Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đảo Plum

Đảo Plum - một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị được Tuần báo Publishers nhận xét: "Sức lôi cuốn… Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương… cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm...". *** Tác Giả Nelson DeMille: Nelson DeMille sinh năm 1943 tại thành phố New York. Ông lớn lên lại Long Island và tốt nghiệp trường đại học Hofstra về Khoa học và Lịch sử Chính trị. Sau khi làm sĩ quan bộ binh tại Việt Nam, DeMille vừa làm phóng viên vừa là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết lớn đầu tiên của mình là Bên dòng sông ở Babylon ( By the Rivers of Babylon) với tổng số bản bán ra là hơn 55 triệu bản và được dịch ra 24 thứ tiếng, và sau đó ông tiếp tục viết 11 cuốn tiểu thuyết khác đều bán chạy trên khắp thế giới. Ông sống tại Long Island. *** “Một cuốn tiểu thuyết kinh dị thật tài tình. Bạn sẽ thấy được cảm giác vui vẻ với những nút thắt là những đỉnh điểm của cuốn truyện”. - Timeout “Ớn lạnh... Cảm giác xuyên suốt cả cuốn tiểu thuyết hồi hộp này và sẽ khiến bạn luôn luôn trong suy nghĩ ngay cả khi bạn cười thật to”. - New day “Sức lôi cuốn... Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương... Cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... Một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm”. - Tuần báo Publishers “Ly kỳ, thú vị”. - Kirkus Reviews “Một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị”. - Tạp chí Associated “Một cuốn sách thành công trong việc tạo tiếng cười giải trí... Kết hợp thông minh giữa thảm hoạ về sinh học và những truyền thuyết kỳ lạ về hải tặc”. - Tạp chí Associated *** Tác giả: Nelson Demille. Dịch giả: Đỗ Thúy Thể loại: Trinh thám, hành động, có chút cổ điển, phần nhiều hiện đại “Một thế kỷ trước, người ta thi thoảng mới phải đứng trước những ngã ba của cuộc đời và phải chọn lấy một hướng đi. Hôm nay, chúng ta sống bên trong một tấm vi mạch với hàng triệu con đường mở ra và đóng lại trong mỗi một phần tỉ giây. Điều tệ hơn là có ai đó đang bấm những chiếc nút”. ĐẢO PLUM Khi may mắn được biết đến tác giả Nelson Demille qua hai cuốn tiểu thuyết “Phía sau thảm họa” và “Lửa hoang”, tôi thật sự ưa thích những câu chuyện ly kỳ của tác giả này. Do đó, tôi đã để dành cuốn “Đảo Plum” khá lâu trước khi quyết định lấy ra đọc để vượt qua quãng thời gian hơi buồn chán trong việc đọc sách. Cuốn “Đảo Plum” đã giúp tôi có quá trình đọc thật sự thú vị, cười rất nhiều, say mê theo dõi những đoạn phiêu lưu máu lửa của nhân vật, và cuối cùng khép sách lại với cảm giác thỏa mãn 130%. Nhân vật chính vẫn là thanh tra cảnh sát John Corey thuộc lực lượng cảnh sát New York, nhưng lần này không có cô vợ xin-lỗi-tôi-quên-tên-cô-ấy-rồi bên cạnh. Truyện chỉ đề cập thoáng qua đến vợ cũ của ngài Corey, được cho biết rằng nghề nghiệp là luật sư. Bối cảnh truyện bắt đầu khi John Corey đang ở nhà ông cậu tại vùng North Fork của bang Long Island, New York để dưỡng thương sau khi bị bắn. Cảnh sát trưởng của vùng đến nhờ John tham gia với vai trò tư vấn vào cuộc điều tra vụ án mạng đôi, nạn nhân là hai vợ chồng nhà Gordon – từng là bạn với Corey. Vợ chồng Gordon là hai nhà khoa học làm việc tại Trung tâm nghiên cứu bệnh dịch động vật trên đảo Plum, thực chất cũng là nơi nghiên cứu về các mầm bệnh truyền nhiễm cực kỳ nguy hiểm để phục vụ tấn công hoặc phòng thủ trong trường hợp xảy ra chiến tranh sinh học / chiến tranh vi trùng. Trong quá trình điều tra, John Corey có dịp gặp gỡ những điều dễ chịu: quen được cô cảnh sát xinh đẹp thông minh Beth Penrose và chuyên gia lưu trữ tư liệu Emma Whitestone, nhưng đồng thời cũng đụng độ những gã khó nhằn và nhiễu sự thuộc FBI và CIA. Vì tình bạn với hai nạn nhân đã bị sát hại, Corey bất chấp mọi trở ngại để truy tìm hung thủ, dù điều đó thật sự gian nan. Trong cuốn tiểu thuyết này chỉ có một yếu tố mang hơi hướm hiện đại là chiến tranh sinh học, những điều còn lại vẫn khiến tôi đoán định rằng đây là một truyện trinh thám cổ điển, có lẽ vì chất nam tính cổ điển đậm đặc toát ra từ nhân vật chính. Truyện cũng không thấy nói gì đến lấy dấu vân tay, xét nghiệm nhóm máu, điều tra hiện trường kỹ lưỡng như trong những cuốn của Jeffery Deaver. Nhận xét thẳng thắn thì nhịp truyện khá chậm, quá trình điều tra được mô tả chi tiết tỉ mỉ, không ít lần dừng lại ở những đoạn chém gió giữa nam chính với nữ chính 1 và nữ chính 2, vậy mà không hiểu sao tôi vẫn kiên nhẫn + thích thú đọc từng đoạn đến hết, không lướt trang nào. Có lẽ vì giọng văn vừa nghiêm túc vừa hài hước, cách xây dựng quan hệ nhân quả đọc thấy rất hợp lý, xen kẽ giữa những đoạn suy luận sắc bén là những trường đoạn hành động rất gây cấn, đúng kiểu không thể buông sách xuống. Đầu sách có lời bình của Dan Brown rằng “Nelson Demille là một bậc thầy về tiểu thuyết trinh thám”, quả thật như vậy, tuy cuốn “Đảo Plum” không được nhiều người khen như “Phía sau thảm họa” hoặc “Lửa hoang” nhưng cá nhân tôi cho rằng chỉ riêng cuốn “Đảo Plum” cũng hấp dẫn hơn vài trong số những cuốn Dan Brown mà tôi từng đọc. Đọc cuốn này, tôi cũng thấy rằng không phải chỉ có tác giả kiêm chuyên gia hàng hải Clive Cussler là có thể tả đại dương một cách ấn tượng. Trong “Đảo Plum”, Nelson Demille đã khiến tôi (và chắc là hàng ngàn độc giả khác trước và sau tôi) khó có thể quên những trường đoạn tả cảnh hành động trên biển và trong bão biển. Dù không có lời nào trực tiếp nói rằng “thiên nhiên thật hùng vĩ và đáng sợ” nhưng trong từng khoảnh khắc người đọc vẫn sẽ cảm nhận rõ rệt thiên nhiên hùng vĩ và đáng sợ trong truyện này. “Chiếc Plum Runner lách qua eo biển hẹp vào một vịnh nước nhỏ, dường như được tạo ra không phải bởi Thượng Đế vạn năng mà là quân đoàn xây dựng, những người thích đặt những nét hoàn thiện vào những công trình của tạo hóa”. Qua những cuốn của Nelson Demille mà tôi từng đọc, tôi đã ấn tượng với tính cách của nhân vật John Corey. Đến cuốn “Đảo Plum”, nhân vật này đặc biệt thể hiện rõ nét sự ngang tàng, mạnh mẽ, vô cùng hài hước, galant với phụ nữ ngay cả khi tính mạng bản thân đang lâm nguy nhưng vẫn giữ vững bản chất “vô độc bất trượng phu”. Trong hai cuốn trước mà tôi đọc, John Corey có một người vợ cũng là cảnh sát, tính cách độc lập và xuất sắc không kém chồng. Trong cuốn này, có lẽ vì Corey đang chờ đơn ly dị và độc thân tự do quyến rũ nên nam chính chiếm 60% ‘thời lượng’ truyện. Tôi thích cách Corey rất hiếm khi kiềm chế khi bị hút về phía phụ nữ, đã thích thì tấn công dữ dội, nhưng khi quyết định không dính dáng đến nữa thì lạnh lùng như sông băng. Tuy như vậy sẽ khiến phụ nữ có chút đau lòng, vì hầu hết nữ giới luôn khao khát được khao khát, nhưng cá nhân tôi tán đồng những người đàn ông cương quyết trong tình cảm (và trong những chuyện khác), thà rằng cắt đứt từ khi chưa có gì còn hơn khiến dây tơ hồng vướng víu khắp các lối mình từng qua. ____ Có lẽ vì lý do này mà tôi bắt đầu thích nhân vật John Corey nhiều hơn cả Dirk Pitt, đang mấp mé thích hơn cả Jack Reacher! Hãy xem vài câu nói khá hay ho của John Corey: “Ngoại giao là nghệ thuật nói những thứ khốn nạn cho dễ nghe, cho đến khi tìm được một hòn đá”. “Thật khó khi bạn có nhiều câu hỏi vào lúc hai giờ sáng, bạn lại đang căng lên vì chất cà phê và không có ai muốn nói chuyện với bạn”. “Những người làm chính trị sợ bất cứ thứ gì mà họ không hiểu, mà họ thì lại chẳng hiểu được thứ gì”. Tôi cũng thích cả hai nhân vật nữ trong truyện: Beth Penrose xinh đẹp như người mẫu và can trường như chiến binh, Emma Whitestone tinh thông kim cổ và tự tin trong ..mmhh.. một lĩnh vực quan trọng + cần thiết của cuộc sống (tức là tình dục). Tôi tin rằng ngoài đời thực vẫn có những phụ nữ dù bị vết thương đạn bắn nhưng vẫn có thể trải qua nhiều giờ lao đao trên một chiếc tàu cao tốc giữa cơn bão biển để săn lùng hung thủ, nhưng khi đọc thấy nhân vật Beth Penrose thực hiện những điều đó, tôi vẫn vô cùng thán phục cô ấy. Cả hai nữ chính đều có thể đối đáp ngang hàng với một John Corey tếu táo trong mọi thời điểm (kể cả lúc sắp chết). Dù bản thân không thích hình tượng Mary Sue nhưng khi đọc “Đảo Plum”, tôi vẫn mơ mộng mình sẽ có được sự kết hợp những ưu điểm của cả hai nữ chính trong truyện. Vâng, tôi vừa tham lam vừa phi thực tế. Tuy từ nhỏ đã có niềm yêu thích đặc biệt đối với truyện trinh thám (từ khi tôi còn chưa biết sách chia ra nhiều thể loại và trinh thám là một trong những thể loại đó) nhưng do tham gia hội trinh thám khá muộn (4~5 năm sau khi thành lập) nên tôi đã bỏ lỡ không mua nhiều cuốn hay, trong đó có những cuốn của Lee Child và Nelson Demille. Tuy vậy, tôi rất may mắn được các anh chị trong hội quý mến và rộng lượng cho mượn thật nhiều sách, kể cả sách cũ hiếm, do đó tôi vẫn có cơ hội được đọc những cuốn không còn bán ngoài thị trường, chẳng hạn như “Đảo Plum”. Đây là một cuốn sách bản to, bìa cứng, đủ nặng để không thể nằm đọc, thuộc loại sách mà tôi rất thích ôm đọc đến khi mỏi cả tay. Truyện được dịch thuật tốt, trình bày ổn, cốt truyện và văn phong đều khiến tôi hài lòng. Điều buồn cười duy nhất là thiết kế bìa quá kỳ dị. (Sea, 10-2-2021) Xin cảm ơn chị N. đã cho em Biển mượn sách Cáo Biển Non Xanh *** Tôi nhìn qua ống nhòm. Một chiếc tàu dài hơn chục mét đậu cách bờ biển chừng vài trăm thước. Trên boong, hai cặp nam nữ độ ba mươi tuổi đang cười đùa, tắm nắng, uống bia hay thứ gì đó. Hai người phụ nữ mặc quần lót bé xíu, ngực để trần. Một trong hai gã đang ở mũi tàu trút bỏ bộ đồ tắm, đứng đó một lát, khom người rồi nhảy tùm xuống nước và bơi quanh con tàu. Đất nước này vĩ đại thật. Tôi bỏ ống nhòm và nhấp một ngụm Budweiser. Đó là cuối mùa nghỉ hè, không phải là cuối tháng Tám, mà là tháng Chín, trước Thu phân. Đã qua ngày nghỉ lễ Lao động, sắp sang nửa kia của mùa thu. Tôi là John Corey, nghề nghiệp cảnh sát đang dưỡng thương, khi đó đang ngồi dưới mái hiên sau nhà của ông cậu ruột, ngả mình trên chiếc ghế bằng liễu gai, đầu óc miên man với những ý nghĩ hời hợt thoáng qua trong đầu. Với tôi, vấn đề của sự nhàn rỗi là không biết đến khi nào cuộc đời mình kết thúc. Hiên nhà được làm theo kiểu cũ, bao bọc ba bề của ngôi nhà trong trang trại xây từ những năm 1890, thời Victoria. Tất cả đều làm vách gỗ, có trang trí, chóp nhọn, đầu hồi, đủ mọi thứ. Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn về phía nam tới Vịnh Great Peconic qua một bãi cỏ xanh dốc. Mặt trời đã xuống thấp ở chân trời phía tây, vị trí lúc 6 giờ 45 chiều. Tôi sống ở thành phố, nhưng lại thực sự thích những gì ở nông thôn, bầu trời và mọi thứ ở đó. Cuối cùng, cách đây vài tuần, tôi đã thấy được chòm Đại hùng tinh. Tôi mặc chiếc áo phông đơn màu và quần jean ngắn mà trước đây khi chưa sút cân còn vừa vặn. Hai chân tôi gác lên lan can, khoảng giữa hai ngón chân cái phía đằng xa chính là con tàu khi nãy. Thời gian này trong ngày là lúc ta bắt đầu nghe thấy tiếng dế, tiếng côn trùng. Nhưng tôi không hâm mộ gì những tiếng ồn ã đó của tự nhiên nên đã để một chiếc đài quay băng xách tay trên chiếc bàn con bên cạnh và nghe nhạc của nhóm The Big Chill,chai Budweiser đặt bên trái, chiếc ống nhòm để trên bụng. Trên sàn gần tay phải tôi là khẩu Smith & Wesson .38 với nòng dài năm phân, vừa khít với chiếc ví của tôi. Chỉ để đùa thôi. Trong cái khoảng hai giây chuyển từ bài When a Man Loves a Woman sang bài Dancing in the Street, tôi nghe, hay linh cảm thấy, tiếng bước chân ai đó trên ván sàn đi quanh hiên. Vì sống một mình và cũng không mong chờ ai đó đến thăm, tôi với khẩu súng bên tay phải đặt vào bọc. Các bạn đừng cho rằng tôi mắc bệnh hoang tưởng, vì tôi đang điều trị, không phải bệnh tật mà là ba vết thương do đạn bắn, hai viên loại 9 li và một viên Magnum nòng 44. Kích cỡ của lỗ đạn không thành vấn đề. Cũng như trong mua bán nhà đất, quan trọng là vị trí, vị trí và vị trí. Rõ ràng mấy vết thương này ở những chỗ không đáng ngại, vì tôi đang phục hồi, chứ không rữa ra. Tôi nhìn sang phía phải nơi góc hiên quanh qua mặt phía tây của ngôi nhà. Một người đàn ông xuất hiện và dừng lại cách tôi dăm mét, đôi mắt dõi theo những bóng dài của mặt trời sắp lặn. Kỳ thực, bóng anh ta phủ cả lên người tôi nên có vẻ như không nhìn thấy tôi. Với mặt trời phía sau lưng người đàn ông, tôi rất khó mà nhìn ra khuôn mặt hay phán đoán ý định của người đó. Tôi nói, “Có thể giúp gì được anh không?” Người đàn ông quay lại phía tôi. “Ô, John, tôi không nhìn thấy cậu ở đó”. “Mời sếp ngồi”. Tôi nhét khẩu súng vào cạp quần dưới áo và vặn nhỏ tiếng của bài Dancing in the Street. Đó là Sylvester Maxwell, gọi tắt là Max, cảnh sát trưởng của thị trấn này. Max bước đến phía tôi và tựa vào lan can, đối diện với tôi. Anh mặc chiếc áo khoác màu xanh da trời mang phù hiệu, sơ mi trắng cài khuy thấp, quần màu nâu, đi giày không tất, kiểu của dân đi tàu. Không thể biết anh đang làm nhiệm vụ hay không. Tôi nói, “Có nước ngọt trong thùng lạnh đấy.” “Cám ơn”. Anh cúi xuống lấy một chai Budweiser ra khỏi thùng đá. Max thích gọi bia là nước ngọt. Anh nhấp một chút, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không trước mặt. Tôi hướng lại ra phía vịnh và nghe bài Too Many Fish in the Sea của nhóm Marvelettes. Vì là ngày thứ hai nên khách đi nghỉ cuối tuần đã về hết, ơn Chúa. Nhu tôi đã nói, sau ngày lễ Lao động, hầu hết những người thuê nhà nghỉ đã đi khỏi và bạn có thể cảm nhận sự yên tĩnh trở lại. Max là người bản xứ mà lại không đi thẳng vào chuyện, nên tôi chỉ còn cách là chờ đợi. Cuối cùng, anh hỏi tôi: “Cậu là chủ nhà ở đây à?”. “Là của cậu tôi. Ông ấy đang muốn tôi mua chỗ này.” “Đừng mua bất cứ thứ gì. Phương châm của tôi là, nếu nay đây mai đó thì chỉ thuê thôi.” “Cám ơn anh.” “Cậu sẽ ở đây một thời gian chứ?” “Tới khi nào không có gió thổi qua ngực tôi nữa.” Anh mỉm cười, nhưng rôi đăm chiêu trở lại. Max có khổ người to lớn, trạc tuôi tôi, khoảng trên dưới bốn mươi lăm, tóc vàng hoe hơi gợn sóng, nước da đỏ khỏe mạnh và đôi mắt màu xanh. Dường như trong mắt phụ nữ, anh là người điển trai. Điều này rất có lợi cho một cảnh sát trưởng Maxwell độc thân lại không mắc bệnh đồng tính. Max nói, “Cậu cảm thấy thế nào rồi ?” “Không tệ lắm.” “Cậu có thấy giống như bài tập cho tinh thần không?” Tôi không đáp. Tôi đã quen biết Max mười năm nay, nhưng vì không sống ở đây nên tôi chỉ thi thoảng mới gặp anh. Cũng phải nói thêm, tôi là điều tra viên ở thành phố New York chuyên về các vụ án giết người, trước đây làm ở Bắc Manhattan cho tới khi tôi bị thương. Đó là vào ngày 12 tháng Tư. Trong khoảng hai chục năm chưa có điều tra viên nào bị bắn ở New York nên vụ của tôi gây chú ý lớn. Phòng Thông tin Công chúng của Sở Cảnh sát New York tiếp tục đưa tin vì vẫn đang trong thời gian hợp đồng. Với bề ngoài khá được của tôi, hay đại loại như vậy, họ cũng có chút lợi, với sự hợp tác của báo chí, và chúng tôi cứ tiếp tục như vậy. Trong lúc đó, hai tên thủ phạm đã bắn tôi thì vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Vì thế, tôi mất một tháng ở Trung tâm y tế Columbia Presbyterian, sau đó nghỉ vài tuần trong căn hộ của tôi ở Manhattan trước khi cậu Harry gợi ý căn nhà nghỉ mùa hè của ông là nơi thích hợp với một người hùng. Sao lại không nhỉ? Tôi đến đây vào cuối tháng Năm, ngay sau ngày Tưởng niệm Liệt sỹ*. Max nói, “Chắc cậu biết Tom và Judy Gordon.” Tôi nhìn anh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Tôi hiểu. Tôi hỏi, “Cả hai người à?” Anh gật đầu. “Cả hai.” Sau một thoáng yên lặng kính cẩn, anh nói, “Tôi muốn cậu đến xem hiện trường.” “Tại sao lại là tôi?” “Tại sao lại không? Coi như giúp tôi. Trước khi có người khác lần ra được điều gì đó. Tôi đang thiếu điều tra viên án giết người.” Kỳ thực, cảnh sát thị trấn Southold không có lấy một điều tra viên án giết người nào và điều này cũng chẳng sao vì rất ít khi có ai đó bị giết. Mà nếu có thì cảnh sát quận Suffolk sẽ nhảy vào cuộc, còn Max đứng ngoài. Max không thích điều này. Cần nói thêm một chút về nơi này. Đây là vùng North Fork của đảo Long Island, bang New York. Theo một tấm bảng trên đường cao tốc, thị trấn Southold được một số người từ New Haven, bang Connecticut dựng lên vào những năm 1640. Theo tất cả những gì được biết, những người này đang trên đường chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà vua. Vùng South Fork của đảo Long Island nằm ở phía bên kia của vịnh Peconic là một Hamptons đầy sành điệu: các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên, các hạng người được công chúng biết đến và đủ thứ hỗn tạp khác. Còn ở North Folk này, dân cư hầu hết là nông dân, ngư dân hay đại loại như vậy. Và có lẽ có một kẻ sát nhân. Ngôi nhà của cậu Harry nằm ngay trong thôn Mattituck, khoảng một trăm dặm đường bộ từ Đường 102 Tây, nơi hai quý ông trông như dân Latinh xả mười bốn, mười lăm phát đạn chào tạm biệt, ba phát trúng vào mục tiêu di động cách chừng dăm sáu mét. Không phải là một màn trình diễn ấn tượng, nhưng tôi không chê bai hay phàn nàn gì. Thị trấn Southold chiếm phần lớn vùng North Fork, bao gồm tám thôn và một ngôi làng, có tên là Greenport. Lực lượng cảnh sát gồm khoảng bốn mươi sỹ quan có tuyên thệ và Sylvester là cảnh sát trưởng. Max nói, “Trông cậu không có vẻ đau đớn.” “Có chứ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi có trát đòi ra làm chứng ngoài này vào một thời điểm không mấy dễ chịu? Tôi không được trả tiền để làm điều này.” “Tôi đã gọi cho giám viên của thị trấn và được chấp nhận cho thuê cậu về làm chính thức với tư cách cố vấn. Một trăm đô la mỗi ngày.” “Chà. Nghe như thứ công việc mà tôi phải tiết kiệm để có được.” Max tự cho mình nở nụ cười. “Này, nhưng bao cả tiền gas và điện thoại của cậu. Với lại hiện giờ cậu cũng không làm gì.” “Tôi đang cố chữa lành vết thương ở phổi bên phải.” “Công việc này cũng không nặng nhọc gì lắm.” “Làm sao anh biết.” “Đây là cơ hội để cậu trở thành công dân tốt của thị trấn Southold đấy.” “Tôi là người New York. Không ai bắt tôi phải làm công dân tốt.” “Này, cậu có biết rõ nhà Gordon không? Họ là bạn của cậu à?” “Đại loại thế.” “Vậy còn gì nữa? Đó là động cơ cho cậu. Thôi nào, John. Đứng dậy. Chúng ta đi. Tôi sẽ nợ cậu chuyện này. Đặt một vé nhé.” Quả thật, tôi đã chán ngán, nhưng vợ chồng nhà Gordon là những người tốt... Tôi đứng dậy và đặt chai bia xuống. “Tôi sẽ nhận công việc với mức lương một đô la mỗi tuần để làm chính thức.” “Tốt. Cậu sẽ không tiếc đâu.” “Đương nhiên là sẽ tiếc.” Tôi tắt nhạc bài Jeremiah Was a Bullfrog và hỏi Max, “Có nhiều máu không.” “Ít thôi, vết thương ở đầu.” “Anh nghĩ tôi có cần xỏ dép không?” “Ồ... một ít óc và xương sọ vỡ phía sau...” “Được.” Tôi xỏ dép rồi cùng Max đi vòng theo hiên ra đường xe phía trước. Tôi ngồi vào chiếc xe cảnh sát không phù hiệu của Max, chiếc Jeep Cherokee màu trắng có lắp điện đài cảnh sát với thứ âm thanh loạc xoạc. Chúng tôi đi dọc theo con đường dài từ nhà ra. Con đường được phủ bằng vỏ sò và hến cá từ trăm năm nay do cậu Harry và những người trước đó trải chúng lên đường cùng với tro và xỉ than của lò sưởi để tránh bùn và bụi. Dù sao đi nữa, chỗ này trước đây đã từng được gọi là trang trại của vịnh, giờ vẫn nằm phía trước vịnh, nhưng hầu hết diện tích của trang trại đã bị bán hết. Cây cối ở đây hơi quá lứa, chủ yếu là những thứ không còn dùng đến, như cây đầu xuân, liễu tơ và những hàng rào thủy lạp. Ngôi nhà sơn màu kem với những đường trang trí màu xanh, mái nhà cũng màu xanh. Tất cả đều rất đẹp, thực sự đẹp. Có lẽ tôi sẽ mua nó nếu mấy tay bác sĩ của cảnh sát nói tôi phải nghỉ hẳn. Tôi phải tập ho ra máu mất thôi. Về chuyện vết thương, tôi được trả lương hưu miễn thuế suốt đời vì tỉ lệ thương tật ba phần tư. Chuyện này ở Sở Cảnh sát New York chẳng khác gì đến thành phố Atlantic, sà vào sòng bạc Trump’s Castle, chúi đầu vào một chiếc máy đánh bạc trước sự chứng kiến của một luật sư chuyên về nợ. Độc đắc rồi! “Cậu nghe thấy tôi nói không?” “Gì cơ?” “Tôi nói, một người láng giềng phát hiện ra họ lúc 5 giờ 45 chiều.” “Tôi được tính lương ngay lúc này đấy à?” “Chắc chắn rồi. Mỗi người bị bắn một phát vào đầu. Người láng giềng phát hiện ra họ nằm ở hiên sau nhà.” “Max, tôi sẽ xem xét toàn bộ hiện trường. Còn người láng giềng kia thì sao?” “Đó là Edgar Murphy, một ông già. Ông ta nghe tiếng tàu của vợ chồng Gordon về lúc 5 giờ 30. Khoảng mười lăm phút sau ông ta đi qua thì thấy họ đã bị giết. Không nghe thấy tiếng súng nào.” “Ông ta dùng máy trợ thính à?” “Không. Tôi đã hỏi ông ta. Edgar nói bà vợ ông ta cũng vẫn thính tai. Vì thế, có thể là súng giảm thanh. Cũng có thể tai họ không được tốt như họ nghĩ.” “Nhưng họ đã nghe thấy tiếng con tàu. Edgar chắc chắn về thời gian à?” “Rất chắc chắn. Ông ta gọi cho chúng tôi lúc 5 giờ 51 chiều, tức là gần thời điểm đó.” “Đúng.” Tôi nhìn đồng hồ. Lúc này là 7 giờ 10 phút. Chắc hẳn ngay sau khi đến hiện trường, Max đã có ý tưởng sáng suốt là tìm tôi. Tôi đoán các nhân viên điều tra án mạng của quận Suffolk hiện đang ở đó. Có lẽ họ đến từ một thị trấn nhỏ có tên là Yaphank, nơi đặt trụ sở của cảnh sát quận và cách chỗ vợ chồng Gordon sống khoảng một giờ lái xe. Max nói đủ thứ dài dòng, còn tôi cố tập trung suy nghĩ. Nhưng đã năm tháng nay tôi chưa phải nghĩ đến những điều như thế này. Tôi định ngắt lời, “Chỉ các sự kiện chính thôi, Max!”, nhưng tôi lại để anh tiếp tục lải nhải. Cùng lúc đó, âm điệu của bài hát Jeremiah Was a Bullfrog vẫn luẩn quẩn trong đầu tôi. Các bạn biết đấy, thật sự rất khó chịu khi không thể dứt hẳn một điệu nhạc ra khỏi đầu. Nhất lại là thứ này. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa xe. Chúng tôi chạy dọc theo con đường chính theo hướng đông-tây có cái tên nghe dễ chịu là đường Main Road, tới một nơi gọi là Nassau Point, nơi vợ chồng Gordon sống - hoặc đã từng sống. North Folk gần giống như Cape Cod, vùng đất gió lộng nhô ra biển, ba bề là nước, một nơi có nhiều sự kiện lịch sử. Dân cư bản địa không nhiều, chỉ khoảng hai mươi nghìn, nhưng lượng người đi nghỉ hè và nghỉ cuối tuần đến đây rất đông. Những xưởng sản xuất rượu vang cũng thu hút khách đến rồi đi trong ngày. Cứ thử mở một xưởng rượu, bạn sẽ có cả chục nghìn tay ăn chơi từ thành thị gần nhất đến nhâm nhi. Đố bao giờ sai. Chúng tôi rẽ theo hướng nam tới Nassau Point. Nơi đây là một dải đất dài hai dặm giống như một lưỡi dao cắt vào vịnh Great Peconic. Từ cầu tàu ở nhà tôi tới nhà Gordon khoảng bốn dặm. Nassau Point trở thành một điểm nghỉ hè từ khoảng những năm 1920. Nhà cửa ở đây từ những căn nhà gỗ đơn giản đến những tòa nhà hoành tráng. Albert Einstein cũng đã từng đến đây nghỉ hè, và chính từ đây, vào khoảng những năm 1930, ông đã biết “Bức thư Nassau Point” nổi tiếng gửi Roosevelt thúc giục ngài tổng thống tiến hành việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Phần còn lại, như người ta nói, là cả lịch sử. Một điều thú vị là Nassau Point vẫn là nơi ở của một số nhà khoa học. Một số người làm việc tại Phòng Thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, cơ quan nghiên cứu hạt nhân bí mật hay gì đó cách đây khoảng ba mươi lăm dặm. Một số nhà khoa học làm việc trên Đảo Plum, khu vực tuyệt mật nghiên cứu sinh học đáng sợ tới mức phải đặt nó trên một hòn đảo. Đảo Plum cách khoảng hai dặm từ mũi Orient Point, điểm cuối cùng trên đất liền ở North Folk - điểm dừng tiếp theo là châu Âu. Không phải ngẫu nhiên, Tom và Judy Gordon là hai nhà nghiên cứu sinh học làm việc trên Đảo Plum. Bạn có thể đánh cược là cả Sylvester Maxwell và John Corey đều đang nghĩ đến điều đó. Tôi hỏi Max. “Anh đã gọi cho cơ quan liên bang chưa?” Anh lắc đầu. Mời các bạn mượn đọc sách Đảo Plum của tác giả Nelson DeMille & Đỗ Thúy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Kỳ Tích Của Hercule Poirot - Agatha Christie
Bị so bì với người anh hùng cùng tên là Hercules, Poirot tự đặt ra mục tiêu hoàn thành 12 kỳ tích tương ứng. Nhưng tất nhiên là không bằng sức mạnh cơ bắp mà là sức mạnh của trí tuệ điều tra. Những Kỳ Tích Của Hercule Poirot gồm có: 3: Một Chuyện Tình 5: Một Vụ Vu Khống 6: Một Vụ Tống Tiền 7: Một Vụ Trả Thù 8: Kẻ Buôn Ma Túy 9: Bức Họa Của Rubens 10: Đàn Cừu Của Andersen 11: Chiếc cốc bằng vàng 12: Xuống Địa Ngục *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Những Kỳ Tích Của Hercule Poirot của tác giả Agatha Christie.
Trò Chơi Cấm - Ninh Hàng Nhất
Đây là trò chơi săn đuổi kịch tính và chứa nhiều điều huyền bí nhất trong lịch sử. Năm mươi học viên trong một lớp đào tại tiếng Anh cho người lớn, mỗi người đều được ban cho một khả năng khống chế một sự vật nhất định. Lúc bắt đầu, khả năng đó đều ở cấp độ thấp nhất, nhưng mỗi lần sử dụng nó để “đánh gục” một đối thủ, sức mạnh sẽ tăng lên một cấp. Trong vòng một năm, chỉ một trong số năm mươi người đó có thể sống sót, sức mạnh của kẻ chiến thắng sẽ tăng gấp 50 lần so với ban đầu, trở thành “thần của thế kỉ mới”, có khả năng khống chế cả thế giới. Tất cả những thứ đó, đều là “trò chơi” do một người tự xưng là “người chiến thắng” của kì chơi trước, với tên gọi “cựu thần” sắp đặt. Kể từ khi ông ta xuất hiện, năm mươi con người bình thường kia, sẽ không còn bình thường nữa. Cuộc đời và vận mệnh của họ đã thay đổi hoàn toàn kể từ đó. Một người có thể khống chế “cái chết”, lại phát hiện sức mạnh ban đầu của mình yếu đến đáng sợ, chỉ có thể “đoạt mệnh” những động vật nhỏ. Với sức mạnh này, phải làm sao mới có thể phản kích lại những đối thủ khác? Một người có thể khống chế “xác suất” hoàn toàn không muốn bị cuốn vào trò chơi săn đuổi này, chỉ muốn dựa vào khả năng của chính mình, trở thành người giàu nhất hành tinh. Một người có khả năng khống chế “các con số” tình cờ phát hiện khả năng đó của mình lại có thể trở thành thứ vũ khí giết người sắc bén, cô ấy nên chủ động xuất kích, hay phòng phủ một cách bị động? Những người xung quanh cô, ai mới là bạn, ai sẽ là thù? Trong 50 người đó, ai sẽ là người chiến thắng cuối cùng? Ngoài việc “đánh gục” 49 đối thủ còn lại, chẳng lẽ không còn cách nào khác? Sự cố gắng của các “đồng minh” liệu có thể thay đổi tất cả? Năm mươi “người cạnh tranh” sẽ chọn lựa như thế nào khi đứng trước nhân tính và sinh tồn, dục vọng và tình bạn? Cuốn sách này không chứa những đoạn miêu tả bạo lực và máu me, một trò chơi xem chừng như tàn khốc, nhưng lại thể hiện tình người, tình bạn và tinh thần không khuất phục vận mệnh của con người khi đứng trước thảm cảnh. *** Tác giả Ninh Hàng Nhất tên thật là Ninh Hàng, là nhà văn chuyên viết tiểu thuyết trinh thám kinh dị. Anh bắt đầu nghiệp viết từ năm 1999, tới nay đã là một tay bút chuyên nghiệp kiêm biên kịch phim. Tác phẩm của anh được đăng trên nhiều các tạp chí, trang mạng lớn của Trung Quốc, còn được dịch và đăng trên các tạp chí ngoại văn. Một số tác phẩm tiêu biểu có thể kể đến “Tiếng đêm”, “Hẹn với thần chết”, “Chuyến đi sống còn”, “Lời nguyền ngày tận thế”. Ninh Hàng Nhất được đánh giá là cây đại thụ trong làng tiểu thuyết trinh thám mới, là “Alfred Hitchcock” của Trung Quốc. Bộ tiểu thuyết trinh thám 1/14, Trò chơi tử thần gồm có 5 tập hiện đã được xuất bản xong tại Việt Nam, đã được khá nhiều độc giả Việt đón nhận, được đánh giá là bộ tiểu thuyết trinh thám xen lẫn kinh dị gây tiếng vang lớn. Trò chơi cấm là một trong những cuốn series trinh thám mới nhất của tác giả này được xuất bản tại Việt Nam. Trò Chơi Cấm gồm có: Trò Chơi Cấm Cạm Bẫy Cựu Thần Dị Giới Giải Cứu Mời các bạn đón đọc Trò Chơi Cấm của tác giả Ninh Hàng Nhất.
Thần Đồng - Marie Lu
Trong cuốn hai của bộ series – Thần đồng, Marie Lu miêu tả kĩ hơn về bối cảnh và hé lộ các bí mật trong phe Kháng chiến và “đất nước” đối đầu với nơi Day và June đang sống – một đất nước lấy phát triển kinh tế làm chính, nơi người dân hoặc là làm thương gia, hoặc là làm công nhân. Chỉ có một điểm chung ở hai đất nước: nơi nào cũng có những người dân đói khổ. Trong tập này, người đọc sẽ hiểu rõ hơn về thế giới nơi mà nhân vật chính của chúng ta đang sống, đồng thời đây cũng là bước nhảy để nhân vật trưởng thành hơn, xác định được lý tưởng của mình. Day và June trốn thoát khỏi hiểm nguy, cả hai cùng tháo chạy về phía bên kia của một đất nước cổ xưa từng được gọi là “nước Mỹ”. Ở đoạn này, khi đọc đến phần chia đôi đất nước với một bên thiên về quân sự và bên còn lại thiên về phát triển kinh tế, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra Marie đang miêu tả đất nước nào trong quá khứ, với lịch sử từ thống nhất rồi gặp “thảm họa” để bị chia cắt thành hai nằm dưới sự điều khiển của các chính phủ khác nhau: Việt Nam. Cách tác giả miêu tả quân Kháng chiến hoạt động dưới các đường ống ngầm và bức tường ngăn cách đôi bên cũng nổi bật sự liên tưởng đến lối đánh du kích của quân nhân Việt Nam ngày xưa hay bức tường Berlin tại Đức. Có thể thấy rằng tác giả đã nắm rất vững kiến thức lịch sử – xã hội – chính trị – quân sự và vận dụng rất tốt vào trong câu chuyện của mình. Đây thực sự là một điểm ấn tượng khi đọc được các ẩn dụ này bên trong truyện, không quá sâu nhưng vừa đủ để người đọc có thể liên tưởng. Ở đây, câu chuyện của chúng ta có chiều sâu hơn hẳn, bởi tâm lý nhân vật dần được khắc họa rõ nét hơn và các âm mưu, bí mật cũng lần lượt được vạch trần. Thần đồng rũ bỏ hoàn toàn hình ảnh một Day chỉ biết hành động theo bản năng và một June đắm chìm trong đau khổ. Cả hai bắt đầu trưởng thành và cả hai đều đưa ra quyết định riêng cho bản thân mình. Cuốn thứ 2 là điểm mốc phát triển tính cách và tháo gỡ nút thắt đã được cài trước đó, cũng như tạo thêm tình tiết mới và gợi sự tò mò về một đất nước sau đổi mới, một đất nước “không nên bị hủy hoại mà cần phải thay đổi”. Đây cũng là cuốn đánh dấu và gợi báo số phận của hai nhân vật chính, dù cho có vài cái chết mình thấy không cần thiết và chưa đủ độ xúc cảm, Thần đồng vẫn tiếp tục khuyến khích người đọc tìm mua phần sau cuối của bộ sách để cùng hành trình với nhân vật trong những quyết định của anh ta. *** Huyền thoại là quyển một trong bộ tiểu thuyết viễn tưởng về nước Mỹ trong tương lai, nơi mà bệnh dịch kéo dài và xã hội phân hóa giai cấp đồng thời quyền lực quân sự luôn chiếm vị thế cao do chiến tranh triền miên, phân nửa nước Mỹ đã bị hủy hoại, phần còn lại được chia ra làm hai với chế độ chính trị khác nhau. Chính quyền trong bối cảnh viễn tưởng này đang truy lùng gắt gao Day – một Huyền thoại xuất thân từ khu ổ chuột, và June, thiên tài đạt số điểm tối đa trong kì Sát hạch đã được cử đi để bắt Day, cũng như đi trả thù cho cái chết của anh trai mình được cho là do Day gây ra. Huyền Thoại gồm có: Huyền Thoại Thần Đồng Chiến Thắng *** 4 THÁNG MỘT 19:32, CHUẨN GIỜ ĐẠI DƯƠNG BA MƯƠI LĂM NGÀY SAU CÁI CHẾT CỦA METIAS Day bừng tỉnh bên cạnh tôi. Lông mày đẫm mồ hôi, hai má ướt nước mắt. Hơi thở cậu nặng nề. Tôi ngả người đưa tay gạt một lọn tóc ướt ra khỏi mặt cậu. Vết rách trên vai tôi đã lên vảy nhưng cử động làm cơn đau trở lại. Day ngồi dậy, mệt mỏi dụi mắt và nhìn quanh toa tàu lắc lư của chúng tôi như thể đang tìm kiếm gì đó. Đầu tiên cậu đưa mắt về phía đống thùng gỗ ở một góc tối, sau đó là miếng bao bố trải trên sàn rồi cái túi nhỏ đựng thức ăn và nước uống đang nằm giữa chúng tôi. Phải mất đến một phút cậu mới định hướng được, mới nhớ ra rằng chúng tôi đang đi lậu trên một đoàn tàu hướng tới Las Vegas. Vài giây trôi qua, cậu thả lỏng và ngả người dựa vào tường. Tôi nhẹ nhàng vỗ vào tay cậu. “Cậu ổn chứ?” Đây đã trở thành câu hỏi thường trực của tôi. Day nhún vai. “Ừ,” cậu thì thầm. “Ác mộng.” Chín ngày đã trôi qua kể từ khi chúng tôi phá ngục trốn khỏi lâu đài Batalla và rời bỏ Los Angeles. Kể từ đó, Day luôn gặp ác mộng mỗi lần cố chợp mắt. Khi chúng tôi mới trốn thoát và có được vài giờ nghỉ ngơi trong một sân ga bỏ không, Day đã la hét đến choàng tỉnh giấc. Chúng tôi đã khá may mắn khi không một tên lính hay cảnh sát tuần tra nào nghe thấy. Từ sau chuyện đó, tôi tập cho mình thói quen vuốt tóc cậu ngay sau khi cậu chìm vào giấc ngủ, hôn lên má, lên trán và mí mắt cậu. Cậu vẫn tỉnh dậy giữa những cơn thở gấp đẫm nước mắt, đôi mắt hoảng loạn tìm kiếm những điều cậu đã đánh mất. Nhưng dẫu sao thì cậu cũng làm những điều đó trong im lặng. Đôi lúc, khi Day im lặng như vậy, tôi lại băn khoăn không biết cậu đã phải nỗ lực đến thế nào mới giữ cho mình tỉnh táo. Ý nghĩ đó làm tôi sợ hãi. Tôi không thể chịu nổi nếu mất cậu. Tôi vẫn tự thuyết phục mình đó là vì những lý do thực tế: chúng tôi khó có thể sống sót một mình tại thời điểm này, và các kỹ năng của cậu bổ sung cho kỹ năng của tôi. Bên cạnh đó… tôi cũng chẳng còn ai để bảo vệ nữa. Tôi cũng chia sẻ với cậu những giọt nước mắt, mặc dù tôi luôn đợi tới lúc cậu ngủ rồi mới khóc. Đêm qua tôi đã khóc cho Ollie. Tôi cảm thấy hơi ngốc nghếch vì lại khóc cho con chó của mình trong khi quân Cộng hòa giết gia đình tôi, nhưng tôi vẫn không thể kìm lòng được. Anh Metias là người đã đưa nó về nhà, một quả bóng trắng muốt với những bàn chân khổng lồ, đôi tai cụp xuống, đôi mắt nâu ấm áp, sinh vật ngọt ngào và vụng về nhất mà tôi từng thấy. Ollie là cậu bé của tôi, và tôi đã bỏ nó lại. “Cậu mơ thấy gì thế?” tôi thì thầm với Day. “Chẳng có gì đáng nhớ cả.” Day trở mình, cau mày khi vô tình cọ cái chân đau vào tường. Cơ thể cậu căng lên vì cơn đau, và tôi biết rõ cánh tay bên dưới lớp áo sơ mi của cậu rắn chắc đến mức nào, những múi cơ chắc nịch có được từ đường phố. Một hơi thở nặng nhọc thoát ra từ môi cậu. ... Mời các bạn đón đọc Thần Đồng của tác giả Marie Lu.
Đồng Thoại Đen - Otsuichi
Có một con quạ làm tổ dưới mái rạp chiếu phim. Từ hồi còn là quạ non, nó đã vừa nhấm nháp sâu béo cha mẹ mang cho, vừa ngắm nhìn màn hình trong rạp qua lỗ thủng nhỏ trên tường. Ngày qua tháng lại, cứ thích thú nhẩm theo lời thoại, nó nói được tiếng người tự lúc nào chẳng biết. Một ngày nọ rạp chiếu phim bị phá dỡ, quạ bấy giờ đã đủ lông đủ cánh và trình độ ngôn ngữ cũng đã rất đáng kể, bèn nai nịt lên đường ngao du. Rồi nó quen cô bé ấy, cô bé thích được tặng quà là những nhãn cầu đẫm máu. Quạ quyết tâm làm vui lòng cô dù có phải dùng mỏ khoét mắt cả nhân loại. Dẫn nhập bằng một câu chuyện cổ tích tăm tối, xoáy sâu nỗi đau da thịt, cuốn tiểu thuyết hiếm hoi của nhà văn chuyên viết truyện ngắn Otsuichi dẫn người ta vào một thế giới ngoại cảm cô đơn, rùng rợn và u buồn. *** Otsuichi là bút danh của Hirotaka Adachi, sinh năm 1978. Ông là một nhà văn Nhật Bản, chủ yếu là truyện ngắn kinh dị, đồng thời là một nhà làm phim. Ông là thành viên của Mystery Writers of Japan và The Honkaku Mystery Writers Club of Japan. Tác phẩm đầu tay của Ông là Summer, Fireworks and My Corpse được viết khi còn học trung học. Tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Goth - Những Kẻ Hắc Ám - Otsuichi Zoo - Otsuichi Đồng Thoại Đen ...   *** Lưu ý to đùng: 18+ ! Không dành cho các bạn yếu tim, yếu dạ hay yếu… ruột! Mình hạn chế spoil đến tối đa nên chỉ có xíu spoil thôi, yên tâm đọc nhé. Có thể nói Đồng thoại đen xếp trên Goth một bậc, mình hoàn toàn chắc chắn về điều đó. Tag Trinh thám và Kinh dị không phải để đùa, một quyển trinh thám ở mức khá cực kì xuất sắc về mảng kinh dị. Cái kinh dị của Otsuichi mang một màu sắc và dẫn người đọc vào một cảm giác khác biệt, không hề tìm thấy được ở bất cứ đâu. Đừng cố giải thích bất cứ gì trong quyển này nhé ,vì đó là điều không thể! Bạn có đọc Đồng thoại không? Có đồng thoại kể rằng có một con quạ biết nói, vì quá thương cảm cô bé mù mà ngày ngày đi tìm “mắt” (vâng, là “mắt” theo nghĩa đen) cho cô bé làm quà. Cô bé ngây ngô tin lời “người bạn gì ấy” mà cô không thể thấy, lắp “món quà nhồi bông” ấy vào mắt. Cô nhìn thấy những gì mà chủ nhân con mắt ấy thấy… từ đótình thân thiết giữa cô và người bạn kia càng thắm thiết. Đồng thoại kia tưởng chừng như chỉ là hư cấu, nhưng cô bé Nami lại vô tình “thấy” được những “kí ức” của con mắt trái của cô sau khi cô phẫu thuật ghép mắt không lâu. Chuyện cũng không có gì quá đặc biệt vì đoạn đầu chỉ là “lót đường” cho mạch truyện chính, nhưng mình lại đặc biệt thích cách mà tác giả đặt tình huống và làm bật lên áp lực mà Nami phải gánh chịu. Mất kí ức quả là điều khó khăn nhưng việc bị so sánh với chính mình trước đó thì lại càng đau khổ hơn. Mình có chút gì đó đồng cảm với Nami, trong lúc mà ta cần những lời động viên nhất thì lại bị dìm xuống bởi dèm pha và chỉ trích. Mình thử nghĩ đây chính là cái điều mà Otsuichi muốn mọi người thấy?! Bạn hãy thử đọc để biết tại sao mình lại nghĩ như thế, bởi đây chính là đoạn mình cực-kì-thích ở quyển này. Mình sẽ không nói thêm bất cứ chi tiết nào nữa vì tất cả đều spoil nghiêm trọng cốt truyện và plot twist nên bây giờ mình sẽ đi vào nhận xét tổng thể thôi.  Xét đến đầu tiên phải là điểm Kinh dị của Otsuichi trong quyển này. Lần này lối viết xen kẽ ngôi thứ nhất và ngôi thứ 3 của ông thực sự rất rất hiệu quả khi mà vừa lột tả cảm xúc một cách chân thực nhất lại vừa viết nên những cảnh kinh dị lạnh lẽo nhất. Cái kinh dị của Otsuichi không chỉ nằm ở những cảnh chặt xác giết người, hay cảnh “lột ngược” cơ đúng nghĩa đen giống như cảnh bạn lột ngược một cái bao vậy. Cái kinh dị nhất chính là giọng văn lạnh của tác giả dù là cảnh đó có máu me hay tởm lợm đến mức nào đi nữa thì giọng văn đó vẫn như thế, đều đều và lạnh lẽo, không chút xúc cảm. Điều này làm người đọc cảm thấy ớn lạnh hơn cả những quyển kinh dị có giọng văn mang vẻ u ám hay hù dọa. Và bạn cũng không thể ngờ được sự thay đổi khó tin khi chính giọng văn đó lại mang đầy cảm xúc, đầy xúc cảm một cách ấm nồng. Và xếp trên thang 10 và lấy Đồng thoại đen làm mốc 8 thì kinh dị trong GOTH cũng chỉ ở mức 5-6, với Zoo là 10! Đủ để bạn thấy Đồng thoại đen ám ảnh và kinh dị cỡ nào, lúc đọc thật sự mình cảm thấy buồn nôn, lạnh sống lưng và ớn đến từng thứa thịt. Thế nên, nếu bạn quá yếu vía hay bạn không thể chịu nổi những cảnh tượng kinh tởm thì không nên đọc quyển này nhé. Và quay lại với trinh thám, mình công nhận đây là quyển trinh thám khá. Mình quay cuồng cùng những suy nghĩ, đúng hơn là quay cuồng với những hình ảnh kinh tởm nên không biết có ảnh hưởng đến suy luận hay không nhưng mình không thể đoán ra được hung thủ. Chính xác hơn là: Không thể đoán được hung thủ là ai! Với ngần ấy thông tin và sự chi phối bởi cách suy luận của nhân vật, thêm cả hàng tá chi tiết mập mờ thì mình kết luận đây không thích hợp để tự suy luận, hoàn toàn không đủ thông tin ! Nhưng ít ra, nạc ra nạc mỡ ra mỡ, Đồng thoại đen không dở dở ương ương như GOTH, trinh thám lẫn kinh dị đều ở mức hay và xuất sắc. Tuy nhiên, trinh thám trong Đồng thoại đen không phải là quá xuất sắc nếu so với các quyển trinh thám cùng dung lượng. Ám ảnh cực kì ám ảnh, mình chỉ cần nghĩ đến thôi đã ớn lạnh, cảm xúc hệt như lúc đọc xong Zoo vậy, nó nhấn sâu vào tâm trí người đọc và khó mà dứt ra được. Otsuichi trong tưởng tượng của mình khá giống một tên bệnh hoạn chuyên viết lại những gì đã làm tiểu thuyết (hơi xa quá nhể) nhưng truyện mà ông sáng tác rất rất bệnh hoạn và độ kinh tởm đến level max rồi (với mình thì hơi hơi, vì cũng thấy quen quen sao đó :v túm lại thấy thường ).  Lưu ý 2: Đừng đọc quyển này hay bất cứ quyển nào của Otsuichi kèm nhạc piano hay nhạc nhẹ không lời (dù có lời cũng đừng nên nhé)!    Mời các bạn đón đọc Đồng Thoại Đen của tác giả Otsuichi.