Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bố Già

TÁC GIẢ & TÁC PHẨM   Mario Puzo (Mario Gianluigi Puzo, 1920-1999) sinh ra trong một gia đình người Italia nhập cư sang Mỹ. Cha mẹ Mario hoàn toàn mù chữ và tuổi thơ của cậu bé này đã trôi qua “dưới đáy” xã hội ở New York. Trong Chiến Tranh Thế Giới II, Mario Puzo phục vụ trong quân đội Mỹ. Ông từng có mặt trên chiến trường nước Đức và vùng Đông Á. Sau đó Puzo học Cao Đẳng Khoa Học Xã Hội New York và Đại Học Tổng Hợp Colombia rồi công tác gần 20 năm tại các cơ quan của Chính Phủ ở New York và nước ngoài. Năm 1955, Puzo cho ra đời tác phẩm đầu tay mang tên “Đấu Trường Đen”. Đây không phải là một cuốn sách về Mafia mà về cuộc đời một chàng cựu binh Mỹ trong bối cảnh thành phố Berlin hoang tàn sau chiến tranh với những vụ áp phe, buôn lậu, lừa đảo và cả những mối quan hệ nồng ấm tình người. Tuy nhiên, “Đấu Trường Đen” không thuộc số những cuốn sách ấn tượng nhất của Puzo. Từ năm 1963, Mario Puzo bắt đầu tác nghiệp như một phóng viên tự do, đồng thời coi viết văn là công việc nghiêm túc của mình. Năm 1969, với sự xuất hiện lừng lẫy của “Bố Già”, Puzo đã trở thành nhà văn được cả thế giới ngưỡng mộ. Suốt một thời gian dài, “Bố Già” luôn chiếm vị trí đầu trong bảng xếp hạng sách bán chạy nhất hành tinh. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và có con số xuất bản đáng kinh ngạc: 11 triệu bản trong năm 1969 và 21 triệu bản tính đến tháng 7/1999. Bố Già Don Vito Corleone trong tiểu thuyết của ông và những sự kiện bạo liệt quanh ông ta dường như được bao phủ bởi một màu sắc lãng mạn khiến cuốn sách có sức hấp dẫn kỳ lạ. Tuy nhiên Puzo không chỉ dừng lại ở việc lãng mạn hóa “Bố Già”. Tác giả đã xây dựng câu chuyện dựa trên những chất liệu có thật, đã tiểu thuyết hóa các nhân vật bằng những nét miêu tả chân chất. Nhiều tư liệu gần đây về Mafia cho biết Bố Già ngoài đời chính là Don Vito Cascio Ferro, một trong những thủ lĩnh đầu tiên của giới Mafia Italia di cư sang Mỹ. Ông này cầm đầu giới giang hồ ở Sicily (Italia) và sau đó là thống soái của nhóm “Bàn Tay Đen”, tiền thân của Mafia Mỹ. Tuy nhiên, bản thân Puzo thì nói rằng ông chưa bao giờ tiếp cận với một tay gangster bằng xương bằng thịt, rằng nguyên mẫu cho nhân vật bố già chẳng phải ai xa lạ mà chính là mẹ ông, một phụ nữ Italia nhập cư đã phải làm mọi thứ để có thể nuôi sống con cái và giữ cho gia đình hòa thuận. Trong cuốn “Bố Già” Puzo cũng cẩn thận ghi chú rằng: Tất cả nhân vật trong truyện đều là hư cấu và bất kỳ sự trùng hợp nào nếu có đều là ngẫu nhiên… Độc giả cũng như giới phê bình đều công nhận rằng, Puzo đã miêu tả thế giới của “Bố Già" tuyệt vời đến nỗi có người còn ngờ ông là “tay trong” của Mafia. Năm 1972 Francis Coppola đã chuyển thể “Bố Già” thành phim. Sau đó vị đạo diễn tên tuổi này lại đề nghị Puzo hợp tác để viết tiếp kịch bản “Bố Già II”. Bộ phim bất hủ này đã đi vào lịch sử Hollywood và điện ảnh thế giới với các giải Oscar cho phim hay nhất và cho kịch bản hay nhất. Vai diễn Bố Già cũng đem đến cho hai diễn viên gạo cội Marlon Brando và Robert De Niro 2 giải Oscar. Kịch bản cho phim “Bố Già III” (xuất hiện trên màn bạc vào năm 1990) cũng được viết chung bởi Puzo và Coppola. Puzo tâm sự về việc viết “Bố Già” như sau: Một lần tình cờ có một đồng nghiệp ghé đến chỗ tôi. Tôi đã đưa bản thảo “Fortunate Pilgrim” (bản tiếng Việt là Đất Khách Quê Người) cho anh ta đọc. Một tuần sau anh ta quay lại và tuyên bố: Mario là một nhà văn vĩ đại! Tôi rất phấn chấn và đã thết anh bạn một bữa thịnh soạn tại nhà hàng. Trong khi ăn, tôi kể cho anh nghe những câu chuyện về Mafia và đọc một vài đoạn trong bản thảo “Bố Già”. Bạn tôi đã bị sốc. Một tuần sau anh ấy lại đến và nói rằng đã lên lịch hẹn cho tôi gặp một chủ xuất bản. Tại cuộc gặp đó, tôi cũng kể rất nhiều về Mafia. Ông chủ xuất bản rõ ràng là rất thích. Vì vậy ông ta đặt tôi viết một cuốn tiểu thuyết về những chuyện đó và ứng trước cho tôi 5 nghìn đôla. Chuyện xảy ra như thế đấy. Thật kỳ lạ và không thể hiểu nổi. Tôi đã bắt tay vào viết “Bố Già” nhưng thực lòng không hề thấy hứng thú… Tôi viết cuốn sách trong vòng 3 năm. Thời gian ấy tôi đồng thời còn viết cho Martin Gudman một số truyện phiêu lưu mà không đòi hỏi nhuận bút… Độc giả Việt Nam hẳn không xa lạ gì với “Bố Già” - cuốn tiểu thuyết được đánh giá là hay nhất về giới giang hồ Mafia ở Mỹ. Nhà văn Mario Puzo, cha đẻ của “Bố Già” lại thú nhận rằng ông không hề hào hứng khi viết cuốn sách bán chạy nhất này, ông chỉ viết nó vì đang... túng tiền! *** Amerigo Bonasera ngồi ở phòng ba tòa đại hình New York chờ xem công lý được thực thi và lưỡi gươm trừng phạt sẽ bổ xuống đầu mấy thằng mất dạy đã hành hung thành thương tật và toan làm nhục con gái lão. Ngài chánh án uy nghi trang trọng vén tay áo thụng như sắp sửa tự tay mình trị tội hai thằng côn đồ đang đứng trước tòa. Bộ mặt sắt của ngài đầy khinh bỉ, cao ngạo, song ở đây có một cái gì đó giả trá mà Amerigo Bonasera đã nhận thấy bằng trực giác mặc dù còn chưa hiểu ra sự thể. — Hành động của các người là hành động của bọn cặn bã mạt hạng, - ngài chánh án lớn tiếng. “Đúng", Bonasera nghĩ bụng, “đúng thế! Lũ súc sinh. Loài dã thú". Hai thằng thanh niên tóc bóng mượt cắt đúng mốt, mặt mày sáng sủa lộ rõ vẻ ăn năn, hai đứa cúi đầu cam chịu. Quan chánh án phán tiếp: — Các người hành động như lũ dã thú trong rừng, may mà cô gái đáng thương chưa bị các người xâm phạm tiết hạnh, bằng không ta phải nhốt các người đủ hai chục năm mới nghe. - Ngài dừng lại một lúc, cặp mắt cáo bên dưới đôi lông mày rậm rì nhíu lại dữ tợn đảo nhanh qua bộ mặt tái ngắt của Bonasera. Rồi càng sa sầm mặt với vẻ dữ tợn hơn, so vai như để kìm cơn giận tự nhiên, ngài kết thúc. - Nhưng xét các người còn trẻ, trước đây chưa có tiền án, vả lại đều là con nhà tử tế, mặt khác luật pháp là cực kì sáng suốt, đặt ra không phải để trả thù, nên ta tuyên phạt mỗi tên ba năm tù. Cho phép các người được hưởng án treo. Chỉ nhờ thói quen bốn chục năm nghề nghiệp mới giúp ông chủ xe đòn Bonasera đủ sức ghìm cơn giận không để lộ ra ngoài mặt. Đứa con gái trẻ trung tươi tắn của lão giờ này vẫn phải nằm bệnh viện với cái xương hàm gẫy, thế mà bọn súc sinh kia lại được thả rông ngoài đường. Ra người ta diễn trò hề với lão đây. Đám cha mẹ, họ hàng của chúng đang hớn hớ xúm quanh hai cậu quí tử. Bọn họ làm sao mà không hớn hở cơ chứ. Cổ họng Bonasera đắng ngắt, nước dãi chua loét tứa ra đầy mồm đằng sau hai hàm răng nghiến chặt. Lão rút chiếc khăn tay phin nõn ở túi ngực ra bịt mồm, đứng đực giữa lối đi, còn hai thằng khốn nạn thì trâng tráo đi ngang qua mặt lão, mồm nhếch lên cười nhạt, thậm chí còn không thèm nhìn đến lão. Lão để chúng đi qua mà không nói một lời, chỉ áp chặt hơn chiếc khăn vào mồm. Cha mẹ chúng đi sau, hai bà và hai ông cùng trạc tuổi lão có điều ăn mặc ra dáng Mĩ nòi. Mấy người này nhìn lão có vẻ lúng túng nhưng đầy thách thức và đắc thắng ngấm ngầm. Không nhịn nổi, Bonasera nhoài người ra hét lớn: — Các người cứ chờ đấy, rồi các người sẽ được khóc như ta đã từng khóc. Thấy vậy mấy ông luật sư đi đằng sau vội đẩy các thân chủ tới chỗ mấy thằng con đang dừng lại hầm hừ như chực nhảy vào bênh bố mẹ. Một tay mõ toà to như hộ pháp vội chạy ra đứng chặn lối, sợ Bonasera làm liều. Nhưng rốt cuộc chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Bao nhiêu năm làm ăn sinh sống ở xứ này Bonasera luôn tin ở pháp luật và trật tự kỉ cương. Dựa vào đâu thì ăn nhờ đấy. Ngay cả lúc này, tuy đầu óc lão cứ ong ong vì uất hận ngất trời, căm gan tức ruột chỉ muốn thửa ngay một khẩu súng bắn chết toi hai thằng chó cho hả, nhưng Bonasera vẫn phải cắn răng quay sang bà vợ đang ngớ ra chẳng hiểu ngô khoai gì hết. — Người ta lỡm vợ chồng mình đấy, - lão nói. Lão im bặt, máu liều bốc lên. Lão quyết định dứt khoát, muốn đến đâu thì đến: “Muốn có công lý thì phải đến kêu cửa Ông Trùm Corleone". *** Tại Los Angeles, một mình giữa căn phòng Deluxe sang trọng choáng người trong khách sạn, Johnny Fontane cũng mượn rượu giải sầu như bất kỳ một anh chàng mọc sừng nào. Hắn nằm duỗi dài trên chiếc đivăng đỏ, cầm nguyên cả chai mà tu rồi úp mặt vào cái thố pha lê đựng đá liếm nước lạnh cho thông họng. Lúc đó là bốn giờ sáng, trí tưởng tượng mờ mịt hơi men của hắn đang hình dung cảnh hắn tẩn con vợ đĩ thõa lúc con kia về, nếu như nó còn về. Muộn rồi chứ không thì phôn một cú đến cô vợ cũ hỏi thăm mấy đứa con cho đỡ sầu. Không hiểu sao hắn không muốn gọi tới mấy đứa bạn, nhất là từ dạo công việc của hắn bắt đầu xuống dốc. Có thời được hắn gọi điện vào lúc bốn giờ sáng là bọn kia sướng lắm. Giờ thì chẳng ma nào thèm biết hắn. Mà kể cũng lạ, lúc hắn đang lên, hễ mới hơi khó ở một chút là các minh tinh sáng giá nhất nước Mĩ đã tới tấp hỏi thăm ngay. Hay thật! Hắn lại đưa chai rượu lên mồm, và rốt cuộc cũng nghe thấy tiếng chìa khoá xoay ngoài cửa. Johnny cứ ngậm nguyên chai rượu cho tới khi vợ hắn vào phòng và dừng lại trước mặt hắn: Xinh đẹp, con mắt tim tím mơ mộng lả lơi, gương mặt thần tiên, thân hình thon thả, óng chuốt. Cả triệu đàn ông khắp thế giới mê mệt Margot Ashton, chịu xì tiền ra để được ngắm ả trên màn bạc. — Phất phơ đâu về? - Johnny lè nhè hỏi. — À, đi ngủ với trai, - Ả đáp. Ả tính hơi nhầm, hắn chưa phải đã say khướt. Hắn nhảy chồm qua cái bàn con để báo, túm ngay lấy cổ áo dài của ả. Nhưng vừa kéo khuôn mặt thần tiên kia đến gần thì bao nhiêu tức giận của hắn trôi tuột đi đâu mất, người hắn nhũn ra. Cô ả tớn môi chế nhạo và lại một lần nữa tính nhầm, Johnny vung nắm đấm lên. — Cấm đánh vào mặt đấy nhé! - Ả hét thất thanh, - Người ta đang đóng phim đấy, Johnny! Cú đấm trúng ngay ức làm ả ngã chỏng gọng. Hắn đè lên, đấm như bổ củi xuống vai, xuống hông, xuống cặp đùi mịn màng rám nắng. Hắn quần ả như ngày nhỏ vẫn nện bọn nhãi ranh thò lò mũi ở “Rốn Hỏa Ngục", tức là Khu Ổ Chuột của New York. Đòn của hắn ngấm đáo để tuy không gây thương tích như gẫy răng, vỡ mũi. Mà nói vậy chứ hắn còn nương tay. Hắn không thể làm khác được. Thế là ả lại cười vào mũi hắn. Ả xoạc cẳng nằm tô hô, lớp váy lụa thêu bên trong lộ ra, tru tréo: — Đây này, đánh nữa đi, đánh đi... ăn thua mẹ gì! Johnny chán ngán bò dậy. Tức anh ách mà không đánh được con đĩ, nó đẹp quá. Margot lật sấp người, nhẹ nhàng nhún mình bật dậy rồi vừa õng ẹo vừa nhè mồm ra trêu như một con bé con: — Ê, ê... đếch đau. Ê, ê... đếch đau. Rồi nghiêm mặt, ánh mắt lộ rõ vẻ ngán ngẩm, ả nói thêm: — Chán mớ đời, mày đè đau cả bụng chị đây này, bé con ạ. Chà! Johnny, mày suốt đời vẫn chỉ là con nghé con, đến cả làm tình cũng chẳng bằng đứa trẻ ranh. Mày tưởng như trong các bài mày vẫn rống ông ổng dạo trước đấy hả? - Ả lắc đầu. - Gà tồ? Thôi, khỏe nhé, Johnny. Ả vào phòng ngủ và khóa trái cửa lại. Johnny ngồi bệt xuống sàn, tay bụm mặt. Uất ức, nhục nhã, thất vọng ê chề. Nhưng vốn là đứa trẻ lang thang trong Khu Ổ Chuột New York, cuộc đời chìm nổi ngày xưa đã giúp hắn sống sót trong miền rừng hoang Hollywood, bây giờ lại thức tỉnh hắn cầm máy gọi taxi ra sân bay. Còn một người có thể cứu hắn. Miễn là về được New York gặp người ấy, kẻ duy nhất giúp hắn tìm được sức mạnh và sự khôn ngoan mà lúc này hắn đang thiếu, một người thực sự yêu thương hắn. Đó là Bố Già của hắn, Ông Trùm Corleone. *** Bác thợ bánh Nazorine hồng hào tròn xoay như những chiếc bánh kiểu Italia nở phồng của bác. Người vẫn dính đầy bột mì, bác lừ mắt nhìn bà vợ và cô con gái đến tuổi cập kê rồi quay sang gã giúp việc Enzo, đã kịp đóng bộ quần áo đính băng vải có hai chữ “Tù Binh" viết tắt màu xanh, đang lo ngay ngáy sợ muộn giờ điểm danh tối ở trại trên Đảo Thống Đốc. Giống như hàng ngàn tù binh Italia hàng ngày đến làm cho các chủ Mĩ sau khi đã cam đoan, Enzo sống nơm nớp, chỉ sợ mất cái đặc ân ấy thì meo. Vì thế nên cái màn hài kịch đang diễn ra ở đây đối với anh quá ư là nghiêm trọng. — Chú định để tai tiếng cho gia đình tôi đấy phỏng? - Nazorine gầm gừ. - Chiến tranh sắp hết, chú định tương cho con bé nhà tôi một món quà kỉ niệm chứ gì? Rồi sau thế nào thì ai còn lạ gì nữa: Nước Mĩ thúc cho chú một gối vào đít là chú mình phới luôn về Sicily đếm rệp ở quê nhà hả? Enzo, người lùn tịt, chân cẳng ngắn ngủn, vội ấp tay lên ngực như muốn khóc, tuy vậy vẫn tỉnh lắm: — Padrone, thề có Đức Mẹ Đồng Trinh, nào cháu có dám lấy oán trả ân bác đâu. Cháu yêu thương con gái bác thực bụng, đời nào lại dám sàm sỡ. Tiện đây, xin bác cho cháu lấy cô ấy. Cháu thực không nên không phải, song nếu người ta trả cháu về Italia thì bao giờ cháu mới sang Mĩ được? Nếu vậy ngày nào cháu với Katherine mới nên vợ nên chồng? Bà Filomena vợ bác không thích dông dài, nói toang toác luôn: — Đừng có mà ngốc thế, bố nó - Bác ta bảo ông chồng - Làm thế nào thì bố mày biết rồi đấy. Thằng Enzo cứ để nó ở đây, có gì bố mày đưa nó sang chỗ bà con mình bên Long Island gửi gắm ít lâu xem sao đã. Katherine khóc lên khóc xuống. Người đã béo trục béo tròn, mép lại lấm tấm tí ria, nó có đẹp đẽ gì cho cam. Biết tìm đâu một tấm chồng điển trai bằng Enzo bây giờ. Lấy ai mà xoa bộ ngực tú ụ của nó cho nồng nàn và mơn trớn như chàng? — Tôi về Italia tôi ở cho bố trắng mắt ra! - Nó giãy nẩy lên với ông bố.- Bố mà không giữ anh ấy lại thì tôi bỏ bố tôi đi? Hư... hư... Nazorine tinh quái nhìn nó. Con bé nhà mình gớm thật! Bác đã trông thấy: Hễ mỗi lần thằng bé phải lách qua sau lưng nó để xếp bánh vào giỏ là y như rằng con ranh lại miết bàn tọa vào người thằng kia sát sạt. “Cứ cái đà này không khéo thằng lỏi còn lách vào tận đâu ấy chứ - Nazorine thầm cho phép mình nghĩ bậy. - Phải giữ thằng Enzo lại Mĩ, phải xoay cho nó cái quốc tịch. Và chỉ có một người làm nổi việc ấy: Bố Già. Ông Trùm Corleone". Mời các bạn đón đọc Bố Già của tác giả Mario Puzo & Đoàn Tử Huyến (dịch) & Trịnh Huy Ninh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhà Bếp
Nhà Bếp là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Banana Yoshimoto, ngay khi vừa giới thiệu với độc giả, cuốn sách đã tạo nên "Hội chứng Banana" ở Nhật Bản với 2,5 triệu bản sách được tiêu thụ và tái bản trên sáu mươi lần. Ngoài ra, cuốn sách còn được chọn là món quà gửi tặng các đại biểu ngoại quốc tham gia Hội nghị thượng đỉnh G7 tại Nhật năm 1993.   Tình yêu bình thường trong một hoàn cảnh bất thường Sakurai Mikage, cô gái trẻ luôn ám ảnh về gia đình chỉ có duy nhất một người, cuối cùng đã thực sự chỉ còn lại một mình sau khi bà cô mất. Người bà yêu hoa cỏ đã để lại cho cô một mối an duyên trong đời – người bạn vong niên của bà, chàng trai Tanabe Yuichi phụ việc ở cửa hàng hoa. Khi cô định chuyển nhà, Yuichi đề nghị cô đến sống tạm tại nhà anh. Theo một lẽ rất tự nhiên, Mikage biết được bí mật về người cha chuyển giới xinh đẹp mà Yuichi gọi bằng mẹ khi sống chung cùng gia đình anh. Với Nhà Bếp, mọi sự thấu hiểu và ngơi nghỉ của tâm hồn lạc lõng đều neo đậu ở căn bếp gọn ghẽ, tinh tươm thông với phòng khách nhà Tanabe. Họ uống trà, nói với nhau những câu chuyện không đầu không đũa, Mikage nấu ăn và Yuichi phụ bếp nhưng từ đó trở đi họ tìm thấy một nửa đồng điệu trong niềm cô đơn riêng của mỗi người. Nỗi cô đơn mà người yêu trước đó của cả hai đều không bao giờ chạm tới được.  Với Nhà Bếp, mọi sự thấu hiểu và ngơi nghỉ của tâm hồn lạc lõng đều neo đậu ở căn bếp gọn ghẽ, tinh tươm thông với phòng khách nhà Tanabe. (Ảnh: Tú Anh) Suốt hồi chuyện dài, người đọc không tìm thấy đâu một câu thổ lộ nhưng vẫn nhận ra những chuyển điệu tinh vi của tình yêu. Sau cái chết bất ngờ của mẹ Yuichi, cả hai đều nhận ra điều không nói. Nhưng nỗi sợ mất đi người thân duy nhất, sợ phải một mình án ngữ giữa tình yêu của hai tâm hồn nhạy cảm. Họ vẫn im lặng, lời nói có gì quan trọng nữa đâu vì tình yêu bắt đầu bằng tình thương sẽ luôn ở đó, không lay chuyển khó đổi dời. Mikage vẫn rúc vào áo của Yuichi khi trời trở lạnh. Yuichi từ chối một lời tỏ tình vì tự hỏi “còn Mikage thì sao?” Nhưng cuối cùng, giữa tình yêu và nỗi sợ hãi, tình yêu vẫn cho những kẻ đang yêu nhiều dũng khí hơn. Từ vùng Izu xa xôi, Mikage đã mang món mì katsudon nóng hổi đến chỗ Yuichi chỉ để nói với anh: “Nếu từ nay, có thêm mình ở bên có thể Yuichi sẽ phải chứng kiến thêm những điều cực nhọc, những điều phiền toái và cả những điều khó chịu nữa nhưng chỉ cần Yuichi đồng ý thôi cả hai chúng mình sẽ đến một nơi nào đó nhọc nhằn hơn nhưng cũng tươi sáng hơn...” Đừng chỉ dán nhãn “nữ tính” cho người yêu bếp Mikage yêu bếp, dù là căn bếp sạch sẽ hay bẩn thỉu, miễn là bếp Mikage sẽ đặt trọn lòng yêu. Mikage tin rằng khi đứng ở bếp “tất cả mọi thứ sẽ trở lại lúc ban sơ và thế nào rồi cũng có điều gì đó sẽ quay về”. Cô yêu bếp đến độ muốn trút hơi thở cuối cùng trong bếp. Từ lâu, bếp là không gian được dán nhãn “nữ tính”. Nhưng tình yêu của Mikage dành cho bếp trong Nhà Bếp thể hiện đặc quyền phái tính theo một cách riêng.  Hình ảnh người cha chuyển giới Eriko mà Yuichi gọi là mẹ cũng đem đến cho người đọc một suy nghĩ khác về sự nữ tính. Sau khi mẹ của Yuichi qua đời, Eriko quyết định chuyển giới để nuôi dưỡng Yuichi trong vai trò người mẹ. Ở Eriko, bản chất đàn ông đã được hoán đổi với bản thể phụ nữ, trách nhiệm của người cha đã nhường chỗ cho tình yêu của người mẹ. Để có một Yuichi tốt bụng, dịu dàng cả khi nói và cười đều điềm tĩnh, Eriko đã nuôi dưỡng anh bằng tất cả sự cao nhã, lịch thiệp, giàu lòng vị tha và cả sự “nữ tính đàn ông” của mình.  Như một mạch nước ngầm trong trẻo, mát lành nhưng thâm trầm, Nhà Bếp chảy sâu vào nội tâm những người đọc luôn phải lòng lối văn chương điềm đạm, hướng nội.  Tôi nhớ mãi tâm sự của Mikage: “Còn lại tôi và bếp. Dẫu sao như thế vẫn còn hơn nghĩ rằng còn lại một mình.”  Tú Anh/ kilala.vn *** Tôi nghĩ rằng nơi tôi yêu thích nhất trên thế gian này là bếp. Chỉ cần nó là bếp, chỉ cần nó là nơi nấu ăn, thì dù ở nơi đâu, như thế nào, tôi cũng cảm thấy không còn buồn bã. Nếu nó được sử dụng thường xuyên, đúng nghĩa của một cái bếp thì càng tốt. Những chiếc giẻ lau khô ráo, tinh tươm và những tấm đá ốp tường trắng lóng lánh. Tôi yêu cả những cái bếp vô cùng bẩn thỉu. Tuyệt vời nhất là khi cái nền bếp cáu bẩn, vung vãi đầy những mẩu vụn rau, khiến cho đế dép phải đen kịt ấy lại thật rộng, mà rộng một cách khác thường. Cái tủ lạnh khổng lồ xếp đủ lượng thực phẩm cho tôi dễ dàng vượt qua cả một mùa đông đang đứng đó sừng sững, và tôi tựa mình vào cánh cửa màu nhũ bạc của nó. Tôi bất giác rời mắt khỏi bệ đặt bếp ga tung tóe dầu ăn cùng chiếc dao phay han gỉ, và nhìn lên, đã thấy một vì sao cô đơn đang lấp lánh bên ngoài cửa sổ. Còn lại tôi và bếp. Dẫu sao như thế vẫn còn hơn nghĩ rằng chỉ còn lại một mình. Vào những lúc thực sự mệt mỏi, tôi thường đắm chìm vào một ý nghĩ, rằng nếu một ngày nào đó phải chết, tôi muốn trút hơi thở cuối cùng ở trong bếp. Tôi sẽ không hề run rẩy mà sẽ nhìn thật kĩ mọi thứ, dù cho đó là vào thời khắc lạnh lẽo chỉ có một mình tôi, hay ở nơi ấm áp và có người nào khác nữa. Thật tốt biết mấy nếu điều đó xảy ra ở trong bếp. Trước khi được gia đình Tanabe đem về nhà, ngày nào tôi cũng ngủ trong bếp. Chẳng hiểu sao, nằm chỗ nào cũng cảm thấy khó ngủ, nên tôi cứ thế nhích dần ra khỏi phòng để tới chỗ dễ ngủ hơn, và rồi vào một buổi sớm, tôi chợt nhận ra rằng bên cạnh chiếc tủ lạnh là nơi tôi có thể ngủ ngon lành nhất. Tôi tên là Sakurai Mikage, cha mẹ tôi đều chết lúc còn trẻ. Kể từ đó, ông bà đã nuôi nấng tôi. Ông tôi mất khi tôi bắt đầu lên học cấp hai. Và thế là hai bà cháu tôi cùng sống với nhau cho tới tận bây giờ. Mấy ngày trước, bà tôi mất. Tôi bàng hoàng. Mỗi lần bất chợt nghĩ ra, rằng gia đình tôi, một thứ đã tồn tại thật trên cõi đời này, cứ mất dần đi từng người, từng người theo năm tháng, và rốt cuộc chỉ còn lại mình tôi nơi đây, tôi bỗng thấy mọi thứ trước mắt đều giống như một lời nói dối. Trong căn phòng nơi tôi sinh ra và lớn lên, tôi sững sờ vì thời gian qua đi đã để lại những vết chân hằn sâu đến thế và chẳng còn ai khác nữa ngoài tôi. Giống như một câu chuyện khoa học giả tưởng. Hay bóng đen của vũ trụ. Tôi không nghĩ ngợi được gì trong suốt ba ngày sau khi đám tang kết thúc. Tôi khẽ kéo lê cơn buồn ngủ dịu nhẹ, thường kèm theo nỗi đau buồn đã bão hòa khi mà nước mắt không còn chảy ra được nhiều nữa, và trải tấm đệm bông lên trên sàn bếp tĩnh lặng sáng trưng. Tôi cuộn mình trong chiếc chăn lông giống như cậu bé Linus (1) và ngủ. Tiếng tủ lạnh chạy ro ro giữ cho tôi khỏi trượt theo những ý nghĩ cô độc. Ở đó, một đêm dài êm ả trôi qua và sớm mai đã tới. Thực tình, chỉ là vì tôi muốn được ngủ dưới những vì sao. Và thức dậy trong ánh nắng của một ngày mới. Ngoài điều đó ra, mọi thứ khác đều trôi qua bằng lặng. Nhưng! Tôi không thể sống như thế được nữa. Hiện thực quá sức chịu đựng. Dẫu bà tôi có để lại cho tôi bao nhiêu tiền đi chăng nữa, thì căn phòng ấy vẫn quá rộng và quá đắt đối với tôi, nếu tôi chỉ có một mình. Tôi phải đi tìm một căn hộ khác. Đành phải vậy, tôi mua tờ Thông tin căn hộ cho thuê về và giở ra xem thử, nhưng những căn hộ chẳng khác gì nhau đứng xếp hàng la liệt trên đó làm tôi thấy chóng mặt. Chuyển nhà, sẽ mất thời giờ. Và công sức. Mà lòng tôi thì lại đang buồn bã, và nữa, tối ngày ngủ trong bếp khiến các khớp xương khắp mình mẩy tôi đau nhức, làm sao có thể nghĩ đến chuyện làm cho cái đầu bất cần này tỉnh táo lại để đi xem nhà bây giờ! Rồi chuyển đồ nữa chứ! Rồi mắc điện thoại nữa chứ! Chỉ cần nghĩ tới những phiền toái có thể nêu ra cả đống như thế là tôi đã thấy tuyệt vọng và lại lăn ra ngủ. Tôi vẫn còn nhớ rõ buổi chiều ấy, khi mà điều kỳ diệu, như một bà tiên, bất chợt viếng thăm. Píng poong! Bỗng nhiên chuông cửa vang lên. Một buổi chiều mùa xuân giăng làn mây mỏng. Tôi đã ngán đến tận cổ việc phải liếc qua tờ Thông tin căn hộ cho thuê, mà đằng nào thì tôi cũng phải chuyển nhà cơ mà, thế là tôi cắm cúi lấy dây bó đống tạp chí lại. Tôi chạy vội ra, một nửa người vẫn đang mặc đồ ngủ, chẳng nghĩ ngợi gì, tôi mở chốt cửa. Đứng đó là Tanabe Yuichi (thật may không phải là một tên cướp). - Cảm ơn cậu về việc hôm trước. - Tôi lên tiếng. Đó là một cậu thanh niên tốt bụng, kém tôi một tuổi. Cậu ta đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong đám tang của bà. Hỏi ra mới biết cậu ta học cùng trường đại học với tôi. Nhưng lúc này tôi đang nghỉ ở trường. - Không có gì. - Cậu ta đáp. - Cậu đã quyết định sẽ ở đâu chưa? - Chưa quyết định gì cả. - Tôi cười. - Mình cũng đoán vậy. - Cậu vào nhà uống một tách trà đã chứ? - Thôi. Bây giờ mình rất vội vì đang phải đi có chút việc. - Cậu ta cười. - Mình chỉ định tạt qua nhắn cậu cái này thôi. Mình đã bàn với mẹ rồi, cậu đến nhà mình ở ít lâu đi. - Sao cơ? - Tôi giật mình hỏi lại. - Trước mắt, khoảng bảy giờ tối nay cậu tới nhé. Đây, bản đồ đây. - Ờ. - Tôi lơ đễnh nhận lấy mẩu giấy chỉ đường. - Thế thôi, chào nhé. Cả mình và mẹ đều rất mong Mikage đến đấy. - Yuichi cười. Nụ cười rạng rỡ quá khiến cho đôi đồng tử của cái người đang đứng đó, nơi thềm cửa quen thuộc, nhìn như gần lại rất nhiều làm tôi không sao rời mắt được. Cũng có thể vì đột nhiên cậu ta gọi đến tên tôi. -... Chắc chắn mình sẽ đến. Nếu nói một cách nhảm nhí thì rất có thể ma quỷ đã xúi giục tôi. Nhưng tôi tin cậu ta vì cái thái độ điềm nhiên ấy. Những khi bị ma quỷ dẫn lối, bao giờ tôi cũng chỉ còn nhìn thấy một con đường chạy thẳng trước mặt trong bóng tối. Và lần này cũng thế, con đường đó lại hiện ra, sáng lóa và đầy chắc chắn, nên tôi mới trả lời như vậy. Cậu ta nói: Gặp lại sau nhé, rồi cười và đi mất. Tôi hầu như không biết cậu ta cho tới đám tang của bà. Ngày làm lễ, lúc Yuichi tới, quả thực tôi đã tưởng cậu ta là người yêu của bà. Vừa thắp hương, cậu ta vừa nhắm nghiền đôi mắt đã đỏ lên vì khóc và run rẩy bàn tay, rồi khi nhìn thấy di ảnh của bà, cậu ta lại giàn giụa nước mắt. Trước cảnh tượng đó, bất giác tôi thấy tình yêu của mình dành cho bà chắc hẳn còn xa mới bằng được con người ấy. Cậu ta nom đau buồn đến thế. Và rồi, vừa ấp chiếc khăn mùi-soa vào mặt, cậu ta vừa đề nghị: - Để mình giúp cậu việc gì đó nhé. Vì thế mà sau đấy tôi đã nhờ cậu ta giúp biết bao nhiêu việc. Tanabe Yuichi. Có lẽ vì đang rối bời nên phải mất khá nhiều thời gian tôi mới nhớ ra đã nghe bà nhắc tới cái tên đó vào khi nào. Mời các bạn mượn đọc sách Nhà Bếp của tác giả Banana Yoshimoto & Lương Việt Dũng (dịch).
Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)
Anna Karenina là một tiểu thuyết của nhà văn Nga, Lev Nikolayevich Tolstoy, được đăng tải nhiều kỳ trên tờ báo Người đưa tin từ năm 1873 đến năm 1877 trước khi xuất bản thành ấn phẩm hoàn chỉnh.   Lev Tolxtoi (1828 - 1910) là một trong những nhà văn cổ điển lớn nhất nước Nga, đã viết nhiều tác phẩm nổi tiếng:   - Truyện kể về Xevaxtopol,   - Luyxerno, Bốn năm sau khi viết xong Chiến tranh và Hòa bình, ngày 19-3- 1873, L. Tolstoi lại hạ bút viết dòng đầu tiên của cuốn tiểu thuyết dài Anna Carenina. Cũng như nhiều nhà văn hồi đó, Tolstoi chịu ảnh hưởng của Puskin. Ông nói: "Tôi học tập được nhiều ở Puskin, ông là người cha của tôi, ta nên học tập ông". Đây không phải là ảnh hưởng bề ngoài về cách viết, giọng văn; cũng không phải là vay mượn, bắt chước cốt truyện này nọ. Những tác phẩm Puskin đã khơi dậy tất cả sức lực sáng tác sẵn có của Tolstoi, thôi thúc ông làm việc và gợi nhiều ý sáng tác tốt, mới. *** Anna Karenina - Nàng thơ với vẻ đẹp u buồn của Lev Tolstoy Nếu bài thơ Tôi Yêu Em của thi hào Nga Pushkin được khởi nguồn từ mối tình không thành với con gái viện sĩ viện Hàn lâm Nga thì cuốn Anna Karenina của Lev Tolstoy được lấy ý tưởng từ con gái của Pushkin. Đó là cô Maria Pushkina. Trong lần đầu gặp gỡ Pushkina tại bữa ăn tối, Lev Tolstoy đã bắt đầu lưu ý tưởng viết cuốn sách ấy. Cũng có thể nói con gái nhà thơ Pushkin chính là nguyên mẫu của hình tượng nàng thơ Anna Karenina trong cuốn tiểu thuyết của tên. Kể từ ngày đầu phát hành vào năm 1877, cuốn sách Anna Karenina đã gây được tiếng vang trong giới phê bình văn học Nga. Cuộc sống khắc họa một bóng dáng nàng thơ u buồn Anna Karenina. Cô sống trong vòng dây xiềng xích, trói buộc tự do trong xã hội Nga những năm bất ổn chính trị với tư tưởng phong kiến già cỗi. Anna Karenina vốn rất yêu tiểu thuyết, cô đọc nhiều cuốn sách và cảm thấy như đó là cách để cô sống những cuộc đời khác. Những cuộc đời tự do, tự chủ và hạnh phúc hơn. Những thứ mà cô chưa từng biết đến, chưa từng nếm trải. Mọi chuyện bắt đầu từ lòng ham mê quyền thế và tiền bạc của bà cô của Anna. Bà đã đem Anna gả cho Karenin, một người có danh vọng và quyền lực, một người mà Anna không có tình yêu. Cuộc hôn nhân ấy đem đến cho gia đình Anna những lợi ích lớn. Anh trai của cô trở thành Chánh án dù có thành tích học tập không tốt. Tất cả là nhờ quyền lực của Karenin. Và cuộc hôn nhân ấy cũng chấm dứt tất cả cuộc đời tự do, hạnh phúc của Anna Karenina. Cuốn sách một nghìn trang: một xã hội Nga đương thời thu nhỏ Ngài Karenin, chồng của Anna là một người có danh vọng và địa vị trong chính trường. Vì thế ông luôn quan tâm cách xã hội thượng lưu nghĩ gì về mình hơn là tự yêu thương và nhìn nhận bản thân. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Sống ở đời đau khổ nhất là nhìn người khác mà sống và sống để người khác nhìn.". Có lẽ Karenin chính là loại người như vậy. Ngài luôn làm theo những gì giới thượng lưu trông đợi, khiến mọi người phải ngưỡng mộ. Đó là thứ sĩ diện hão vốn phổ biến và bao trùm lên nước Nga trong những năm đầy biến động. Mọi thứ trong cuộc đời ngài Karenin đều vận hành như kế hoạch bản thân vẽ ra. Kể cả việc lấy vợ, kết hôn cùng Anna Karenina cũng là vì muốn giới thượng lưu nhìn thấy, mọi người ngưỡng mộ. Karenin lấy Anna vì cho rằng mình phải làm như vậy. Vì Anna là một người phụ nữ học thức, có khả năng quán xuyến gia đình, xã giao với giới thượng lưu, chứ không phải vì yêu và hoàn toàn không có tình yêu. Hôn nhân chỉ là một thứ làm đầy đủ, trang hoàng cho những thứ mà ngài Karenin có. Là thứ làm đẹp dòng họ Karenin trong xã hội Nga đương thời. Nhiều người vẫn nghĩ rằng Anna Karenina khi lấy ngài Karenin, đặt chân vào giới thượng lưu sẽ có cuộc sống hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của người thiếu phụ trẻ ấy trong tám năm hôn nhân lại là những cuộc móc nối quan hệ thượng lưu theo ý của chồng. Ngài Karenin luôn muốn Anna phải làm quen với những phu nhân, tiểu thư của tầng lớp quý tộc giúp ngài. Khi ấy ngài sẽ dễ dàng trong con đường sự nghiệp hơn. Anna Karenina không thích tiệc tùng, cô chưa từng muốn đặt chân đến những nơi ấy. Cô yêu tiểu thuyết, yêu nghệ thuật, yêu những thứ gọi là cái đẹp, gọi là tự do. Nhưng cô lại sống suốt tám năm trong cái cuộc sống, trong cái xiềng xích khóa chặt tự do mà chính người cô ruột của mình đã đặt lên cổ mình. Chỉ vì tiền, người cô ruột đã đem Anna gả cho ngài Karenin. Và chỉ vì tiền mà bà cô ấy đã đốt tự do, hạnh phúc đời đứa cháu ruột Anna của mình cháy thành tro tàn. Chuyến xe lửa tình cờ Anna sẽ sống trong sự sắp đặt đến hết cuộc đời mình mãi cho đến khi cô đi chuyến xe lửa tình cờ ấy, gặp con người định mệnh đó. Đó là chàng sĩ quan Vronsky. Đại úy Vronsky là con người tự do, quyết đoán và can đảm. Anh từng nói: "Tôi sinh ra là người Digan và sẽ chết như người Digan.". Digan vốn là một tộc người yêu tự do, thích lang thang và phóng khoáng. Sĩ quan Vronsky cũng vậy, anh thích sống và yêu một đời tự do. Nhưng anh lại yêu Anna, một người không được phép sống cuộc đời đó. Đại úy Vronsky phải lòng Anna Karenina trên đoàn tàu xa lạ không hẹn ước. Chỉ một thoáng lãng mạn chàng sĩ quan đã không thể quên cô. Nhưng sau vài lần gặp gỡ, Vronsky nhận ra, có lẽ anh với Anna là yêu nhưng không thể yêu. Anh bước xuống, cố gắng không nhìn cô quá lâu như kiểu người ta tránh nhìn mặt trời. Nhưng cũng như mặt trời, anh vẫn trông thấy cô dù chưa một lần chạm mắt Người thiếu phụ ấy dẫu bị ép lấy ngài Karenin nhưng họ vẫn là vợ chồng. Dẫu họ không hạnh phúc, Anna không hạnh phúc nhưng giới thượng lưu lại công nhận họ hạnh phúc. Còn Vronsky chẳng là gì cả, anh chỉ là một người trót yêu Anna. Một người xa lạ bên chuyến tàu định mệnh đem đến cho Anna sự hy vọng đầu tiên trong đời. Nhưng có lẽ đó chính là sự hy vọng muộn màng và bi thương. Người ta vẫn hay nói một câu rất hay: "Một trong những đau đớn của đời người là lúc chưa có năng lực lại gặp người mình muốn chăm sóc cả đời.". Có lẽ câu nói này giống với số phận của sĩ quan Vronsky. Lúc trong tay anh không có gì cả, lại gặp được người anh muốn che chở một đời. Gặp đúng người, nhưng lại sai thời điểm. Vronsky đã gặp Anna muộn mất tám năm trong khi cô đang đau khổ. Nhưng anh không thể bước tiếp mà chỉ có thể lùi lại phía sau. Vì Vronsky đã chậm mất tám năm, lỡ mất một đời. Vronsky không thể bước tiếp, còn Anna Karenina, cô lùi bước. Cô trở về Matxcova, kết thúc chuyến thăm quê sớm hơn dự kiến. Và chấm dứt hy vọng cuối cùng của mình với Vronsky. Màu sắc lãng mạn làm nền cho yếu tố hiện thực và tư tưởng tự do Qua cuốn sách Anna Karenina, Lev Tolstoy muốn chứng minh một điều rằng lãng mạn không phải là thứ vẻ đẹp để tô hồng cho cuộc sống hàng ngày. Lãng mạn không phải thứ xa xỉ mà người ta vẫn nói với nhau. Không phải là thứ sách viết về mở đầu thì phải yêu nhau đắm đuối. Không phải là thứ sách gợi cho người đọc quan tâm đến kết thúc là đau khổ hay vui vẻ, cặp đôi yêu nhau có đến nhau được hay không. Sau tất cả đó chỉ là tình yêu chứ không là gì cả, không có ý nghĩa nhân văn nào cả. Anna Karenina là cuốn sách muốn nói với người đọc và xã hội đương thời rằng tự do còn quan trọng hơn cả tình yêu, con người cần yêu trong tự do và đó là quyền của họ. Trong hiến pháp của Mỹ năm 1877, Tổng thống Washington đã tuyên bố rằng: Chúng tôi khẳng định những chân lý này là hiển nhiên, mọi người sinh ra đều bình đẳng, họ được Tạo hoá ban cho một số quyền tất yếu bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhưng cuộc đời của Anna Karenina lại không có những quyền đó. Cô đã không hạnh phúc, không có quyền hạnh phúc. Đã không có tự do, bị ép sống không có tự do. Cô đã bị gượng ép kết hôn và không có quyền ly hôn. Cuốn sách đặt ra một câu hỏi tình huống nhức nhối muốn người đọc trả lời. Đó là nếu sống cuộc đời hôn nhân bị ép buộc thì phải làm sao. Chịu đựng hay ly hôn và đi tìm hạnh phúc của mình? Anna đã chịu đựng tám năm, cô không muốn phải sống như vậy nữa. Nhưng lại không thể ly hôn. Vì định kiến xã hội đương thời không cho phép một phụ nữ thượng lưu ly hôn. - Làm tất cả, nhưng đừng ly dị! - Darya Alexandrovna đáp. - Chị hiểu tất cả là thế nào? - Chao, thật ghê sợ! Cô ấy sẽ không phải là vợ của ai nữa, đời cô ấy thế là bỏ đi! Cuộc đời thế là bỏ đi - đó là cách mà xã hội nhìn nhận những người phụ nữ có ý định ly hôn. Giá trị của người phụ nữ đến thế là cùng. Anna Karenina đã không còn đường lui nữa. Phía trước cô là định kiến xã hội, còn phía sau cô lại là cuộc hôn nhân mất tự do. Không thể bước tiếp nữa, nhưng cũng không thể lùi bước được nữa. Sức chịu đựng của một người đến thế là cùng, ròng rã suốt tám năm, cô không thể chịu đựng được nữa. Cô sống trong cuộc hôn nhân đau khổ với ngài Karenin, nhưng khi gặp sĩ quan Vronsky thì lại càng đau khổ hơn. Có lẽ đại úy Vronsky cũng giống như thứ ánh sáng đẹp đẽ, cao quý làm đau mắt một người đã ngần ấy năm không nhìn thấy ánh sáng như Anna. Cô chỉ còn cách chọn con đường thứ ba, con đường buông bỏ. Buông bỏ cả đau khổ và và niềm vui muộn màng với sĩ quan Vronsky, buông bỏ cả tự do và định kiến. Sẽ không có cách nào để thoát khỏi định kiến nếu không buông bỏ tự do của bản thân. Đó là điều mà xã hội già cỗi đương thời của Nga đem đến cho thần dân nước mình khi họ muốn sống một đời tự do. Giải thoát bản thân mình bằng cái chết, Anna Karenina không chỉ muốn thoát thoát khỏi đớn đau mà còn muốn giáng một đòn mạnh mẽ vào ý thức hệ già cỗi, lạc hậu của nước Nga lúc bấy giờ. Và luồng sáng đã soi cho nàng thấy rõ cuốn sách cuộc đời mình với biết bao lo âu, phản phúc và đau khổ, lúc này càng bừng lên chói lọi hơn, rọi chiếu vào mọi vật bấy lâu nay chìm trong bóng tối; rồi nó rung rinh, mờ đi và tắt ngấm vĩnh viễn. Mãi về sau, đến năm 1941, khi tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao ra đời, người ta vẫn nhắc mãi về Anna Karenina của Lev Tolstoy: cái chết của Chí Phèo và Anna Karenina sao mà giống nhau quá. Chí Phèo muốn sống lương thiện nhưng không thể lương thiện, Anna Karenina muốn tự do nhưng không thể tự do. Họ chỉ đành tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình. Và cũng để những người sống đau khổ như họ không phải sống cuộc đời như vậy nữa. Cái chết ấy bất lực, là tiếng thét oan khuất giữa xã hội đầy biến động, đầy bất công. Nhưng cái chết ấy lại dũng cảm, là lời tố cáo đanh thép về một xã hội thiếu tự do được viết bằng máu và nước mắt của Anna Karenina. Anna Karenina- tác phẩm lớn nhất mọi thời đại do tạp chí Times bình chọn Cuốn sách Anna Karenina của Lev Tolstoy được phát hành lần đầu năm 1877, sau 147 năm, cuốn sách vẫn vẹn nguyên giá trị. Cuốn sách ấy vinh dự được Times bình chọn là tác phẩm lớn nhất mọi thời đại và gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền tư tưởng thế giới. Văn hào Lev Tolstoy, tác giả của cuốn sách Anna Karenina được tôn xưng là "Sư tử văn học Nga". Ông là nhà tư tưởng, cải cách giáo dục lớn với chủ nghĩa hoà bình và tư tưởng bất bạo động. Qua Anna Karenina ông đã làm thay đổi nhận thức của xã hội về tư tưởng tự do đương thời: Trên hết, tôi sẽ không muốn mọi người nghĩ rằng tôi muốn chứng minh bất cứ điều gì. Tôi không muốn chứng minh bất cứ điều gì, tôi chỉ muốn sống; không gây ác cho ai ngoài bản thân mình. Tôi có quyền, phải không? Tư tưởng của Lev Tolstoy đã gây ảnh hưởng đến những con người có khả năng gây ảnh hưởng lớn cho xã hội. Trong đó có nhà lãnh đạo đảng Quốc Đại Ấn Độ, người đấu tranh cho tự do, Mahatma Gandhi. Martin Luther King, Jr, chủ nhân của giải Nobel Hòa bình năm 1964 cũng là người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng tự do bất bạo động của Lev Tolstoy. Có thể thấy, giá trị lớn nhất của một cuốn sách không phải là chân hay mỹ mà chính là thiện, là giá trị xã hội lan tỏa và làm xã hội tốt đẹp hơn. Đó còn là lòng yêu thương và bao dung, là con người cần được yêu thương và có quyền sống hạnh phúc. Trong tất cả nỗi buồn của con người, không có gì mang lại sự an ủi ngoài tình yêu và đức tin, và trong tầm nhìn của lòng từ bi của Chúa Kitô đối với chúng ta, không có nỗi buồn nào là tầm thường. Cuốn sách Anna Karenina không kết thúc bằng sự ra đi của Anna, mà là cuộc hành quân tình nguyện của sĩ quan Vronsky. Sau ngày Anna rời bỏ thế gian, trong lòng Vronsky có những chuyển biến quan trọng. Chàng sĩ quan rời quê hương và tham gia đội quân tình nguyện trong chiến tranh giúp Serbia chống lại Thổ Nhĩ Kỳ. Vẫn là lòng tin đó, lòng tin tự do không xa sẽ đến. Cùng với Chiến Tranh Và Hòa Bình, cuốn sách Anna Karenina đã đem tư tưởng tự do của Lev Tolstoy đi khắp thế giới. Sống tự do và hạnh phúc luôn là điều viên mãn nhất trên đời. Và khi nào, nơi nào đó trên thế gian này còn thiếu hai điều ấy, thì con người sẽ tiếp tục đấu tranh. Vì lẽ phải luôn đúng và luôn chiến thắng tất cả. Bài viết bởi Trần Hạnh - Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Tiểu Thuyết Anna Karenina (Tiếng Việt)của tác giả Lev Tolstoy.
Bí Ẩn Một Cái Tên
Cô bé 12 tuổi Heidi không biết ngày sinh của mình, không biết quê hương của mình ở đâu và cũng không biết cha ruột của mình là ai. Quả thực, mọi điều về quá khứ của Heidi và người mẹ thiểu năng của cô bé là một bí mật lớn. Khi bị ám ảnh bởi soof - một từ lạ trong vốn từ vựng của Mẹ, Heidi quyết định thực hiện một cuộc hành trình dọc đất nước để tìm kiếm bí mật về quá khứ của mình. Rời xa gia đình, những mảnh vụn của lịch sử cá nhân cô bé dần được ghép lại thành một bức tranh hoàn chỉnh. Nhưng khi biết được về sự thật mình là ai, mình từ đâu tới... liệu rằng điều đó có khiến Heidi cảm thấy hài lòng, và trên hết, có làm cho cô bé hạnh phúc như trước khi thực hiện cuộc hành trình truy tìm quá khứ. *** “So B. It - Bí ẩn một cái tên” (NXB Hội Nhà văn) là tiểu thuyết của Sarah Weeks, nữ văn sĩ người Mỹ rất thành công với những tác phẩm dành cho thiếu nhi và tuổi mới lớn. Lần này, độc giả cùng khám phá hành trình đi tìm thân thế của cô bé 12 tuổi. Một hành trình độc đáo, lạ lùng và thấm đẫm nhân văn. Câu chuyện được viết qua giọng kể của Heidi, cô bé 12 tuổi, sống với người mẹ bị thiểu năng trí tuệ trong một căn chung cư. May mắn là mẹ con cô có người hàng xóm tốt bụng Bernadette, một phụ nữ trung niên sống một mình sát vách nhà. Chính bà là người đỡ đần, chăm sóc 2 mẹ con từ khi Heidi mới chào đời. Do bác Bernadette mắc chứng sợ khoảng rộng, không thể ra khỏi nhà nên Heidi không được đến trường mà học tại gia do bác kèm cặp, dạy dỗ. Cuộc sống của 3 người chỉ quanh quẩn ở nhà, cửa hàng tạp hóa và thư viện gần đó. Người mẹ ngờ nghệch của cô bé chỉ có thể nói được 23 từ đơn giản, nhưng có một từ là Heidi luôn thắc mắc vì không tìm được nghĩa dù đã tra nhiều từ điển, đó là từ “soof”. Cho đến một ngày, Heidi phát hiện ra chiếc máy ảnh cũ và sau khi rửa hình, cô thấy có mẹ mình cùng những người lạ trong một trại nuôi dưỡng người khuyết tật ở New York. Điều kỳ lạ là mẹ cô chỉ vào một bức hình kêu lên “soof”. Điều đó càng thôi thúc Heidi đi tìm ý nghĩa của từ “soof” và khám phá xuất thân của mình. Bởi từ trước đến nay, cô không biết cha mình là ai, không biết ngày sinh nhật và đặc biệt là mẹ cô không có một giấy tờ tùy thân nào ngoài một cái tên khó hiểu: “So B.It”. Heidi một mình bắt xe buýt đi suốt 4 ngày trời để đến trại Hillltop ở Liberty, New York, nơi mẹ cô có mặt trong những tấm hình để tìm hiểu về quá khứ của mẹ. Hành trình ấy đầy gian nan và  bất ngờ… Câu chuyện đầy những điều lạ lùng, thú vị cuốn hút người đọc dõi theo đến trang sách cuối cùng. Tác phẩm giúp người đọc hiểu hơn về chứng bệnh khoảng rộng, một chứng bệnh hiếm gặp trên thế giới, về những người thiểu năng trí tuệ và cách họ thích nghi với cuộc sống. Cách dẫn dắt, đặt vấn đề của tác giả khiến người đọc tò mò, đặt ra hàng loạt câu hỏi: tại sao Heidi có vận may kỳ lạ khiến trong các trò chơi về óc phán đoán thì cô bé luôn chiến thắng? Tại sao mọi chi phí thuê nhà, hóa đơn điện nước… của hai mẹ con cô bé đều không phải trả? Tại sao không có bất cứ giấy tờ hay hình ảnh, tài liệu nào về thân thế của hai mẹ con?... Do đó, khi Heidi lên đường đi tìm sự thật, độc giả cũng háo hức muốn khám phá mọi điều cùng cô bé. Hành trình ấy đã giúp Heidi tiếp xúc với nhiều người, va chạm với cuộc sống thực tế, khám phá bao điều, có cả niềm vui lẫn nỗi buồn, hoang mang và sợ hãi… Từ một cô bé nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thơ ngây, đơn giản, Heidi đã chững chạc hơn, bắt đầu biết băn khoăn day dứt hơn bởi những trải nghiệm thực tế. Những khám phá phảng phất màu sắc triết lý nhẹ nhàng của một cô bé 12 tuổi như Heidi nhận thấy việc nói dối chưa hẳn là đã xấu vì “Đôi khi người ta nói dối vì sự thật quá nặng nề để thừa nhận nó...”. Hay Heidi hiểu ra rằng “không biết một điều gì đó chẳng có nghĩa rằng ta ngốc nghếch. Nó chỉ có nghĩa rằng vẫn còn chỗ cho sự ngạc nhiên”. Nghĩa của từ “soof” và bí ẩn về cái tên của mẹ cuối cùng cũng được giải dù đổi lại là những mất mát, những khoảng trống trong tâm hồn cô bé. Dù vậy, cả Heidi và người đọc cũng không hối tiếc bởi nó xứng đáng và cần thiết. Hơn hết, hình mẫu nhân vật Heidi thông minh, dũng cảm, đáng yêu thật sự tỏa sáng trong lòng độc giả khi khép sách lại. CÁT ĐẰNG *** Lời khen tặng dành cho So B. It: “Cuốn tiểu thuyết có đủ sự hồi hộp để lôi cuốn những người ưa thích sự bí ẩn, đồng thời Weeks đã miêu tả sinh động cuộc phiêu lưu thể chất và xúc cảm của Heidi với sự chừng mực và tiết chế về ngôn từ đến mức đáng khâm phục.” - The Horn Book “Văn phong duyên dáng - chân thực, cảm động và được gọt giũa cô đọng đến mức tinh tế.” - ALA Booklist. “Những nhân vật thú vị, khác thường. Người đọc sẽ thực sự cảm động.” - VOYA. *** SARAH WEEKS là ca sĩ, người viết nhạc và một tác giả viết sách cho thiếu nhi. Cô đã viết hơn 30 cuốn truyện tranh và các tiểu thuyết cho teen. Weeks thường đi thăm các trường học và thư viện trên khắp nước Mỹ, đọc sách của mình, hát những bài hát do mình sáng tác và trò chuyện với trẻ em về việc viết lách. Sarah Weeks hiện sống tại thành phố New York cùng hai con trai. Bạn có thể ghé thăm cô trên trang web www.sarahweeks.com. Ta không thể thực sự biết về bộ não của Mẹ chỉ bằng cách nhìn vào bà, nhưng điều đó trở nên rõ ràng khi bà lên tiếng. Giọng của bà cao vói, giống như một đứa bé gái, và bà chỉ biết vỏn vẹn có hai mươi ba từ. Tôi biết điều này từ thực tế, vì chúng tôi giữ một danh sách những từ Mẹ nói, ghim nó ở tủ bếp. Phần lớn từ ngữ khá quen thuộc, giống như tốt và nữahay nóng, nhưng có một từ duy nhất Mẹ nói thì rất đặc biệt, soof. Tặng David - người đã dạy tôi rất nhiều về cả những điều biết và không biết. - S.W *** So B. It và hành trình đi tìm sự thật, Nếu bạn thích tìm kiếm cuốn sách viết về những sự thật lạ lùng đến khó tin, cuốn sách chứa đựng những điều bí ẩn và hồi hộp, cũng thật khó lòng đoán được kết thúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ đến mức không dễ dàng gì buông sách xuống nửa chừng… thì So B. It đúng là tác phẩm dành cho bạn. Có thể nói, So B. It là một tác phẩm độc đáo, từ giọng văn nhẹ nhàng mà có sức lay động kỳ lạ, đến một cốt truyện đơn giản nhưng sâu sắc, ẩn chứa những triết lý thông minh đáng để ngạc nhiên. So B. It được viết qua giọng kể của Heidi - cô bé 12 tuổi đáng yêu, ngây thơ và đầy tò mò - về hành trình tìm về sự thật, về quá khứ của chính mình. Heidi có một cuộc đời kỳ lạ: cô bé không biết về quá khứ, không biết cha mình là ai, không biết ngày sinh của chính mình. Cô bé sống cùng người mẹ bị thiểu năng, người chỉ có thể nói được 23 từ tất cả, và Bernadette - một phụ nữ hàng xóm bị bệnh sợ khoảng rộng không dám ra khỏi nhà. Cuộc sống của Heidi hầu như tách biệt với xã hội bên ngoài, cô bé tiếp xúc với thế giới thông qua sách vở, trí tưởng tượng và các chuyến đi mua sắm, đến thư viện gần nhà. Có thể nói, cô bé có một tuổi thơ êm đềm và hạnh phúc. Mọi chuyện xảy ra khi Heidi bị ám ảnh bởi một từ trong số từ vựng của mẹ mà cô bé không tìm ra nghĩa - soof. Cũng chính từ lạ này đã thôi thúc Heidi khám phá về quá khứ của mình, muốn tìm câu hỏi lý giải mình là ai, từ đâu tới? Và cô bé một mình thực hiện chuyến đi dọc nước Mỹ, từ Nevada tới New York, để tìm ý nghĩa của soof… Ngay dòng mở đầu, Heidi đã làm chúng ta phải tò mò: “Nếu như sự thật là một cây bút chì màu đang chờ tôi bọc lại rồi đặt tên cho nó một màu nào đó, tôi biết chính xác mình sẽ muốn nó có màu gì - màu da khủng long.” Và cứ thế, người kể chuyện sẽ dẫn dắt bạn bước vào cuộc phiêu lưu thể chất và xúc cảm của cô bé. Hành trình đi tìm từ soof của Heidi, hay hành trình đi khám phá ra mình là ai, đầy những điều ngạc nhiên thú vị và những cảm giác sợ hãi, thậm chí cả sóng gió bất ngờ chờ đợi cô bé ở đích đến. Lần đầu tiền Heidi thực sự bước ra thế giới, chặng đường đó với những trải nghiệm mới mẻ đã làm thay đổi Heidi. Từ một cô bé nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thơ non, Heidi đã chững chạc hơn, bắt đầu biết băn khoăn day dứt hơn bởi những “sự biết” về cuộc sống. Có thể nói, câu chuyện là một hành trình cảm động hồi hộp, rất lôi cuốn với những nhân vật khác thường đồng thời rất thật. Một kết thúc đẹp và buồn, thật ngọt ngào và sâu lắng sẽ ám ảnh ta khi gấp cuốn sách lại. Điều làm tôi ấn tượng hơn cả về cuốn sách này đó là những trải nghiệm của Heidi về cuộc sống. Những khám phá phảng phất màu sắc triết lí nhẹ nhàng của một cô bé mười hai tuổi như những tia sáng nhỏ bé soi rọi vào mặt bên kia của những điều tưởng như đã trở thành chân lý hiển nhiên chẳng cần bàn cãi. Chẳng hạn, qua những gì chứng kiến, Heidi nhận thấy việc nói dối chưa hẳn là đã xấu: “Đôi khi người ta nói dối vì sự thật quá nặng nề để thừa nhận nó…” Hay Heidi hiểu ra rằng “không biết một điều gì đó chẳng có nghĩa rằng ta ngốc nghếch. Nó chỉ có nghĩa rằng vẫn còn chỗ cho sự ngạc nhiên.” Trong quá trình tìm về quá khứ của mình, Heidi cũng đã thừa nhận rằng có những điều vĩnh viễn chúng ta chẳng thể nào biết được, cho dù chúng ta cố gắng đến mấy để tìm hiểu về chúng. Ngay cả khi khám phá ra được sự thật - như sự thật gây ngỡ ngàng về quá khứ của mẹ Heidi - cũng không hẳn đã khiến cho chúng ta sống hạnh phúc hơn; nhưng dẫu vậy không dễ gì chúng ta từ bỏ được mong muốn được biết sự thật… Sarah Weeks, nữ văn sĩ người Mỹ rất thành công với những tác phẩm dành cho thiếu nhi và tuổi teen, thực sự sẽ làm bạn hài lòng qua tác phẩm So B. It. Những nhà phê bình văn học đã không quá lời khi khen ngợi So B. It là một cuốn sách với “văn phong duyên dáng - chân thực, cảm động và được gọt giũa cô đọng đến mức tinh tế”. Và trên hết, đây là một cuốn sách gây ám ảnh… Sài Gòn 9.4.2011 Nguyễn Hồng Dung   Mời các bạn mượn đọc sách So B. It - Bí Ẩn Một Cái Tên của tác giả  Sarah Weeks & Nguyễn Hồng Dung (dịch).
Hòm Thư Số 110
Tình yêu của anh nhón chân rón rén bước "Em đã bước vào vườn hoa của anh rồi nhỉ. Dù chưa được cho phép." Ở độ tuổi 30, bận bịu trong nhịp sống thường ngày quen thuộc khiến Jin Sol lẳng lặng đem cất những rung động tình yêu xa xỉ vào góc sâu trái tim. Mục tiêu cô đề ra là “Đừng để lòng vướng bận”. Song lẽ dĩ nhiên, trời chẳng chiều lòng người, đợt cải tổ nhân sự định kỳ của đài phát thanh đã mang đến cho cô một cộng sự khó nhằn - một nhà sản xuất chương trình còn sáng tác cả thơ. Để đối phó với anh ta, dường như mọi sự phòng bị là không đủ, hoặc chỉ một cốc smoothie đã đủ… Viết về những con người gần gũi trong cuộc đời bình dị, những người lớn dù đã khoác lên mình lớp vỏ trưởng thành song vẫn còn vô số khuyết điểm cũng như nhược điểm, ngày ngày vẫn đối mặt với nỗi cô đơn trong chừng mực cho phép, đây là câu chuyện “thử yêu thêm lần nữa” của họ, của bạn và của tôi. *** [Review nhè nhẹ] Hòm thư số 110 – Yi Do Woo “Bạn biết bạn đã đọc một cuốn sách hay, khi giở đến trang cuối cùng và cảm nhận như mình vừa mất đi một người bạn.” (Paul Sweeny) Thú thật thì mình là người yêu thích văn học (tiểu thuyết) Hàn Quốc nên khi cuốn sách vừa xuất bản là lao ngay tới quầy sách Nhã Nam để đón “Hòm thư số 110” về. Không nhiều hy vọng về một câu chuyện tình yêu phải có những tình tiết nhân văn hay đưa lại một ký ức thật đặc biệt, mình đón nhận cuốn sách với tâm thế đọc để “giao lưu học hỏi”. Thế rồi ba ngày trôi qua, chỉ rời cuốn sách khi nấu cơm, ăn cơm, vệ sinh cá nhân, đi ngủ, làm việc, mình đã bị “đốn gục” bởi cái sự bình dị mà không tầm thường của “Hòm thư số 110”.  Câu chuyện kể về tình yêu đầy tự nhiên của những con người nhỏ sống ở Seoul. Là cái cách nữ biên kịch Jin Sol từng bước một thoát khỏi cuộc sống nội tâm đầy cô đơn của mình, để bước ra với thế giới bên ngoài và “nhảy” vào tình yêu với vị PD Lee Geon mà cô làm chung. Tình yêu của họ tự nhiên đến độ không có một sự đưa đẩy khiên cưỡng nào làm độc giả lấn cấn hay phản đối. Bầu không khí trong phòng thu, cách họ dạo bước trên cầu Mapo, những cuộc đối thoại trong xe, cảm xúc lúc họ cùng trốn bảo vệ để khám phá cung điện ở Gwanghwamun vào giờ cấm, rồi cùng ngắm sao băng với bạn bè hay uống với nhau vài chén… đều rất trong trẻo và dịu dàng. Ngay cả cái cách miêu tả Jin Sol khi ầng ậc nước mắt, quay người sửa gối vì mất ngủ, khóc òa nơi chân cầu thang thoát hiểm cũng rất mượt mà và làm tim người đọc quặn thắt theo. Là câu chuyện tình yêu của cặp đôi phụ Ae Ri và Seon Woo “chặt không đứt, bứt không rời” cứ như thể họ đã gặp nhiều thật nhiều kiếp, nên ở kiếp này dù có khó khăn thế nào cũng vẫn sẽ tìm thấy nhau, vì nhau mà thay đổi. Vì Seon Woo, cô nàng học giỏi Ae Ri có thể từ bỏ cả việc học hành cao lên, chỉ để cùng nhau làm những việc họ thích đó là mở một quán trà trong con ngõ nhỏ ở Insadong – quán trà “Mở cửa vào ngày mưa”. Vì Seon Woo, Ae Ri có thể mòn mỏi chờ đợi ngay cả khi anh ích kỉ đi du lịch một mình cả tháng trời không liên lạc lại – vào mỗi lần anh thấy u uất trong lòng. Thương Ae Ri, khó chịu với tính cách của Seon Woo, nhưng rồi cứ càng đọc, người ta lại càng hiểu ra thật ra trong lòng Seon Woo luôn có sự tự ti chưa có thuốc giải, và Ae Ri cuối cùng cũng là người “bào chế” thuốc giải đó cho anh. Là hình ảnh người ông của PD Lee Geon với một cuộc sống vui vẻ, hào sảng và luôn thích chuyện trò. Dù xuất hiện không nhiều, nhưng cách mà ông gây cười rồi gây xúc động, cách mà ông xuất hiện dần dần – rõ nét – và tan biến đi lại giống như ánh sáng của con đom đóm - khi đèn điện sáng choang, ta sẽ không chú ý tới chúng, nhưng trong màn đêm thăm thẳm, chúng lại rõ nét và xúc động đến lạ kì. Ngoài những câu chuyện tình yêu đầy tự nhiên và ý nghĩa, “Hòm thư số 110” còn được tác giả viết ra những đoạn văn sinh động như thể đang xem một cảnh phim. Những con chữ lúc thì biến thành chiếc lá bay bay trên đường, khi lại là hạt tuyết rơi trắng xóa, lúc lại là những cơn mưa xối xả, hay vệt sao băng rơi trên bầu trời. Mỗi lần đọc đến đoạn văn mang tới cảm xúc như xem một bộ phim đang hiện hữu là mình lại thầm chắp tay cảm ơn tác giả, dịch giả và biên tập viên. Cuốn sách này đã được mình vừa đọc vừa chép vào sổ tay những đoạn văn, đoạn đối thoại ý nghĩa. Nhưng 2 trong số đó làm mình yêu thích nhất, đó là: 1. “Lát nữa chúng ta sẽ được ngắm những ngôi sao băng rơi từ 150 năm trước sao?” “Những ngôi sao ấy bay hàng vạn năm ánh sáng tới đây mà. Chúng xuất phát từ ba mươi nghìn năm trước tới giờ mới rơi xuống. Đúng là sự tình cờ mất rất nhiều thời gian nhỉ.” 2. “Qua 3 tháng nữa là em đã đi làm được 10 năm rồi. Không hiểu sao em có cảm giác như này. Chắc chắn… bên trong em có một cái giếng, và em đã dùng gàu múc hết số nước trong giếng ra… Giờ chỉ còn trơ đáy giếng mà thôi.” ------- *Bonus 1 chút, tiểu thuyết mới nhất của cô tác giả này đã được đài JTBC chuyển thể thành phim và sẽ phát sóng cuối tháng 2 này với tiêu đề "TRỜI ĐẸP EM SẼ ĐẾN - If the Weather Is Good, I’ll Find You" do Park Min Young và Seo Kang Joon thủ vai chính.* ® Nguyễn Thanh Hương *** Những mạt gỗ mỏng manh rơi từ đầu cây bút chì còn mới nguyên xuống tờ giấy đã dùng một mặt. Jin Sol dùng dao chuốt cho đến khi ruột bút lộ ra, bột chì đen mịn lả tả rơi xuống dính vào mặt giấy. “Vậy tóm lại là PD Lee Geon cũng thuộc phe Daeho à?” Jin Sol vừa áng chừng độ nhọn của ruột chì vừa hững hờ hỏi. Chỉ còn một tuần nữa là đến ngày cải tổ nhân sự mùa thu. Từ sáng sớm phòng biên kịch đã nhốn nháo bàn tán về các chương trình mới cũng như PD được phân công phụ trách. “Nếu phân rạch ròi thì là thuộc phe Daeho chứ còn gì nữa, dù xét về quan hệ đồng môn hay đồng hương anh ta cũng thuộc bên đó thôi, đám người có thế lực ấy!” Biên kịch Kim miệt mài gõ bàn phím máy tính xách tay ngay bên cạnh Jin Sol, từ ban nãy đã liên tục cung cấp thông tin về PD Lee Geon cho Jin Sol. Phía đối diện, biên kịch Choi, người phụ nữ U40 đã lập gia đình đang chăm chú viết bản thảo ôn tồn chen vào cuộc trò chuyện giữa hai người. “Đừng có nói linh tinh. Theo chị anh chàng này, dù sống trong chung cư Daeho đi chăng nữa cũng không thuộc phe Daeho đâu. Đài phát thanh có việc gì còn chưa bao giờ thấy cậu ta ló mặt nữa là. Đây chính là mẫu người chỉ muốn một mình nhẹ thân. Chị từng làm việc với cậu ta nên biết.” Jin Sol thầm nghĩ, những lời này có lẽ đúng bởi kỳ vừa rồi biên kịch Choi đã làm chương trình Nhạc phim đêm cùng với Lee Geon. Đột nhiên bị chọc mạnh vào mạng sườn, Jin Sol lập tức liếc nhanh sang hướng biên kịch Kim vừa chỉ. Ở một góc phòng, biên kịch Song vẫn được đồn là có mối quan hệ thân thiết với hội chung cư Deaho mặt lạnh tanh, tay đặt lên bàn phím ra điều đang làm việc, nhưng kỳ thực tai lại dỏng lên nghe ngóng. Biên kịch Kim lén lè lưỡi còn Jin Sol cười tủm. Jin Sol đặt ngay ngắn chiếc bút chì đã gọt nhọn vào hộp bút rồi lại bắt đầu gọt một cái mới. Những lúc rảnh rỗi hay khi đột nhiên thấy hưng phấn hoặc bồn chồn, cô lại có thói quen lôi vài cây bút chì ra gọt. Jin Sol thích ngắm những mạt gỗ mỏng manh rơi xuống khỏi mũi dao và ruột chì đen lộ dần ra nơi đầu bút. Dù bao năm trôi qua, cô vẫn say đắm hương gỗ phảng phất mỗi khi gọt bút chì, mùi hương vẫn vẹn nguyên như thời cô còn ấu thơ. Kể từ năm cuối đại học đến giờ, đã tròn chín năm cô đặt chân đến đài phát thanh, đảm nhận chân viết kịch bản quèn. Sau khoảng hai năm làm trợ lý biên kịch, phụ trách vài phần kịch bản dưới sự hướng dẫn của các tiền bối, cô đã được mang danh biên kịch đúng nghĩa và tự viết chương trình của riêng mình. Sau khi làm việc tại vài đài phát thanh, ba năm trước, cô bắt đầu chuyển về công tác tại FM Radio có trụ sở đặt ở quận Mapo. Jin Sol không thuộc típ người quá hoạt bát năng nổ hay hòa đồng quảng giao nên ngoại trừ những người làm việc chung, cô chỉ duy trì mối quan hệ xã giao với người khác ở mức nếu gặp thì khẽ cúi đầu chào mà thôi. Cô vô thức thở dài khiến đống mạt gỗ nằm trên mặt giấy bay lên nhè nhẹ rồi lại rơi xuống. Trong vòng một năm rưỡi qua, cô đã đảm nhận công việc viết kịch bản cho hai chương trình phát thanh: Chiếc xe ngựa hoa chuyên gửi tặng các ca khúc truyền thống và Studio hạnh phúc dành cho phái đẹp. Không hiếm trường họp các PD đảm nhận một chương trình trong suốt vài năm trời nên cũng có khi biên kịch phải gắn bó với chương trình đến ba kỳ liên tiếp. Tuy nhiên, trong đợt cải tổ nhân sự lần này, giám đốc đài cho rằng chương trình Chiếc xe ngựa hoa đang trong giai đoạn cần phải đổi mới. Tức là sẽ được chuyển giao cho PD Lee Geon 33 tuổi mới vào công ty được năm năm phụ trách. Với một người mắc bệnh sợ người lạ nặng như Jin Sol, việc phải hòa hợp với cộng sự mới quả có chút đáng ngại. “Gong Jin Sol, giờ cô đã là bậc thầy trong lĩnh vực gọt bút chì rồi đấy.” Biên kịch Kim nửa xuýt xoa nửa trêu chọc khi nhìn thấy đầu bút chì xinh xắn Jin Sol vừa gọt. “Đúng thế. Em đắc đạo rồi.” Jin Sol cười khúc khích hưởng ứng. Đột nhiên cửa phòng mở tung, một giọng nói trong trẻo vang lên khiến ánh mắt mọi người đều đổ dồn về phía đó. “Chào mọi người. Lâu lắm rồi không gặp!” Là biên kịch Ahn Hee Yeon, cô gái luôn khiến người đối diện phải chú ý bởi phong cách thời trang nổi bật và ngoại hình tươi sáng, tràn đầy năng lượng. Biên kịch Kim khẽ nghiêng người thầm thì. “Chuyện gì thế này, sao cô ả lại hạ cố đến cái phòng biên kịch xa xôi hẻo lánh này cơ chứ. Trước giờ toàn ngồi cạnh PD một lát rồi đi ngay cơ mà.” Hee Yeon đi thẳng vào phòng biên kịch, tiến đến vị trí gần cửa sổ nơi Jin Sol đang ngồi, duyên dáng ghếch bộ mông xinh đẹp của mình lên bàn làm việc. “Biên kịch Gong, lần này cô làm việc với PD Lee Geon đúng không?” Mái tóc đen dày, óng mượt của Hee Yeon được tết năm sin sít và cột lại bằng dây nơ màu lá phong. Nhìn bím tóc trước mặt, Jin Sol chợt nghĩ, tết năm như vậy thì phải tết theo thứ tự thế nào nhỉ. “Ừ. Có vấn đề gì sao?” “Tôi vừa đi họp về. Chương trình World Music của chúng tôi kỳ này vẫn sẽ tiến hành như thường lệ. Cô biết anh Geon sẽ làm Chiếc xe ngựa hoa và một chương trình khác nữa rồi chứ? Anh ấy dò hỏi tôi xem biên kịch Gong là người như thế nào, đương nhiên tôi đã nói tốt về cô trước mặt anh ấy rồi.” Nói tốt về mình ư? Ahn Hee Yeon lại biết rõ về mình sao? Dù nghi ngờ nhưng Jin Sol vẫn cố nở nụ cười. “Thế à? Cảm ơn cô nhé.” “Tôi nghĩ biên kịch Gong và anh Geon sẽ làm việc ăn ý với nhau thôi. Anh ấy vốn rất thông minh.” Jin Sol gượng cười, lẳng lặng lấy cây bút chì thứ ba và chỉ gật đầu. Anh Geon cơ đấy. Cho đến tận giờ, cô nàng Ahn Hee Yeon 28 tuổi này chưa từng gọi bất cứ ai trong số các biên kịch ở đài phát thanh bằng chị hay tiền bối. Cả với Jin Sol năm nay đã 31 tuổi hay với những người lớn tuổi hơn nữa, Hee Yeon cũng chỉ gọi trống không là “biên kịch X” để tạo cảm giác ngang hàng. Trước thái độ dửng dưng của Jin Sol, Hee Yeon lén nhìn cô một lượt từ đầu đến chân. Gong Jin Sol dáng người nhỏ bé, đang chăm chú nhìn xuống đầu ngón tay lẳng lặng gọt bút chì. Nghe bảo cô ta viết bản thảo rất chắc tay, lại được các PD đánh giá rất cao? Nhưng theo Hee Yeon thấy, Jin Sol chỉ là một phụ nữ hết sức bình thường, không giỏi xã giao, không có tham vọng, cả chí tiến thủ cũng không nốt. “Cô có biết PD Lee Geon là nhà thơ không?” “Gì cơ?” Suýt chút nữa thì bị dao cứa vào tay. Jin Sol khựng lại, ngước lên nhìn Hee Yeon như thể vừa nghe thấy điều không nên nghe. Cô há hốc miệng vì ngạc nhiên. Phải đến lúc này, Hee Yeon mới mỉm cười tươi tắn. “Cô không biết sao? Cách đây mấy năm, PD Lee Geon còn ra một tập thơ. Viết hay lắm.” Vẻ mặc cảm thoáng hiện lên trên gương mặt Jin Sol, cô khẽ thở dài. “… Chết tiệt.” Hee Yeon nở nụ cười thỏa mãn rồi nhấc mông khỏi bàn. “Tôi phải đi trước đây, còn phải đến Yeouido nữa. À, cô có xem chương trình tôi viết kịch bản không? 12 giờ đêm thứ Năm hằng tuần nha. Mong cô giúp tăng tỉ suất người xem một chút nha. Hẹn gặp lại mọi người sau.” Hee Yeon rạng rỡ vẫy tay chào tạm biệt tất cả mọi người trong phòng rồi bỏ đi. Biên kịch Song ngồi ở phía cửa ra vào cười khẩy như thể vừa nghe một chuyện thật hoang đường. Ngoài chương trình World Music,Hee Yeon còn đảm nhận cả kịch bản Jazz Concert và cô nàng chưa bao giờ ngừng khoe khoang về việc này. Jin Sol nhìn biên kịch Choi ngồi phía đối diện với vẻ mặt oán trách. “Tiền bối, sao chị không nói với em?” “Chuyện PD Geon là nhà thơ á? Cái đó có gì quan trọng đâu cơ chứ?” Biên kịch Choi đưa tay đẩy lại gọng kính trên sống mũi rồi rời mắt khởi màn hình máy tính, ngước lên nhìn Jin Sol. Ở đài phát thanh có rất nhiều nhà sản xuất họ Lee nên Lee Geon thường được các đồng nghiệp gọi là PD Geon. “Với em thì có đấy. Chị biết trước đây em từng khổ sở như thế nào với tay phê bình âm nhạc kia còn gì?” “Em cứ thử làm việc với người ta đi đã. Thật tình, PD Geon khó tính trong chuyện bản thảo lắm nhưng cậu ta cũng không phải kiểu người thích gây sự lung tung đâu. Cứ làm việc với tâm trạng thoải mái là được.” “Đâu có dễ vậy ạ.” Jin Sol lẩm bẩm trong miệng nghe như tiếng thở dài. Đoạn, cô bỏ dao và bút chì vào ống đựng bút rồi gói tờ giấy hứng bột chì và mạt gỗ lại. Anh ta mà viết lách giỏi thật thì con đường gian nan lại sắp mở ra trước mắt Jin Sol rồi đây. Jin Sol không thích những PD giỏi viết lách, kiểu làm thơ, viết tiểu thuyết hay phê bình văn học. Đâu phải mình cô nghĩ vậy. Mọi biên kịch đều muốn tránh các PD giỏi viết lách. Vài năm trước, Jin Sol từng làm việc chung với một nhà sản xuất kiêm phê bình âm nhạc mà đến tận bây giờ chỉ cần nhớ đến quãng thời gian đó cô lại lắc đầu nguầy nguậy. Người đó luôn vặn vẹo về các bình luận ca khúc, thậm chí là từng câu chữ diễn đạt của cô. Anh ta thuộc típ người trong một ngày phải sửa được một chỗ theo đúng ý mình mới vừa lòng, cho dù nội dung trước và sau sửa không khác biệt là mấy. Jin Sol nghĩ anh ta cứ sửa theo thói quen vậy thôi. Mời các bạn mượn đọc sách Hòm Thư Số 110 của tác giả Yi Do Woo & Trần Hải Dương (dịch).