Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký

Có lẽ hình ảnh Tam Tạng pháp sư Huyền Trang (600-664) đi thỉnh kinh là một trong những hình ảnh gây nhiều ấn tượng sâu sắc và in sâu vào tâm thức của đa số người Việt Nam chúng ta nhất. Con người ấy đã vì pháp quên mình, cô thân chích ảnh, trải bao hiểm nguy, băng ngàn vượt suối, đến tận đất Phật, trong thời buổi đường đi chỉ là những lối mòn hoang sơ đầy bấc trắc, để tìm thầy học đạo suốt 17 năm trời, rồi thỉnh về nước 657 bộ kinh Phật bằng tiếng Ấn Độ. Thế nhưng, ngoài công trình Tây hành cầu pháp, phiên dịch Kinh điển, Pháp sư còn để lại tập sử liệu rất đặc sắc, " Đại Đường Tây Vực Ký ". Trong tập bút ký này, Huyền Trang đã ghi chép về 138 nước, mà phần lớn Pháp sư đã từng đặt chân đến, rồi dùng ngòi bút của một sử gia chuyên nghiệp, ghi chép rất cẩn thận. Nội dung tổng hợp cả tính Lịch sử, Địa lý và đầy đủ các giá trị văn hoá của từng nước. Có thể nói đây là một tư liệu văn hiến rất trọng yếu dùng để nghiên cứu lịch sự Phật giáo, lịch sử giao lưu giữa các nước vùng Trung Á, Nam Á. ( Hoà thượng Thích Phước Sơn Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam )   Mục lục: Lời giới thiệu của hoà thượng Thích Phước Sơn Đôi nét về tác giả Trần Huyền Trang Nhà chú giải Nhuế Truyền Minh Giới thiệu những vấn đề xung quanh tác giả và tác phẩm " Đại Đường Tây Vực Ký " Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 1) Từ nước A Kỳ đến thuỷ thành Tô Diệp Nước A Kỳ Ni (AGNI) Nước Khuất Chi Nước Khuất Chi ( Tiếp 1) Nước Khuất Chi ( Tiếp 2) Nước Khuất Chi ( Tiếp 3) Nước Bạc Lộc Già Từ Lăng Sơn đến Đại Thanh Trì Thuỷ thành Tố Diệp Địa khu tốt lợi Tổng thuật Địa khu tốt lợi Thiên truyền Thánh Đát La Tư ............. Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 2) Tổng thuật nước Ấn Độ Danh xưng Ấn Độ Cương vực Đơn vị đo chiều dài Tuế thời Nhà ở, cung điện Y phục và trang sức Ăn uống Chữ viết Giáo dục ............ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 3) Nước Điểu Trượng Na và nước Bát lộ la Nước Điểu Trượng Na Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 1) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 2) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 3) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 4) Nước Điểu Trượng Na (Tiếp 5) ................ Đại Đường Tây Vực Ký (Quyển 12) Nước Tào Cự Thác nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước tảo Củ Thác Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na Nước Phất Lật Thị Tát Thảng Na ( Tiếp) Nước Đổ Hóa La Cổ Địa Nước An Đát La Phược Hoạt Quốc Năm nước: Mông Kiện, A Lợi Ni, Hạt La Hồ, Cật Lật Sắc Ma, Bát Lợi Hạt ............. Từ Đại Lưu sa trên đường đi về nước *** Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch.   Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng Quý vị đang cầm trên tay quyển “Đại Đường Tây Vức Ký” được chuyển dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt là do kết quả của sự miệt mài dịch thuật của chúng tôi từ ngày 24 tháng 10 năm 2003 đến ngày 10 tháng 12 năm 2003 tại Tu Viện Đa Bảo, Úc Đại Lợi nhân mùa nhập thất lần đầu tại đây. Xin tạ ơn Tam Bảo đã chiếu soi cho chúng con để lần dò từng câu văn, từng ý chữ mà Ngài Huyền Trang, một bậc danh tăng đời Đường đã thể hiện trọn vẹn hết tâm ý khi đi chiêm bái, học hỏi và ghi lại nơi Thánh Địa ròng rã trong 17 năm trời. Để rồi về lại kinh đô Tràng An với 657 bộ kinh bằng chữ Phạn. Ngài trải qua 110 nước và về sau cùng 100 vị Cao Tăng Học giả đương thời, dưới quyền chủ tọa của Ngài, phiên dịch suốt trong vòng 19 năm, kể từ khi Ngài về lại Tràng An Trung Quốc, vào ngày 24 tháng giêng năm 645 (năm Trinh Quán thứ 19 đời nhà Đường). Ngài lên đường ra đi khỏi Trung Quốc vào năm Trinh Quán thứ 3 đời nhà Đường tức năm 628, lúc ấy Ngài đã 33 tuổi. Như vậy Ngài sinh vào năm 595 và Ngài thị tịch vào ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, tại Ngọc Hoa Cung, hưởng thọ 69 tuổi. Ngài về lại Kinh Đô đúng 50 tuổi và chủ trì phiên dịch trong 19 năm ròng rã như thế và ngày nay Ngài đã để lại cho hậu thế một gia tài Pháp Bảo vô giá mà đông tây kim cổ khó có người thứ hai sánh kịp. Đây là một tập sách gồm 12 quyển và hai lời tựa được đăng trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 51 thuộc Sử Truyện, bộ thứ 3 từ trang 867 đến trang 948, theo thứ tự kinh văn số 2087. Chỉ có 81 trang kinh mà chúng tôi phải dịch ròng rã gần 2 tháng dài. Mỗi ngày từ 5 đến 6 tiếng đồng hồ và kết quả là hơn 460 trang sách khổ A5 và gồm 127.264 chữ, như quý vị đang đọc. Đại Tạng Kinh không chỉ có một quyển mà cả một trăm quyển như thế. Mỗi quyển dày từ 1000 đến 2000 trang. Nếu một người để cả một đời ra đọc chưa chắc gì đã hết, đừng nói đến vấn đề phiên dịch. Bây giờ Phật Giáo Việt Nam đã bắt đầu cho phiên dịch nhiều phần từ Kinh, Luật, Luận trong Đại Tạng Kinh ra tiếng Việt. Trong đó phải nói rằng về phần Kinh Văn, Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Huệ Hưng đã đóng góp dịch thuật phần chính. Về Luật Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Hành Trụ, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hòa, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ, Cố Hòa Thượng Thích Trí Minh, Hòa Thượng Thích Đổng Minh v.v..... Về Luận Tạng có Cố Hòa Thượng Thích Khánh Anh, Cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Cố Hòa Thượng chúng tôi vẫn chưa đọc được một bản nào mô tả tỉ mĩ như thế. Gần đây chúng tôi có đọc được quyển “Đường Tam Tạng Thỉnh Kinh” của nhà văn Võ Đình Cường tái bản lần thứ 3 năm 2000 thì mới biết ngày 7 tháng 5 năm 1960, ông đã cho xuất bản cuốn “Huyền Trang” , nhưng lúc ấy tại quê nhà tôi chưa có cơ duyên đọc đến. Căn cứ theo lời tựa lần thứ nhất xuất bản vào năm 1960, được biết rằng nhà văn Võ Đình Cường dùng tài liệu của Học giả Lương Khải Siêu người Trung Hoa soạn và nhờ Cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu, Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ dịch tài liệu ấy ra tiếng Việt; nhưng phần mình, nhà văn không cho biết ông đã căn cứ vào tài liệu nào để viết. Dĩ nhiên phải có tài liệu chính trong tay, ông mới hoàn thành tác phẩm ấy được. Vì đây là một nhân vật lịch sử chứ không phải Dã sử hoặc Huyền sử, cho nên chúng ta phải làm sáng danh điều nầy. Nhân nghiên cứu để viết lời tựa cho quyển sách quan trọng nầy, chúng tôi mới thấy bài dịch của lời tựa Vua Đường Thái Tông đã viết vào năm 648 gồm 780 chữ mà Ngài Trí Thủ và Ngài Thiện Siêu đã dịch ra tiếng Việt thật tuyệt vời. Nay chúng tôi xin trích đăng lại cho đủ ba lời tựa cho phần đầu của dịch phẩm nầy. Trong chương 5, phần XVI về việc phiên dịch Kinh Điển, nhà văn Võ Đình Cường viết như sau: “Mùa thu năm sau, phụng mệnh Vua Thái Tông, Ngài thuật cho một đệ tử là Biện Cơ chép lại cuộc Tây Du của Ngài trong 17 năm trải qua 138 nước một cách tường tận.....” Ở đây có thể phân tích một vài việc như sau: Có một điều chúng tôi thắc mắc là: “Ngài Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch” quyển nầy. Tại sao Ngài phải dịch? Lẽ ra phải nói là Ngài soạn mới đúng. Khi viết lại chắc Ngài phải viết bằng chữ Hán, nghĩa là đi đến đâu ngài chép đến đó. Chứ sau 17 năm về lại Trung Quốc làm sao nhớ hết mà kể lại cho ngài Biện Cơ soạn lại? Và một điều khó hiểu nữa - Không lẽ Ngài viết bằng chữ Phạn? - Chắc chắn là không. Vì tiếng mẹ đẻ của Ngài là tiếng Trung Hoa, khi qua đó Ngài đã 33 tuổi, trong khi tiếng Phạn chưa giỏi thì phải lấy tiếng mẹ đẻ làm chuẩn vậy. Thứ nữa ở trong Đại Tạng Kinh, Phần tựa thứ nhất cho biết Ngài đã đi 110 nước; trong khi đó ông Võ Đình Cường bảo đi đến 138 nước và ngay cả trong lời tựa thứ 2 trong Đại Đường Tây Vức Ký của Thượng Thơ Tả Bộc Xạ Yến Quốc Công Trương Thuyết có ghi là: Lời tựa của Tam Tạng Thánh Giáo do Vua Đường Thái Tông viết chỉ có 780 chữ” mà ông Võ đã viết là 781 chữ. Điều đó cũng dễ hiểu thôi vì ông cũng có nhận định rằng: “Ông Lương Khải Siêu bảo rằng Ngài Huyền Trang sang Ấn Độ năm Trinh Quán nguyên niên là sai” và ông đã chứng minh là năm Trinh Quán thứ ba mới đúng. Điều chứng minh nầy của ông Võ đúng với Đại Tạng Kinh.   Mời các bạn đón đọc Bút Ký Đường Tăng - Đại Đường Tây Vực Ký của tác giả Trần Huyền Trang.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Thầy: Hồi Ức Của Một Nhà Giáo Mỹ - Frank McCourt
AudioBook Người Thầy   Hồi ức của Frank McCourt (1930-2009) - một tài năng văn chương “nở muộn” - viết về khoảng thời gian hơn 30 năm đeo đuổi sứ mệnh làm thầy trên đất Mỹ. Cuốn sách này dành cho tất cả những ai ưu tư về ý nghĩa tối hậu của nghề sư phạm. 1. Trước hết, cuốn sách  Người thầy(*) được viết từ một độ lùi thời gian, khi McCourt đã về hưu và đã có tác phẩm Angela’s ashes ( Tro tàn của Angela - Hoàng Nguyên và Nguyễn Bích Lan đã dịch sang tiếng Việt, NXB Phụ Nữ, 2004) đoạt giải Pulitzer được nhiều người biết đến. Từ điểm nhìn khoan dung này có thể thấy đây là một tác phẩm mang cảm giác kiêu hãnh, đầy thanh thản của một người đã hoàn thành lý tưởng sự nghiệp nhà giáo của mình, nhìn lại một quá khứ hào sảng hơn là bày tỏ bức xúc hay cay đắng về nghề của người trong cuộc. Nước Mỹ thời bấy giờ, như tác giả viết: “Có phồn vinh, nhưng sự phồn vinh này không nhỏ giọt xuống tới các trường học, tới những ông thầy mới vào nghề cần học cụ cho việc giảng dạy lại càng không”. Điều đó tác động trực tiếp đến đời sống sư phạm của người thầy trẻ McCourt, người Ireland, chọn New York làm nơi lập nghiệp. Tuy nhiên, như đã nói, cuốn sách bằng một giọng văn tếu táo, hài hước cho thấy sự hào hứng, nhiệt huyết dấn thân vào nghề nhiều hơn là sự căng thẳng trước cơ chế. Trung tâm của nghề giáo là đời sống mô phạm của người thầy. Nhưng sự mô phạm đã được thầy McCourt “tư duy lại” như một kẻ đi ngược lối nghĩ thông thường của những đồng nghiệp khác. Những giáo viên nghiêm khắc, quen sống trong tháp ngà khiến học sinh luôn lo sợ điểm xấu không thể chấp nhận được một kiểu mô phạm như McCourt, người thầy mà ngay từ buổi đầu đi dạy đã mắc cái lỗi - nhặt mẩu bánh mì kẹp thịt trên nền đất (của đám học trò choai choai nghịch ngợm ném nhau) để... gặm ngon lành. Những giáo viên luôn đóng kín mình, coi việc dạy học là trách nhiệm khô khan, xem học trò là bọn quỷ quyệt cần cảnh giác sẽ khó chấp nhận một lối dạy tự do, gần gũi, ở đó ông thầy trẻ dám lấy tuổi thơ lớn lên ở khu ổ chuột Limerick, Ireland tồi tàn, lấy thời sinh viên nghèo nhưng nhiều mộng tưởng đến quãng thời gian xếp bằng đại học đi bốc vác ở những hải cảng để làm chất liệu cho bài giảng... 2. Từ sự quan tâm, nắm bắt tâm lý “những chuyển động trong tâm hồn” học trò cộng với những trải nghiệm cuộc sống đã cho thầy giáo trẻ McCourt khả năng nhập vai đầy sáng tạo: “Anh thủ đủ mọi vai, là ông bốc xếp, thầy rabbi (giáo sĩ Do Thái), là cái vai cho học sinh gục đầu vào khóc, nhà mô phạm nghiêm khắc, ca sĩ, học giả xoàng, thầy ký, trọng tài, gã hề, ông cố vấn, người giám sát ăn mặc, người soát vé xe, người biện hộ, triết gia, kẻ đồng lõa, vũ công clacket, chính trị gia, bác sĩ trị liệu, gã điên, cảnh sát giao thông, mục sư, mẹ-cha-anh-chị-cô-chú, nhân viên kế toán, nhà phê bình, nhà tâm lý, chiếc phao cấp cứu...” mặc dù phía sau bục giảng đầy hào hứng bao giờ cũng là một thế giới đầy những căng thẳng, tranh cãi. Điều đáng sợ nhất là chính McCourt phải đối diện với những quan điểm dạy học truyền thống đầy khô khan và lạnh lùng của đồng nghiệp, cấp trên. Và kết quả của những cuộc va chạm là người thầy này đã phải nhiều lần bị thôi việc. Từng dạy tiếng Anh tại các trường McKee, Seward Park, trung học danh tiếng Stuyvesant..., thầy giáo McCourt vẫn là một kẻ vui vẻ hi sinh những đam mê danh vọng khác, chấp nhận nghịch cảnh và xác tín với con đường mình theo đuổi. Lần đầu tiên có một người thầy làm cái công việc lưu trữ và phân loại hai chồng thư: một chồng do những bà mẹ viết xin lỗi giáo viên về việc con mình nghỉ học với những lý do tẻ ngắt, còn chồng kia là của đám học trò giả phụ huynh viết phịa ra lý do rất xuất sắc và siêu tưởng để đôi chối việc nghỉ học của mình. Từ đó, thầy giáo McCourt thực hiện ý tưởng biến giờ giảng của mình thành một buổi nghiên cứu nghệ thuật viết thư xin lỗi. Ông cho học sinh tưởng tượng và viết những lá thư kiểu như “Thư Adam xin lỗi Chúa Trời” hay “Thư Eva xin lỗi Chúa Trời”... Và chúng ta cũng đọc thấy câu chuyện có một ông thầy “chịu chơi”, dám đi xem vở Hamlet với 29 học trò nữ da đen nghịch ngợm, ngổ ngáo, thực hiện ý tưởng biến giờ học sáng tác thành nơi trình diễn các món ăn truyền thống của dân nhập cư, phổ biến những cuốn sách ẩm thực kết hợp với chơi nhạc “cây nhà lá vườn”... 3. Nhưng sau những bài giảng đầy hứng thú, sau thế giới vui nhộn ở những lớp học, đời sống của một giáo viên nghèo nhập cư là một chuỗi hi sinh cay đắng: đó là sự thiếu thốn trong đời sống khiến vợ chồng McCourt phải ly dị; đó là những ngày ông phải sống lang bang với một gian trọ trên quán rượu nơi hải cảng, vây quanh bởi thế giới ô tạp anh chị, giang hồ, đĩ điếm; đó là sự gan lì, khoan dung, bỏ qua những lời lẽ chế nhạo đầy vô tâm của những học sinh lãnh đạm, những phụ huynh thực dụng... Điều đáng quý là sự cô độc và giằng xé đau đớn ấy đã không làm mất đi niềm say mê mở ra những biên độ sáng tạo, tinh thần hài hước trong các bài giảng, trong những giờ ngoại khóa của thầy McCourt. Cuối cùng, điều cốt yếu mà chúng ta nhận ra trách nhiệm lớn lao, cao trọng nhất đối với người thầy đó chính là bằng tài năng và thiên chức của mình, biết khơi gợi sự sáng tạo nơi giang sơn - lớp học của mình, chống lại sự cưỡng bức trong giáo dục. Vì sự cưỡng bức sẽ hủy hoại thứ cảm xúc lành mạnh, lòng trung thực và sự tự tin nơi học sinh. Cưỡng bức trong giáo dục có nguy cơ sinh ra những công dân chỉ biết run sợ và phục tùng. Xã hội đang rất cần những người thầy biết xua đi nỗi sợ hãi bên lề trái của bảng đen để đem lại động lực hiểu biết, khuyến khích tinh thần tự do sáng tạo nơi mỗi học sinh, mỗi công dân tiến bộ của tương lai. Đó có lẽ là hình mẫu người thầy mà bất cứ xã hội nào cũng mong đợi.   Mời các bạn đón đọc Người Thầy: Hồi Ức của Một Nhà Giáo Mỹ của tác giả Frank McCourt.
Một mình ở Châu Âu - Phan Việt
Bất hạnh là một tài sản Những người đàn bà, họ không một mình ngẫu nhiên tới Paris, Venice, Rome, Florence…   Họ có thể là sinh viên mới ra trường, muốn đến Paris để viết văn; có thể là người đã đi qua một cuộc hôn nhân, giờ đến đó để nhìn lại; có thể là người bấy lâu vẫn mòn mỏi chờ đợi mối tình lớn của đời mình và mong nó xảy ra ở châu Âu… Hoặc họ có thể, như tác giả của cuốn sách này, đến châu Âu một mình để du lịch như một người không quá khứ, không ràng buộc; và để hỏi những câu hỏi bước ngoặt về tình yêu và hôn nhân…   Cuốn sách này, hơn cả một cuốn du ký về những ngày du ngoạn qua các thánh địa mơ ước ở châu Âu, còn là một hành trình nội tâm xuyên suốt, dai dẳng, và không phải không đau đớn.   Có thể thấy điều đó, dẫu chẳng ở châu Âu một mình. Mời các bạn đón đọc Một mình ở Châu Âu của tác giả Phan Việt.
Madam Nhu Trần Lệ Xuân: Quyền Lực Bà Rồng - Monique Brinson Demery
"Ngay cả những người quen thuộc với lịch sử Việt Nam vẫn sẽ thấy kinh ngạc với truờng hợp lạ kỳ của bà Nhu. Monique Demery đã lần ra dấu vết của Bà Rồng quyền lực, nguời đã thú nhận mình yếu đuối và cõi lòng tan nát nhưng không nhận trách nhiệm về vai trò của mình trong cuộc chiến tranh đã hủy hoại nhiều cuộc đời của đất nước bà và của người Mỹ." (Elizabeth Becker - Tác giả cuốn When the War Was Over: Cambodia and the Khmer Rouge) "Một cuốn sách thật sự ấn tượng! Demery đã thâu tóm sống động cuộc đời và thời đại của một trong những nhân vật lạ lùng nhất của Việt Nam. Với lối kể lôi cuốn, sự nghiên cứu tường tận tư liệu từ các nguồn tiếng Pháp, tiếng Việt, và tiếng Mỹ - bao gồm những bài phỏng vấn với bà Nhu - quyển sách của Demery giờ đây là tiêu chuẩn cho việc tìm hiểu về quyền hành văn hóa trong gia đình số một Việt Nam Cộng hòa." (Robert K. Brigham - Giáo sư Lịch sử và Quan hệ Quốc tế, Đại học Vassar) "Đây là câu chuyện mới nhất chưa được kể về chiến tranh Việt Nam - cuốn tiểu sử đầy cuốn hút, riêng tư với kết cục bi thảm của bà Ngô Đình Nhu, Đệ nhất Phu nhân không chính thức của Việt Nam Cộng hòa, người mà quyền lực chính trị và bản tính sắt đá đã mang lại cho mình danh hiệu Bà Rồng. Cuộc đời bà đã khép lại trong cảnh lưu đày và cô liêu vào năm 2011. Monique Demery đã dành mười năm tìm hiểu về nhân vật Bà Rồng khó lường này. Kết quả của sự cần mẫn đó là một quyển sách hay vừa đậm chất học thuật vừa có thể đọc say mê như một câu chuyện bí ẩn thú vị." (David Lam - Tác giả cuốn sách Vietnam Now: A Reporter Returns) "Để hiểu được một phụ nữ - "bí ẩn lớn nhất của tạo hóa" - đã là điều vô cùng khó. Hiểu và nhận xét, đánh giá đầy đủ, chính xác về một phụ nữ lừng lẫy như bà Ngô Đình Nhu, còn là việc khó hơn bội phần! Tôi không thể và không nên làm điều đó. Một cách ngắn gọn và chủ quan, tôi cảm thấy bà là một phụ nữ tài năng và mạnh mẽ hiếm có của Việt Nam trong thế kỷ 20. Sự chủ quan, kiêu ngạo, cùng một thể chế độc tài, gia đình trị, đã đưa bà và những người thân vào một số quyết định sai lầm, dẫn đến sự sụp đổ của một chế độ giờ được nhiều người nhìn nhận lại là dù sao cũng tốt nhất ở miền Nam từ 1954 đến 1975. Nhận xét về cuốn sách này thì dễ hơn: Sách viết công phu, hấp dẫn, đầy ắp thông tin, tư liệu. Tác giả có cố gắng khách quan, dù không giấu đuợc ít nhiều thiện cảm với nhân vật. Bản dịch của Mai Sơn cũng giản dị, dễ đọc, một điều tuởng dễ mà không hề dễ..." (Nhà văn - Nhà báo Nguyễn Đông Thức). Mời các bạn đón đọc Madam Nhu Trần Lệ Xuân: Quyền Lực Bà Rồng của tác giả Monique Brinson Demery.
Cuộc tranh đấu của Tôi - Adolf Hitler
Mein Kampf là tựa đề tiếng Đức của quyển sách do Adolf Hitler làm tác giả bắt đầu từ năm 1924, trình bày tư tưởng và cương lĩnh của ông về Đế chế Đức một khi ông ta lên nắm quyền. Hitler phát động vụ Đảo chính Nhà hàng bia ngày 8 tháng 11 năm 1923 nhưng bị đàn áp một cách đẫm máu, bị án tù bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 năm 1924. Án tù này tạo cho Hitler một thời gian tĩnh lặng để suy nghĩ, phân tích và đặt ra những kế hoạch kinh thiên động địa cho tương lai. Hitler muốn đặt tựa đề cho quyển sách là Bốn năm rưỡi tranh đấu chống lại những dối trá, ngu xuẩn và hèn nhát, nhưng Max Amann, nhân viên quản trị cứng đầu trong ngành xuất bản của Quốc xã, người sẽ lo phát hành quyển sách, phản đối cái tựa nặng nề – và khiến cho sách khó bán chạy – nên đề nghị tựa là Cuộc tranh đấu của tôi (Mein Kampf). Amann cảm thấy thất vọng não nề về nội dung. Thoạt tiên, ông đã hy vọng một câu chuyện cá nhân trong đó Hitler sẽ kể lại bước đường tiến thủ từ một anh "công nhân" vô danh ở Wien đến vị thế nổi tiếng cả thế giới. Ít có phần tiểu sử trong quyển sách. Nhà quản trị kinh doanh của Quốc xã cũng mong những chi tiết nội tình của vụ bạo loạn ở nhà hàng bia, tấn kịch và trò nước đôi mà ông chắc chắn sẽ khiến quyển sách thu hút người đọc. Nhưng Hitler đã quá khôn lanh về điểm này, không muốn khơi lại đống tro tàn trong khi Đảng Quốc xã đang bị loại ra ngoài vòng pháp luật. Không có mấy lời nói đến vụ bạo loạn bất thành trong quyển Mein Kampf. Mời các bạn đón đọc.