắng Hạ Và Yêu Người Ở Bên Ta. *** Mời các bạn đón đọc Em Thuộc Về Anh của tác giả Emily Giffin.
Người Mẹ - Maxim Gorky
Người mẹ là tác phẩm viết về hiện thực xã hội nước Nga trong những năm đầu thế kỷ 20, khi giai cấp vô sản Nga đang chuẩn bị tiến hành cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất. Tác phẩm vẽ ra trước mắt chúng ta bức tranh rộng lớn của xã hội Nga những năm đầu thế kỷ 20 với cái quá khứ nặng nề trong đời sống của vợ chồng bác công nhân Mikhain, với cái hiện tại đấu tranh gian khổ và anh dũng của mẹ con anh công nhân Paven… Đồng thời, tiểu thuyết còn gợi lên niềm tin chắc chắn về thắng lợi tất yếu của những người lao động chân chính với chế độ chuyên chế. Hình ảnh kết thúc của tiểu thuyết, “cảnh người mẹ bị bắt cầm tù” gợi nên trong lòng người đọc nhiều ám ảnh, nhiều xót xa nhưng nó làm cho người đọc lạc quan, tin tưởng ở ngày mai. *** Macxim Gorki (1864 – 1934) là nhà văn vĩ đại của giai cấp vô sản, là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Trong cuộc đời hoạt động văn học gần nửa thế kỷ, ông đã để lại một sự nghiệp chói lọi, một di sản sáng tác khổng lồ, nó là niềm tự hào của nhân dân Nga và của cả loài người tiến bộ. Truyện ngắn Macxim Gorki có sự kết hợp hài hoà yếu tố lãng mạn và hiện thực. Ở đó có sự gắn bó máu thịt của ông với nhân dân và đất nước qua các giai đoạn cách mạng. Trong truyện ngắn Macxim Gorki bộc lộ niềm khao khát tự do và ca ngợi ý chí hào hùng, bất khuất của con người, phơi bày tính chất tàn bạo của chế độ xã hội – chính trị trước cách mạng, cái chế độ giết chết mọi cái có sức sống trong con người; quá trình trăn trở, tự ý thức đầy gian khổ của các tầng lớp “dưới đáy” để vươn tới sự đổi đời; đề cao và thi vị hoá lao động: phê phán lối sống và tâm lý ươn hèn của tầng lớp trí thức tiểu tư sản và tư sản; những truyện ngắn triết lý, những truyện có tính chất tự thuật… Danh tiếng của Gorky như giọng văn học duy nhất từ những tầng lớp đáy xã hội và như một người ủng hộ nhiệt thành cho cuộc cải cách xã hội, chính trị và văn hoá Nga (tới năm 1899, ông công khai liên kết với phong trào Dân chủ xã hội Mác xít) khiến ông trở nên nổi tiếng trong cả giới trí thức và số lượng ngày càng gia tăng các công nhân "có ý thức". Ở trung tâm của mọi tác phẩm của ông là một niềm tin ở giá trị vốn có và khả năng của con người (личность, lichnost'). Ông đưa ra các cá nhân đầy sức sống, nhận thức về phẩm giá tự nhiên của họ, và có cảm hứng từ nhiệt tình và ý chí của họ, những người chống lại các điều kiện sống đang ngày càng tồi tệ đi quanh mình. Tuy nhiên, cả các tác phẩm cũng như những bức thư của ông cho thấy một "con người không ngừng nghỉ" (một người thường xem xét lại mình) đấu tranh để giải quyết những tình cảm về đức tin và thái độ hoài nghi trái ngược bên trong, tình yêu cuộc sống và sự phẫn nỗ với sự tầm thường và nhỏ mọn của thế giới con người. Mời các bạn đón đọc Người Mẹ của tác giả Maxim Gorky.
Một Lễ Cưới Khác Thường - Jules Verne
Ngôi thứ nhất, Henri Vidal, kể lại câu chuyện mình từ Pháp sang Hungary dự đám cưới em trai Marc, lấy một cô gái bản xứ là Myra Roderich. Tuy nhiên đám cưới bị sự ngăn trở của Wilhelm Storitz, tình địch của Marc, đã bị gia đình Roderich từ chối. Hắn ta đã đe dọa sẽ dùng những "quyền lực siêu nhiên, vượt khả năng chống cự của con người" để can thiệp. Vậy lễ cưới có diễn ra được không, mời các bạn theo dõi. Tác phẩm này của Jules Verne tuy không hấp dẫn và nổi tiếng như các tác phẩm khác của ông như Hai vạn dặm dưới biển, Tám mươi ngày vòng quanh thế giới... nhưng cũng đáng để đọc qua một lần. Trong những tác phẩm khác, các máy móc trong trí tưởng tượng của Verne phần nhiều đã thành hiện thực thì trong tác phẩm này, khả năng "siêu nhiên" rất tiếc khoa học hiện tại đã chứng minh là "bất khả". *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. Mời các bạn đón đọc Một Lễ Cưới Khác Thường của tác giả Jules Verne.