Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vụ Án Viên Nhộng Xanh

Vụ án viên nhộng xanh là một trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng nhất của John Dickson Carr. Trong tác phẩm, Marcus Chesney – chủ sở hữu những nhà kính trồng đào tại Sodbury Cross – đã bị đầu độc chết trong một màn trình diễn do chính mình sắp đặt. Khi ấy, Marcus đang dùng một loạt bẫy tâm lí để chứng minh lập luận: nhân chứng không thể kể lại chính xác những điều đã xảy ra ngay trước mắt mình. Và tệ thay, ông đã đúng. Tất cả các nhân chứng đều mục kích vụ sát nhân nhưng dường như họ đều đang đeo một cặp kính đen, mọi thứ đều bị che phủ và lừa mị. Thấy vậy nhưng không hẳn là vậy, nghe thế nhưng chưa chắc là thế. Nhân chứng bị bưng tai bịt mắt bằng các bẫy gài liên hoàn dù cho họ vẫn mở mắt lắng tai. Qua Vụ án viên nhộng xanh, John Dickson Carr không chỉ dẫn dắt người đọc vào ma trận của những lời khai không trùng khớp mà còn nêu bật được một lập luận mới mẻ về giá trị của các nhân chứng trong làng văn trinh thám. *** Câu chuyện bắt đầu, theo trí nhớ của người đàn ông, trong một căn nhà ở thành phố cổ Pompeii. Anh ta không bao giờ quên được buổi chiều yên tĩnh, nóng bức đó, khi những giọng nói tiếng Anh phá vỡ sự tĩnh mịch của “Con Đường Hầm Mộ”. Vạt trúc đào nở hoa đỏ rực trong khu vườn đổ nát, và cô gái mặc váy trắng đứng im lìm giữa nhóm người đeo kính râm, trông như thể bị bao quanh bởi những chiếc mặt nạ. Người đàn ông nhìn thấy quang cảnh trên đã đến Napoli công tác được một tuần. Công việc anh ta cần làm ở Napoli không hề liên quan đến chuyện này. Nhưng công việc đó chiếm hầu hết thời gian của anh, và mãi đến buổi chiều thứ hai, ngày 19 tháng Chín, anh mới thư thả được đôi chút. Tối ấy người đàn ông này dự định sẽ đến Rome, và rồi bay qua Paris và về đến London. Chiều hôm đó anh đang ngắm cảnh trong tâm trạng thảnh thơi, và đối với anh quá khứ luôn có sức hút mãnh liệt không hề thua kém hiện tại. Đó là nguyên nhân tại sao, vào lúc yên tĩnh nhất trong ngày, dưới sự êm ả của ánh mặt trời rực rỡ, anh lại nhận ra mình đang đi trên Con Đường Hầm Mộ. Con Đường Hầm Mộ nằm bên ngoài những bức tường của thành Pompeii. Nó bắt đầu từ cổng Herculaneum và thoải xuống một ngọn đồi thấp, trông giống một cái máng xối lát gạch rộng với vỉa hè ở hai bên. Những cây bách mọc khắp chỗ và khiến con đường chết chóc này dường như có thêm phần sinh khí. Đây là nơi xây cất những hầm mộ của quý tộc La Mã, những bệ thờ thấp hai bên đường chưa đến mức hóa thành phế tích. Nghe tiếng chân mình vang vọng, người đàn ông mơ hồ có cảm giác mình như lạc vào một vùng đất bị quên lãng. Ánh nắng chói chang, nóng nực chiếu xuống những viên đá lát đường đã mòn võng vì bị không biết bao nhiêu bánh xe ngựa nghiến xuống, từ đám cỏ trồi lên từ các kẽ nứt, những con thằn lằn nâu nhỏ xíu phóng qua trước mắt anh ta nhanh như vệt ảnh tối màu. Phía trước anh ta, đằng sau những lăng mộ là ngọn núi Vesuvius mang màu xanh xỉn trong màn sương từ đất bốc lên vì thời tiết oi nồng, nhưng không quá gây ấn tượng với anh ta vì nó còn cách đây chừng năm, sáu dặm. Người đàn ông thấy ấm áp và hơi ngầy ngật buồn ngủ. Những con đường dài với những cửa tiệm chỉ còn trơ lại bốn bức tường này, những khoảnh sân hoa lệ điểm xuyết những hàng cột chống đây đó kia, tất cả đều tác động đáng ngại đến trí tưởng tượng của anh ta. Anh ta đã lang thang hơn một tiếng đồng hồ; và từ khi đặt chân vào thành phố cổ này, anh ta chưa hề thấy bóng dáng của bất cứ sinh vật sống nào, ngoại trừ một nhóm người bí ẩn đi cùng hướng dẫn viên thình lình xuất hiện ở cuối đường Vận Mệnh rồi biến mất một cách đầy ma quái giữa những tiếng rào rạo của đám đá nhỏ. Con Đường Hầm Mộ dần đưa anh đi tới cuối thành phố. Đang cân nhắc xem nên ngừng cuộc thăm thú và trở về, hay quay gót tiếp tục khám phá thêm, đột nhiên anh ta trông thấy một căn nhà nằm giữa những ngôi mộ. Ngôi nhà đó khá lớn, đúng kiểu trang viên ngoại ô biệt lập những quý tộc La Mã hay xây dựng hồi thành phố còn phồn thịnh. Anh ta bước lên bậc thềm và vào nhà. Khoảnh sân nhỏ trong nhà tối tăm và bốc mùi ẩm ướt, lại không được giữ gìn tốt như những ngôi nhà tôn tạo anh đã nhìn thấy. Nhưng phía bên kia khoảnh sân là khu vườn cảnh có những hàng cột đá trang trí bao quanh, tắm trong ánh mặt trời rực rỡ. Khu vườn khá um tùm, mọc đầy trúc đào nở hoa đỏ rực và xung quanh phế tích đài phun nước là những cây tùng châu Á. Đột nhiên anh nghe có tiếng sột soạt trên đám cỏ mọc cao, và những giọng nói tiếng Anh. Cạnh đài phun nước, một cô gái mặc đồ trắng đang đứng quay mặt về phía anh ta. Và anh ta thấy cô ấy không chỉ đẹp mà còn có nét thông minh lanh lợi. Mái tóc nâu sẫm được rẽ đôi và vén ra sau tai, tạo thành những lọn xoăn nhỏ buông lơi qua gáy. Cô có khuôn mặt trái xoan, đôi môi nhỏ, căng mọng, và đôi mắt to thể hiện nét giễu cợt bất chấp gương mặt đang nghiêm nghị. Đôi mắt cô mang sắc xám, với mí mắt hơi dày và mang nét suy tư. Tư thế tạo dáng của cô rất đơn giản, chỉ vu vơ xòe vạt váy. Nhưng rõ ràng cô gái đang rất căng thẳng, chỉ cần nhìn vòng cung lông mày của cô là biết. Đối diện với cô gái là một chàng trai trẻ tóc đen mặc bộ vét vải nỉ xám, đang cầm chiếc máy quay và dán mắt vào ống ngắm. Chiếc máy quay bắt đầu kêu xè xè và phát ra tiếng lách cách nho nhỏ. Với má tì vào một bên máy, chàng trai trẻ nói với cô gái qua khóe miệng. “Này, em làm gì đi chứ!” Anh chàng thúc giục. “Mỉm cười, cúi đầu hay châm thuốc hoặc gì cũng được, nhưng hãy làm gì đó! Nếu em chỉ đứng yên đấy thì có khác gì chụp ảnh đâu.” “Nhưng, George, em biết làm gì bây giờ?” “Anh vừa nói với em còn gì. Mỉm cười hay cúi đầu hoặc… ” Rõ ràng cô gái đang bị ảnh hưởng bởi Hội chứng Tự ý thức, điều mà mọi người thường mắc phải khi họ biết rõ máy quay sẽ ghi lại bất cứ chuyển động nào trên cơ thể mình. Lúc đầu khuôn mặt cô có vẻ cực kì lo lắng, sau đó cô xoay xở để mỉm cười với vẻ hối lỗi. Cô nhấc chiếc túi xách màu trắng của mình lên và ve vẩy nó trong không khí. Sau đó cô ngó quanh tìm cơ hội lảng đi, và cuối cùng quyết định nhìn thẳng về hướng chiếc máy quay rồi cười lớn. “Chúng ta đang sử dụng hết phim rồi,” chàng trai rên lên, cứ như một nhà sản xuất phim. Người quan sát đứng ở cửa ra vào, cách nhóm người trong khu vườn khoảng hơn chục bước chân, bỗng nhiên tin chắc rằng cô gái này đang ở trong tình trạng căng thẳng đầu óc nguy hiểm, rằng cô ấy chỉ giả vờ khỏe mạnh; và rằng chiếc máy quay phim nhỏ đứng yên một chỗ không ngừng kêu lách cách đang bắt đầu ảnh hưởng đến cô, tựa như cơn ác mộng kinh hoàng có một con mắt cứ nhìn mình chằm chằm. “Sao, em có thể làm gì được?” “Đi dạo xung quanh, hoặc làm gì đó chẳng hạn. Di chuyển qua đó, đến bên phải. Anh muốn quay được những cây cột trụ đằng sau em.” Một thành viên khác trong nhóm, người đã đứng chống nạnh quan sát mọi chuyện nãy giờ, bật ra một tiếng khịt mũi. Đó là một người đàn ông nhỏ bé có vẻ lanh lợi và chiếc kính đen đang đeo giúp che đậy sự thật rằng ông già hơn rất nhiều so với bộ quần áo nghỉ mát đang mặc trên người. Bạn có thể thấy được điều đó qua làn da nhăn nheo chảy xệ dọc quai hàm, và qua đuôi tóc lốm đốm bạc dưới vành mũ cói sụp xuống trên đầu ông. “Hời hợt!” ông ta nói với vẻ khinh miệt. “Đó là thứ cậu đang cố làm: một kẻ hời hợt. Cậu muốn quay những cây cột sau lưng con bé, hả? Cậu không muốn có hình ảnh của Marjorie. Cậu thậm chí cũng không muốn có hình ảnh ngôi nhà cổ ở Pompeii. Thứ cậu muốn chỉ là hình ảnh Marjorie trước một căn nhà Pompeii, để chứng tỏ mình từng ở đó. Tôi cho rằng điều đó thật kinh tởm.” “Như vậy thì có gì sai?” Một giọng nói vang như sấm phát ra. Giọng nói đó là của một người đàn ông cao lớn và vạm vỡ có bộ râu hoe đỏ, người đứng đối diện cặp đôi đang bị mắng. “Thì hời hợt chứ sao,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Em hoàn toàn không đồng ý với anh,” người đàn ông vạm vỡ đáp lời. “Và em cũng chẳng hiểu nổi thái độ của anh, Marcus. Cứ mỗi lần chúng ta đến được nơi nào đó có vài cảnh đẹp, anh lại muốn tránh xa chúng ra (nếu em hiểu đúng) chỉ bởi vì đó là địa điểm tham quan. Vậy chúng ta chỉ được tìm hiểu về địa ngục thôi chắc,” ông ta gầm lên giữa khu vườn, “hay là anh thích đến nơi không có mấy địa điểm ngắm cảnh hơn? Anh phản đối việc hàng ngàn người tìm đến chỉ để nhìn thấy những quang cảnh đó. Nhưng có bao giờ anh nghĩ rằng, nếu hàng ngàn người đến đây chỉ để nhìn tận mắt một địa điểm hàng nghìn năm lịch sử, thì có thể là do nó có thứ gì đó đáng xem không?” “Ăn nói cho cẩn thận,” người đàn ông đội mũ cói nói. “Và dừng ngay trò la hét đi. Cậu không hiểu, và sẽ không bao giờ hiểu được. Chẳng hạn như, cậu đã thấy được gì? Hoặc là, cậu có biết bây giờ chúng ta đang ở đâu không?” “Dễ ợt,” người kia nói. “Anh bạn trẻ, chỗ này là chỗ nào?” Người đàn ông vạm vỡ quay sang hỏi chàng thanh niên trẻ đang cầm máy quay phim. Người này đã miễn cưỡng dừng việc chụp hình cô gái lại, bây giờ cô ấy đang cười to một cách thoải mái. Anh ta cất máy quay vào chiếc túi đeo vai, sau đó rút từ trong túi áo ra một cuốn sách hướng dẫn du lịch và cần mẫn lật qua lật lại các trang. Sau đó anh ta hắng giọng. “Số ba mươi bốn, hai sao. Trang viên của Arrius Diomedes,” anh ta đọc với vẻ xúc động sâu sắc. “Ngôi nhà có tên gọi đó bởi vì…” “Vớ vẩn,” người đàn ông vạm vỡ lên tiếng. “Chúng ta vừa tham quan cái nhà đó mười phút trước. Chỗ họ tìm thấy mấy bộ xương ấy.” “Những bộ xương nào?” Cô gái phản đối. “Chúng ta có thấy bộ xương nào đâu, bác sĩ Joe.” Sau cặp kính râm tối màu, khuôn mặt của người đàn ông vạm vỡ dường như đang bốc hỏa. “Tôi không nói chúng ta đã nhìn thấy những bộ xương,” ông ta đáp, điều chỉnh lại chiếc mũ bằng vải tuýt trên đầu. “Tôi chỉ nói đó là nơi người ta tìm thấy mấy bộ xương. Chỗ ngay dưới đường ấy, cô không nhớ à? Tro nóng từ núi lửa nhốt những người nô lệ ở trong, sau đó các nhà khảo cổ tìm thấy họ, la liệt khắp sàn nhà như những bộ ki trên sân bowling. Ngôi nhà có những cây cột sơn màu xanh lá cây đó.” Người đàn ông già nhỏ con, lanh lợi đội mũ cói khoanh tay lại. Trong một thoáng, khuôn mặt ông ta thoáng lên vẻ ác ý rõ ràng. “Có thể thú vị với cậu, Joe, nhưng họ thì không.” “Không cái gì?” bác sĩ Joe gặng hỏi. “Không hứng thú với căn nhà xanh lá bạc màu. Hết lần này đến lần khác tôi đã chứng minh cho luận điểm của mình,” người đàn ông nhỏ con tiếp tục nói, “rằng những con người bình thường, như cậu – hay cậu ta, hoặc con bé – hoàn toàn không thể thuật lại chính xác những điều đã nhìn hay nghe được. Cậu không quan sát. Chính xác hơn là cậu không thể quan sát. Nhỉ, giáo sư?” Ông ta quay đầu lại và liếc nhìn về phía sau. Nhóm này còn hai người đàn ông khác nữa, và họ đang đứng ngay trong bóng râm của những mái hiên, đằng sau hàng cột bao quanh khu vườn. Người quan sát hầu như không ý thức được sự tồn tại của họ; anh không nhìn được họ rõ như những người đang đứng dưới ánh sáng mặt trời kia. Anh chỉ nhận thấy một người trạc trung niên, còn người kia trẻ. Họ đang dùng kính lúp nghiên cứu một khối đá hay mảnh dung nham nào đó, có vẻ như họ đã nhặt được nó từ hàng lan can nối những cây cột. Cả hai đều đang đeo kính râm đen. “Đừng quan tâm đến trang viên của Arrius Diomedes nữa,” một giọng nói vang lên từ bên trong lan can. “Căn nhà này là của ai thế?” “Giờ cháu đang tìm đây,” người thanh niên trẻ với máy quay phim và cuốn sách hướng dẫn du lịch tìm kiếm một cách nhiệt tình. “Hồi nãy cháu lật sai trang. Đây là số ba chín, đúng không? Đúng vậy. Đây rồi. Số ba mươi chín, ba sao. Nhà của kẻ đầu độc Aulus Lepidus.” Xung quanh bỗng nhiên trở nên cực kì yên lặng. Cho đến lúc này, đám người trông có vẻ giống một gia đình – hoặc – một nhóm bạn, với những thành viên lớn tuổi nóng tính có chút bực bội bởi ảnh hưởng của thời tiết hoặc sự mệt mỏi của chuyến đi. Nếu đây là một gia đình, theo thái độ mà họ nói chuyện với nhau, có thể suy ra rằng bác sĩ Joe và người đàn ông nhỏ con đội mũ cói (tên là Marcus) là hai anh em. Cô gái được gọi là Marjorie cũng có thể có quan hệ họ hàng với hai người đó. Không ngạc nhiên lắm. Tuy nhiên, khi những từ ngữ trong cuốn sổ hướng dẫn du lịch được đọc lớn lên, rõ ràng không khí giữa họ bỗng trở nên lạnh lẽo và u ám hơn cái sân này rất nhiều. Chỉ có chàng trai trẻ cầm cuốn sách là không ý thức được điều đó. Mọi người còn lại thì đều quay đầu nhìn quanh; và sau đó hướng về cùng một chỗ. Bốn cặp mắt kính đen nhìn thẳng về hướng cô gái, mặc dù cô đứng ngay chính giữa mọi người. Ánh sáng mặt trời lia trên bề mặt những cặp kính, khiến chúng có vẻ tối tăm và hung hãn như những chiếc mặt nạ. Bác sĩ Joe khó khăn lên tiếng: “Nhà của ai cơ?” “Kẻ đầu độc,” chàng trai trẻ nói. “Bằng hình thanh kiếm và cây liễu lột vỏ (‘lepidus’ nghĩa là ‘tước vỏ’ ‘làm bóng’, nghĩa củ là ‘dí dỏm’ hoặc là ‘dễ chịu’) nằm trên vỉa hè lát đá ghép mảnh, Mommsen đã xác định trang viên này thuộc quyền sở hữu của…” “Biết rồi, nhưng mà ông ta đã làm gì?” “… người, theo Varro, đã giết năm thành viên của gia đình mình bằng cách cố ý bỏ thuốc độc vào món súp nấm,” chàng trai trẻ tiếp tục. Anh ta ngẩng đầu nhìn xung quanh với vẻ hứng thú, như thể mong được thấy các thi thể vẫn đang nằm ở đâu đó. “Ngay tại đây, điều này hay ho đây!” Cậu ta nói thêm. “Cháu nghĩ thời đó việc đầu độc hàng loạt diễn ra khá dễ dàng.” Và sau đó, người thanh niên đột nhiên biết rằng có điều gì đó không đúng đang xảy ra; lông tơ sau gáy anh ta dường như dựng đứng hết cả lên. Anh ta gập cuốn sách lại và nhẹ giọng hỏi. “Có vẻ như,” anh ta buột miệng nói. “Có vẻ như, cháu đã nói điều gì đó không phải sao?” “Dĩ nhiên là không,” Marjorie trả lời với vẻ điềm tĩnh tuyệt vời. “Ngoài ra, sở thích của bác Marcus là nghiên cứu về các tội ác. Đúng không ạ?” “Đúng vậy,” bác Marcus gật đầu. Ông quay sang nói với chàng trai trẻ. “Nói cho tôi biết, cậu… gì nhỉ, tôi cứ quên tên cậu hoài?” “Bác biết rõ tên anh ấy mà,” Marjorie la lên. Nhìn vào sự kính trọng thái quá mà chàng thanh niên dành cho Marcus, người quan sát có thể nhận ra Marcus không chỉ là bác của Marjorie, ông ấy hành động như cha mẹ của cô vậy. “Harding, thưa bác. George Harding,” chàng trai trả lời. “A, đúng rồi. Giờ thì, cậu Harding, nói cho tôi biết, cậu từng nghe đến một nơi gọi là Sodbury Cross, gần Bath bao giờ chưa?” “Không, thưa bác. Sao bác lại hỏi thế?” “Chúng tôi đến từ nơi đó,” Marcus nói. Ông ta thoăn thoắt bước đi và ngồi xuống mép đài phun nước với tư thế như thể đang chuẩn bị đọc một bài diễn văn dài. Ông bỏ cả mũ và kính mát xuống rồi đặt chúng nằm thăng bằng trên đầu gối mình. Việc tháo bỏ phụ kiện che mặt giúp người quan sát nhận ra Marcus có một mái tóc xám thẳng trông như bướu lạc đà, có lẽ sáu mươi năm chải đầu cũng không thể khuất phục được mái tóc đó. Đôi mắt xanh của ông rất sáng sủa, thông minh và ác ý. Thỉnh thoảng, ông ta lại dùng tay chà xát làn da nhăn nheo ở quai hàm mình. “Giờ, cậu Harding,” ông tiếp tục, “chúng ta hãy đối mặt với sự thật này. Tôi giả sử như mối quan hệ giữa cậu và Marjorie không chỉ là loại tán tỉnh bất chợt trên tàu. Tôi giả sử là cả hai đứa đều nghiêm túc, hoặc hai đứa đều nghĩ là mình nghiêm túc.” Có một sự thay đổi khác nữa lại diễn ra trong nhóm người. Sự thay đổi đó cũng ảnh hưởng đến hai người đàn ông đứng cạnh những cây cột bao quanh khu vườn. Một trong số họ (người quan sát nhận thấy) là một người đàn ông trung niên có vẻ ngoài vui vẻ với chiếc đầu hói và có đội mũ phớt. Mắt ông cũng bị kính râm che mất, nhưng khuôn mặt ông thì tròn đầy và hồng hào ưa nhìn. Ông hắng giọng. “Tôi nghĩ,” ông ấy nói, “nếu mọi người thứ lỗi, tôi sẽ đi xuống phía sau và… ” Người đứng cạnh ông ta, một chàng trai trẻ tuổi có khuôn mặt không mấy ưa nhìn, quay đi và bắt đầu tế nhị lờ đi nghiên cứu nội thất ngôi nhà. Marcus nhìn hai người bọn họ. “Vớ vẩn,” ông quả quyết nói. “Có thể các anh không phải là thành viên của gia đình này, cả hai người. Nhưng hai người đều biết những gì chúng tôi biết, vậy nên cứ ở yên đó. Và dừng ngay kiểu tế nhị quái quỷ đó đi.” Cô gái khẽ hỏi. “Bác Marcus, bác có nghĩ đây là chỗ để nói chuyện đó ra?” “Có, cháu yêu.” “Hoàn toàn chính xác,” bác sĩ Joe mạnh mẽ đồng ý. Ông đưa ra một cái nhìn lạnh lùng, nghiêm túc và tỏ vẻ quan trọng. “Lần đầu tiên trong đời, Marcus – đã hoàn toàn đúng.” George Harding tỏ vẻ dũng cảm một cách lạnh lùng, nghiêm túc. “Thưa bác, cháu chỉ có thể đảm bảo rằng…” chàng trai nói với vẻ mạnh mẽ. “Ừ, biết rồi, tôi biết hết mà.” Marcus nói. “Và làm ơn đừng có làm khuôn mặt đáng xấu hổ như vậy. Chẳng có gì bất thường hết. Mọi người đều cưới nhau đấy thôi, và họ đều biết phải làm gì khi kết hôn, và tôi tin tưởng cả hai đứa. Giờ thì, cuộc hôn nhân này có diễn ra hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của tôi.” “Và của tôi nữa,” bác sĩ Joe cứng rắn nói. “Đương nhiên rồi,” Marcus lên tiếng với vẻ hơi bực mình. “Và em trai tôi, dĩ nhiên. Chúng tôi mới biết cậu được một tháng hoặc cỡ đó, chỉ trong chuyến du lịch này. Ngay khi cậu bắt đầu hẹn hò với cháu gái tôi, tôi đã lập tức gửi điện tín cho luật sư để hỏi về tất cả các thông tin của cậu. Chà, cậu có vẻ cũng được. Thành tích học tập tốt, và tôi cũng không phàn nàn gì về việc cậu là trẻ mồ côi và không có gia sản…” George Harding bắt đầu giải thích gì đó, nhưng Marcus ngắt lời anh chàng. “Rồi, rồi. Tôi biết toàn bộ cái quy trình sản xuất hóa chất của cậu, thứ có thể tạo ra cả một gia tài hay đại loại thế. Nếu cả hai đứa quyết định sống dựa vào nó thì hai đứa nên biết rằng tôi sẽ không đời nào đầu tư vào đó lấy một cắc đâu. Tôi cũng không mấy quan tâm đến cái gọi là ‘quy trình mới’, tôi ghét cay ghét đắng các quy trình mới, đặc biệt là trong ngành hóa học. Chúng tôn vinh bộ não của những kẻ ngốc và khiến tôi phát ngấy vì sự non nớt. Nhưng có lẽ cậu sẽ vẫn thu được gì đó. Nếu làm việc nghiêm túc và chăm chỉ, cậu sẽ kiếm đủ sống, và có lẽ sẽ kiếm được thêm một chút từ Marjorie. Cậu đã hiểu chưa?” George lại bắt đầu giải thích gì đó nữa. Lần này thì chính Marjorie là người ngắt lời anh ta. Khuôn mặt cô hơi hồng lên, nhưng đôi mắt của Marjorie rất thẳng thắn và cho thấy sự điềm tĩnh tuyệt vời. “Anh chỉ nên trả lời ‘vâng’ thôi,” cô khuyên. “Đó là tất cả những gì anh được phép nói.” Người đàn ông hói đầu đội mũ phớt đang đứng dựa khuỷu tay vào lan can và hơi cau mày khi lắng nghe cuộc trò chuyện, giờ đây bỗng vẫy tay như thể cố thu hút sự chú ý của giáo viên trong lớp học. “Chỉ một chút thôi, Marcus,” ông ta ngắt lời. “Anh đã yêu cầu Wilbur và tôi có mặt trong cuộc trò chuyện này, mặc dù chúng tôi không phải thành viên gia đình. Vậy nên hãy để tôi nói điều này. Có cần thiết phải thẩm vấn chàng trai kia như thể cậu ta là…” Marcus nhìn ông ấy. “Tôi ước,” Marcus nói, “một số người sẽ loại bỏ được quan niệm ngớ ngẩn rằng bất cứ dạng câu hỏi nào cũng đều là ‘thẩm vấn’ cả. Hình như mọi tiểu thuyết gia đều có quan điểm như vậy. Kể cả anh nữa, giáo sư, dường như chính anh cũng thế. Điều đó khiến tôi bực mình đấy. Tôi chỉ đang kiểm tra cậu Harding mà thôi. Chuyện đó không rõ ràng à?” “Đúng ạ,” George nói. “Ồ, thế thì tốt,” vị giáo sư hòa nhã. Marcus dịch người ngồi cách xa chiếc đài phun nước nhất có thể để không bị ngã nhào vào đó. Biểu cảm trên khuôn mặt ông trông hòa dịu hơn nhiều. “Bởi vì cậu đã hiểu hết điều đó,” ông tiếp tục nói với giọng hơi khác hồi nãy, “bước tiếp theo là cậu cần biết về gia đình chúng tôi. Marjorie đã kể gì cho cậu nghe chưa? Tôi nghĩ là chưa. Nếu cậu nghĩ chúng tôi là những thành viên giàu có nhàn rỗi thích dạo bộ, những người quen với việc nghỉ mát suốt ba tháng tại thời điểm này trong năm, thì ném chúng ra khỏi đầu ngay cho tôi. Đúng là tôi giàu có thật, nhưng tôi không rảnh rỗi và cũng hiếm khi nào đi tản bộ. Những người khác cũng vậy, tôi biết rõ điều đó. Tôi làm việc, và mặc dù tôi xem bản thân mình là một học giả chứ không phải doanh nhân, tôi cũng không phải một người kinh doanh tồi. Em trai tôi là một bác sĩ đa khoa làm việc ở Sodbury Cross. Nó cũng làm việc, bất chấp tính cách lười biếng của mình. Tôi cũng biết rõ điều đó. Nó không phải một bác sĩ giỏi, nhưng mọi người đều thích nó.” Khuôn mặt dưới cặp kính đen của bác sĩ Joe dường như đang bốc hỏa.   Mời các bạn đón đọc Vụ Án Viên Nhộng Xanh của tác giả John Dickson Carr.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vũ Điệu Quỷ
Trong thời gian học tập và nghiên cứu cũng nhưng làm công việc của một bác sĩ tâm lý trị liệu, tác giả tình cờ phát hiện thấy những tình trạng tâm lý kỳ quái và đáng ngại, đó là hội chứng Munchausen, trong đó những người bệnh mắc phải hội chứng này thường giả vờ ốm bằng cách nói dối về các triệu chứng, tự làm tổn thương họ hay uống thuốc độc. Nhu cầu nói dối của những bệnh nhân này lớn tới mức mà họ chấp nhận nằm viện dài ngày, chịu đựng các cuộc kiểm tra y tế bên trong cơ thể thậm chí cả phẫu thuật. Một biến thể nguy hiểm của hội chứng này là Munchaen thay thế, liên quan tới những bậc cha mẹ, chính họ đã tạo ra căn bệnh giả ở con cái mình. Việc này đã trở thành thách thức với các bác sĩ, y tá tài ba cũng như toàn hệ thống y tế. Không ai thật sự hiểu được là làm thế nào và tại sao mà những biểu hiện này lại tiến triển. Munchauen vẫn là một bí mật y học đáng sợ và cũng là phạm vi mà sự tò mò của tác giả không sao cưỡng lại được ở cả hai vị trí: một là nhà viết văn tiểu thuyết, và một là nhà khoa học nghiên cứu về hành vi. Cuốn "Vũ Điệu Quỷ", Alex Delaware đã được chứng kiến điều rùng rợn nhất và thách thức nhất trong nghề của ông, đó là một cô bé con liên tục bị ốm và không ai biết lý do tại sao. Các bác sĩ nghi ngờ rằng đó là hội chứng Munchausen thay thế, nhưng vẫn không thể chứng minh được. Việc tìm ra chân tướng sự việc đã trở thành nỗi ám ảnh của Alex và những gì mà ông phát hiện được vượt ra ngoài câu chuyện của một cô bé và một gia đình khốn khổ, sự việc còn làm sáng tỏ một số vấn đề lớn hơn mà ngày nay ngành y tế phải đối mặt. *** "Một bí ẩn y học ghê sợ hơn bất kỳ sự kịch tính nào ở phòng xử án!". Các bác sĩ gọi đó là hội chứng Munchausen. Đó là chứng rối loạn khiếp sợ khiến cho bố, mẹ tạo ra sự ốm đau cho chính con cái họ. Lúc này, trong vụ án đáng sợ nhất của mình, bác sĩ Alex Delaware cần phải chứng minh rằng chính bố, mẹ của đứa trẻ khiến cô bé bị ốm." (The New York times book review) "Cô bé Cassie Jones hai mốt tháng tuổi khoẻ mạnh và đáng yêu. Nhưng bố mẹ Cassie đã phải vội vã đưa cô bé vào phòng cấp cứu sau cái đêm cô bé xảy ra những triệu chứng bệnh lý mà không bác sĩ nào lý giải được. Bố mẹ của Cassie dường như vô cùng lo lắng. Người nữ y tá chăm sóc Cassie và được cô bé yêu quý là một điển hình về sự tận tuỵ. Nhưng khi bác sĩ tâm lý trẻ em Alex Delaware được yêu cầu tham gia vào cuộc điều tra, bản năng đã mách bảo cho ông rằng một người trong số họ là con ác quỷ "Tình tiết căng thẳng đến nghẹt thở." (Cosmopolitan) *** Tiểu thuyết gia Jonathan Kellerman sinh ngày 9-8-1949 tại Thành phố New York City, bang New York- Hoa Kỳ. Jonathan Kellerman xếp hạng nổi tiếng thứ 75314 trên thế giới và thứ 989 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng.  Jonathan Kellerman là một nhà tâm lý học người Mỹ, và tác giả đoạt giải Edgar và Anthony của nhiều tiểu thuyết hồi hộp bán chạy nhất. Tác phẩm của ông về tâm lý học bao gồm Savage Spawn: Những phản ánh về trẻ em bạo lực. Mời các bạn đón đọc Vũ Điệu Quỷ của tác giả Jonathan Kellerman.
Kế Hoạch Tự Sát
“Kẻ giết bố tôi… chính là mẹ! Cầu mong một ngày nào đó ông trời sẽ giáng sự trừng phạt xuống đầu cô ta.” Watanabe Ruri ---- Ruri vốn là một cô bé có cuộc sống bình dị, hạnh phúc như bao đứa trẻ cùng trang lứa khác. Thế nhưng đến một ngày… hiện thực tươi đẹp ấy bỗng vụt tắt. Mẹ cô qua đời. Căn nhà ấm áp, luôn tràn ngập tiếng cười bỗng trở nên trống trải đến đáng sợ, hai cha con cô phải nương tựa vào nhau, cùng vượt qua mất mát quá lớn kia. Những tưởng đau thương đã dần rời xa ngôi nhà nhỏ của Ruri, cho đến một ngày người phụ nữ tên Reiko xuất hiện, trở thành mẹ kế của cô và làm cuộc sống của cô hoàn toàn xáo trộn. Hai cha con Ruri dần trở nên xa cách, xích mích ngày một nhiều lên, cho đến khi… Vào một sáng thức dậy, Ruri định chụp lén cha mình một bức ảnh dùng để làm lành với ông, nhưng không ngờ… thứ cô chụp lại được chỉ là nỗi ám ảnh kinh hoàng. Cha của Ruri đã chết… Bức hình cuối cùng cô chụp được xuất hiện quá nhiều điểm đáng ngờ: Người mẹ kế bên cạnh cha? Lọ thuốc màu xanh kỳ lạ? Và cả cách sống của mẹ kế Reiko sau khi chồng mình qua đời… Thế nhưng tất cả những chi tiết đó không đủ để buộc tội cô ta. Cảnh sát cũng không thể tìm ra bất kỳ manh mối nào… Vậy chỉ còn cách… chính Ruri sẽ tự tử rồi để lại di thư, khiến cảnh sát có thể điều tra lại cái chết của cha mình. Và từ đây, kế hoạch Tự sát của cô chính thức bắt đầu. Số phận của Ruri rồi sẽ ra sao? Liệu Ruri có làm sáng tỏ được cái chết của cha mình? Sự thật kinh hoàng nào sẽ được vén rèm bí mật? Tất cả những ẩn số đó đều được giải đáp trong “Kế hoạch tự sát” - tác phẩm trinh thám gây được tiếng vang lớn năm 2016 của nhà văn tài năng Akiyoshi Rikako. Với cốt truyện gay cấn đến ngạt thở cùng những tình tiết đầy bất ngờ nhưng cũng không kém phần cảm động, cuốn sách đã tạo nên cơn sốt không nhỏ tại xứ sở hoa anh đào! *** uri đặt trên bàn một bức thư như vậy và toàn bộ tài sản của cô. Tuy rằng ngần ấy tiền để trả cho một đêm trọ là quá nhiều, nhưng cứ nghĩ đến những chuyện phiền lòng về sau, cô lại cảm thấy chừng đó vẫn không đủ. Vì thế, không chỉ tiền, cô còn để lại cả thẻ học sinh và điện thoại di động để cảnh sát địa phương và người của quán trọ không gặp khó khăn gì khi muốn tìm kiếm thân thế và người giám hộ hiện tại của cô. Sau khi đã đọc đi đọc lại bức di thư nhiều lần, cô rời khỏi phòng. Lúc nhận ra mình vô tình đi luôn đôi dép đi trong phòng của quán trọ, cô bối rối xỏ chân vào đôi giày của mình. 9 giờ 30 phút tối. Ngoài sảnh tĩnh mịch đến đáng sợ. Máy bán hàng tự động kêu lên một tiếng “bíp” nhỏ. Điện tắt, các kệ hàng bị phủ kín vải, quầy bán đặc sản và quà lưu niệm này tồn tại được đều nhờ vào lương tâm của khách trọ. Ghế sô-pha và bàn. Máy mát xa chạy bằng đồng xu. Cô đi qua những thứ đó, đặt chìa khóa lên bàn tiếp tân ở sảnh chính rồi nhẹ nhàng tiến ra ngoài. Vừa bước ra khỏi cửa, cô lập tức bị bao trùm bởi không khí ẩm thấp của mùa hè và tiếng kêu inh tai của lũ ếch. Ngay trước quán trọ là một con đường nhựa, chiều rộng chỉ vừa đủ cho một chiếc xe, hai bên đường cây cối xanh mướt um tùm. Ánh đèn đường le lói yếu ớt, bầu trời đầy sao còn sáng hơn thứ ánh sáng nhân tạo này. Hòa cùng với dàn hợp xướng của tiếng ếch, tiếng cú kêu vọng lại rõ ràng từ màn đêm đen phía trước. Đi được một đoạn, ngã ba hiện ra trước mắt Ruri. Cô lấy tấm bản đồ từ trong túi quần jeans ra. Gọi là bản đồ nhưng thực chất nó chỉ là bản in từ trên mạng. Trên đó có vẽ một đường màu đỏ bắt đầu từ quán trọ, đến chỗ ngã rẽ thì đường màu đỏ kéo dài tiếp về phía bên phải. Ruri chỉnh lại mắt kính rồi bắt đầu tiến vào đường nhánh bên phải. Con đường trải nhựa dần thu hẹp lại, cuối cùng thành con dốc toàn đất đá. Ánh đèn đường hoàn toàn biến mất, cô dùng chiếc đèn pin đã chuẩn bị từ trước soi rọi con đường đêm. Mật độ cây cối càng lúc càng dày, những lùm cây um tùm cản trở lối đi của Ruri. Dù vậy, cô vẫn cố gạt những cành cây ngáng đường mình và chăm chăm tiến về phía trước. Khoảng hai mươi phút sau, hơi thở của cô đã trở nên đứt quãng. Mái tóc dài đến eo như một chiếc áo măng tô bao phủ tấm lưng cô, khiến chiếc áo phông cô đang mặc thấm ướt mồ hôi. Vừa lau mồ hôi trên trán, Ruri vừa tiếp tục leo lên con dốc nhấp nhô đầy rễ cây lan ra. Lúc này, một quang cảnh hùng vĩ chợt hiện ra trước mắt. Chính là đây. Ruri lấy vạt áo lau lại mắt kính phủ đầy hơi nước rồi đeo lên mặt. Trông cô như một kẻ lữ hành mệt mỏi vừa phải trải qua một hành trình đằng đẵng không ngơi nghỉ. Giữa con dốc, một vùng đất bằng phẳng được ánh trăng chiếu rọi hiện ra. Trong không gian rộng lớn ấy, khoảng mười thân cây sừng sững vươn lên. Màu xanh của rêu bám đầy trên nền đất. Mùi đất ẩm phảng phất quanh mũi. Đứng từ đây có thể trông thấy ánh sao lấp ló giữa những ngọn cây cao vút và tán lá dày. Một khung cảnh huyền ảo biết bao. Ruri hít một hơi thật sâu, cắt đứt mạch suy nghĩ trong đầu. Cô cảm nhận rõ hơi thở ấm áp tĩnh mịch của thiên nhiên đang bao bọc quanh mình. Thật là một nơi tuyệt đẹp. Trái tim Ruri rung động. Được ở một nơi như thế này thật tuyệt. Tốt quá, trước khi chết còn có cơ hội nhìn thấy cảnh đẹp đến thế. Ý nghĩ sau cùng, quyết tâm bùng cháy trong đôi mắt cô. Hít một hơi thật sâu, Ruri đi về phía một cây đại thụ lớn nhất rồi đặt balo xuống. Mở khóa kéo balo, cô lôi ra một sợi dây thừng. Dùng miệng ngậm đèn pin để soi sáng, cô vòng sợi dây thừng, thắt lại. Độ rộng của vòng dây vừa đúng bằng đầu Ruri. Cô đã tìm hiểu cách thắt nút trên mạng và luyện tập nhiều lần. Sau khi thắt dây xong, Ruri tháo kính cất vào balo. Đoạn, cô đứng dậy, trèo lên cái ghế gấp đã mang theo ở cửa ra vào nhà trọ. Cô treo sợi dây lên cành cây rồi kéo thử. Tốt rồi, chắc sẽ không tuột được đâu. Hít sâu một lần nữa, Ruri liếm môi. Bố, mẹ, hãy chờ con. Ba người chúng ta sẽ lại hạnh phúc bên nhau ở thiên đường. Cô ngước lên ngắm vầng trăng lần cuối. Trăng tròn đẹp thật đấy... Ruri chầm chậm tròng sợi dây vào cổ, rồi cô đưa chân đá chiếc ghế gấp. ° ° ° Cửa đóng “cạch” một tiếng. Âm thanh giày cao gót vang lên chát chúa trên nền đá hoa, Ruri có thể nghe thấy tiếng bước chân tiến từ phía cửa đến hành lang. Cô Reiko đã về. Đang ngồi trước laptop trong phòng riêng trên tầng hai, Ruri gập màn hình lại rồi đứng lên. Cô đi xuống tầng, Reiko đang ở trong bếp cầm bình nước uống ừng ực. “A, Ruri đấy à. Cô về rồi đây.” Reiko vừa lau khóe miệng vừa mỉm cười. Khuôn mặt cô ta hơi đỏ, hơi thở phảng phất mùi ngòn ngọt đặc trưng của rượu. Reiko đặt cái bình lên bàn rồi đi ra ngoài phòng khách, cô ta ngã nhào xuống ghế sô-pha. Cái váy ngắn đỏ rực kéo lên làm lộ ra cả cặp đùi. Phòng kiểu Nhật bên cạnh phòng khách là nơi đặt bàn thờ, Ruri liếc mắt qua đó. Không biết người bố mỉm cười trong tấm ảnh trên bàn thờ kia đang nghĩ gì. Vẫn chưa đến 5 giờ chiều. Vì là mùa hè nên hiện tại bên ngoài trời vẫn sáng. Giờ này mà cô ta đã về nhà với bộ dạng say khướt như vậy. “Không sao. Cô đã nhờ người lái xe về...” Reiko nói với Ruri đang đứng đằng xa, “Cô có mang đồ ăn về đây, vừa hay đúng giờ ăn tối.” “Cháu không ăn đâu. Bây giờ cháu đi ra ngoài một chút... đi với bạn.” “Thế à...” “Chắc cháu sẽ ngủ nhà bạn luôn.” “À, cháu đang nghỉ hè mà nhỉ.” Ôm cái gối bông mềm mại trong lòng, Reiko nói với giọng điệu có chút ngờ vực. Nếu cô ta nhìn về phía Ruri, chắc cô ta sẽ nhận ra thực chất cô chẳng có bạn bè nào ở đây cả. “Nhưng mà... cháu không có tiền.” Dù Reiko đang say xỉn nhưng việc cô ta trở về vào giờ này đúng là may mắn với Ruri, cô không có đủ tiền. “Hả?” Tiếng Reiko chậm chạp vang lên. “Tuần trước cô chưa đưa cháu tiền tiêu vặt à?” “Cháu mua sách nấu ăn nên hết mất rồi.” “Ừm, ra thế.” Reiko không nghĩ ngợi với tay lấy túi xách đặt trên bàn. “Năm nghìn yên đủ không?” “Hai mươi nghìn... À, năm mươi nghìn đi ạ.” Nếu chỉ tính phí đi lại và tiền nhà trọ thì chắc hai mươi nghìn yên là đủ. Nhưng còn phải đề phòng những sự cố bất ngờ phát sinh như tàu chậm hoặc bị mất cắp hay đánh rơi đồ. Dù sao đi nữa, nhất định cô phải đến được nơi đó trong ngày Đại An, nên cần mang theo nhiều tiền hơn mới yên tâm được. “Cháu cần ngần ấy tiền làm gì vậy?” Đôi mắt đang mơ màng của cô ta đột nhiên mở lớn. “Cháu muốn đến USJ* ở Osaka.” “Ừ, được rồi.” Reiko chậm rãi rút ra năm tờ tiền mười nghìn yên đưa cho Ruri. “Của cháu đây.” Tiền vừa chạm vào đầu ngón tay, Ruri đã giật phắt lấy. Reiko cũng từ từ nhắm mắt lại, tay đặt trở lại sô-pha. “Còn gì nữa không?” Reiko hỏi bằng giọng ngái ngủ. Số tiền bảo hiểm ba trăm triệu yên của bố tôi đi đâu cả rồi? Tài sản của bố tôi thì sao? Tại sao bố tôi vừa mất mà mỗi ngày cô đều sống vui vẻ như thế? “Hết rồi ạ. Cháu đi đây.” Ruri quay trở lại căn phòng trên tầng hai. Cô ngồi trước máy tính, mở lại trang web vừa xem. Tusattoantap.com Trong danh sách những địa điểm tự sát, cô kích vào làng Sagamino rồi in bản đồ ra. Ruri kiểm tra những đồ vật cần mang đi lần cuối. Hôm nay cô đã đến cửa hàng DIY* mua dây thừng, đèn pin, ghế gấp, và cả một cái balo leo núi chuyên dụng cỡ lớn. Để chuẩn bị những thứ này, cô đã tiêu hết tiền tiêu vặt, không biết cô Reiko có nghi ngờ gì không. Ruri khoác chiếc balo to nặng lên vai và tắt máy tính. Cô đi xuống tầng dưới, liếc mắt về phía Reiko đang hoàn toàn ngủ say trên sô-pha rồi nhẹ nhàng tiến về phía hành lang. Hôm nay là ngày Chủ nhật đầu tiên của kỳ nghỉ hè nên ga Oshiage rất đông đúc, toàn những cặp bố mẹ đưa đón con. Ruri mua một vé đến làng Sagamino. Sau khi đến ga Tatebayashi, cô đổi sang tuyến tàu địa phương, đi khoảng hai tiếng nữa là đến nơi. Đứng cạnh Ruri là một nhóm học sinh tầm tuổi cô, bạn nữ nắm tay bạn nam chuyện trò rất vui vẻ. Ruri không có bạn gái, cũng không có bạn trai. Ruri mới mười sáu tuổi, là một nữ sinh bình thường... Không, còn tệ hơn cả bình thường. Trong không gian chật hẹp này, cô chợt hiểu ra. Dáng người cô cao gầy, ngực nhỏ, do cận nặng nên lúc nào cũng phải đeo đôi kính màu hồng nhạt, khuôn mặt ngoài làn da trắng thì chẳng có ưu điểm gì. Đúng là thật khó để kết bạn. Hơn nữa, bố mẹ ruột đều đã mất, họ hàng cũng không còn ai, đích thị là một kẻ cô độc giữa đất trời. Không, nói đúng ra thì vẫn còn một bà mẹ kế. Mẹ của cô, Nanami đã mất từ bốn năm trước, khi ấy Ruri vẫn còn là một cô bé lớp Sáu tiểu học*. Bà mắc bệnh xuất huyết dưới màng nhện. Trước đó bà vẫn rất khỏe mạnh, rồi một ngày đột nhiên bà ngã xuống, không bao giờ tỉnh lại nữa. Bà là một người rất dễ mến. Vì làm nghề tổ chức tiệc nên lúc nào bà cũng đem lại cảm giác ngọt ngào, dễ chịu như một chiếc bánh chiffon vậy, nơi đâu có bà nơi đó sẽ trở nên ấm áp. Nhà hàng chỗ bố làm đầu bếp và tiệm bánh ngọt nơi mẹ làm việc rất gần nhau, bố đã yêu mẹ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Ông yêu vóc dáng nhỏ bé xinh đẹp khi bà đội chiếc mũ trắng, yêu vẻ nghiêm túc khi bà ngắm nhìn những chiếc bánh, tất cả đều rất đẹp. Bố đã kể, khoảnh khắc gặp mẹ, cảm giác giống như “có chú bướm nhỏ đậu vào trong ngực, rồi lưu lại mãi chẳng hề bay đi”. Đối với người có máu nghệ sĩ, nắm vững nghệ thuật nấu ăn truyền thống Nhật Bản, hiểu sâu sắc về nghệ thuật cắm hoa, trà đạo và thơ ca như bố, đây quả là một cách diễn tả độc đáo. Mời bạn đón đọc Kế Hoạch Tự Sát của tác giả Rikako Akiyoshi & Nguyễn Thu Hà (dịch).
Chiếc Tất Nhuộm Bùn - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Chiếc tất nhuộm bùn: Ngay từ nhỏ, Kỳ Phát đã chứng tỏ được óc trinh thám và khả năng suy luận tài ba. Từ một chiếc tất nhuộm bùn, chàng đã khám phá ra việc mẹ kế tư thông với nhân tình, gói ghém nữ trang toan bỏ trốn. Song không ngờ, bà ta lại vu cho chàng tội ăn cắp, khiến chàng phải chịu tủi nhục, bị mọi người khinh ghét. Tuổi thơ xa mẹ, nếm chịu nhiều đắng cay, Kỳ Phát luôn mong muốn được biết tung tích của mẹ. Nhưng đau đớn thay, chàng lại gặp mẹ trong hoàn cảnh vô cùng trớ trêu. Và câu chuyện hai mươi năm về trước dần được hé lộ… *** Chúng tôi đều ngồi im lặng… Cảnh bến tầu Nam Định vốn đã buồn, tối hôm ấy lại buồn hơn nữa. Gió lạnh, hạt mưa lất phất bay. Con đê nhỏ bằng xi măng lượn theo dọc sông trông xa như một con rắn dài nằm phơi chiếc bụng da trắng hếu. Một vài chiếc thuyền nan lơ lửng, leo lắt ngọn đèn. Đằng xa, áp bờ sông bên kia, chiếc lò vôi nung đỏ, tỏa ra trong bóng tối một ánh lửa hồng làm cho người ta nghĩ đến chiếc vạc dầu khổng lồ ở dưới âm ty. Ngồi trên đê, Kỳ Phát đưa mắt trông ra xa. Hắn lấy ngón tay sẽ đập rơi tàn thuốc lá, rồi mơ màng nhìn theo làn khói tỏa bay. Giữa cảnh êm đềm yên tĩnh, mọi vật hình như đều say sưa trong giấc mộng, Kỳ Phát lúc đó có dáng điệu một nhà thi sĩ đương trầm ngâm trước một cảnh nên thơ hơn là dáng điệu một tay thiếu niên trinh thám kỳ tài. Có lẽ ít ai ngờ rằng chính chàng trẻ tuổi ấy đã khám phá ra những vết tay trên trần mà tìm ra thủ phạm vụ án mạng bí mật trong Thanh dạo trước* và do một bài thơ kỳ dị đã lấy được cái kho tàng* khi xưa. Tôi ngoảnh nhìn Kỳ Phát không thấy một cái gì là thay đổi: vẫn bộ mặt xương xương với cặp lưỡng quyền cao, vẫn mái tóc lòa xòa vuốt ngược lốm đốm hoa râm. Bỗng chúng tôi cùng quay đầu trông lại. Trong một căn nhà lụp xụp ngoảnh mặt ra sông, một mụ đàn bà đương một tay nắm tóc, một tay cầm roi, vụt lấy vụt để một thằng bé con độ mười hai, mười ba tuổi. Thằng bé khóc lóc kêu van mà mụ đàn bà cứ thẳng tay vụt mạnh. Mụ vừa đánh vừa nghiến răng rít lên rằng: - Con cái đâu lại có con cái như thế này bao giờ? Mới nứt mắt ra mà đã ăn cắp tiền, tiêu bậy! Tôi quay bảo Kỳ Phát: - Anh nghĩ thế nào? Cứ ý tôi thì đánh đập thế này tuy hơi quá nhưng mà cần. Bằng tí tuổi đầu mà đã gian tham, bé ăn trộm gà, lớn ăn trộm trâu, nếu không thẳng tay trừng trị thì từ đồn điền trí cụ đến nhà pha Hỏa Lò cũng không xa là mấy. Tôi bỗng thấy cặp mắt Kỳ Phát sáng quắc. Hắn vất điếu thuốc lá đương hút dở, nhìn trừng trừng vào mặt tôi rồi dằn từng tiếng mà bảo rằng: - Câu này thì anh nên ghi nhớ để nghiệm về sau: khi anh thấy một người đàn bà đánh trẻ về tội ăn cắp - cứ cho rằng người đàn bà ấy là mẹ đứa trẻ - anh cũng chớ tin ngay rằng thằng bé quả là một thằng ăn cắp! Tôi không lạ gì Kỳ Phát. Muốn biết rõ Kỳ Phát, tôi đã từng chia hắn ra làm hai: Kỳ Phát lúc tĩnh và Kỳ Phát lúc động. Kỳ Phát lúc tĩnh thì yếu ớt, nhu nhược, hay nghĩ vơ vẩn và ít nói, những khi ấy thì đừng ai mong hỏi hắn gì, nhất là điều hắn đã muốn giấu thì cậy răng hắn cũng không nói nửa lời. Kỳ Phát lúc động thì lại khác hẳn: hai mắt sáng quắc, chân tay luôn luôn cử động, hắn đã biện thuyết về một vấn đề gì thì nói mãi kỳ cho người ta nghe phải phục thì mới thôi. Tôi biết Kỳ Phát lúc này vừa mới ở trạng thái tĩnh sang trạng thái động. Nhớ tới hôm nào, khi Kỳ Phát khám phá ra cái kho tàng kể chuyện lại cho tôi nghe xong có nói tiếp: - Đời tôi có lẽ toàn là những cái phiêu lưu bí mật, ngay từ lúc tuổi thơ, tôi đã bị nhiều nỗi khổ lạ lùng… Lúc đó tôi có hỏi ngay về cái đời thuở nhỏ của Kỳ Phát song hắn nhất định không nói, tôi bèn nhân lúc này mà gợi chuyện ra. Làm ra bộ ngớ ngẩn, tôi hỏi Kỳ Phát: - Anh nói thế là thế nào, tôi không hiểu đấy! ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Tất Nhuộm Bùn của tác giả Phạm Cao Củng.
Nhà Sư Thọt - Phạm Cao Củng
Thám tử Kỳ Phát là bộ truyện đã làm nên danh tiếng của “Vua truyện trinh thám Việt Nam” - Phạm Cao Củng. Giống như Sherlock Holmes, Kỳ Phát luôn đề cao lý trí, lấy suy luận làm phương cách phá án. Series Thám tử Kỳ Phát gồm 5 cuốn: Đám cưới Kỳ Phát; Nhà sư thọt; Chiếc tất nhuộm bùn; Vết tay trên trần; Kỳ Phát giết người. Mặc dù học tập và ảnh hưởng từ truyện trinh thám phương Tây, nhưng Phạm Cao Củng đã sáng tạo nên những câu chuyện thấm đẫm đời sống Việt Nam, tính cách Việt Nam. Phá án theo phương pháp suy luận diễn dịch kiểu Sherlock Holmes, song nhân vật của Phạm Cao Củng mang đậm những phẩm chất được ưa chuộng ở phương Đông: trọng nghĩa khí, coi thường tiền bạc, không hành động vì thù lao, luôn tôn trọng tình cảm, đạo đức. Nhà sư thọt: Một ông già dở người bị đẩy xuống giếng, tuy giàu có ức vạn nhưng chỉ để lại chiếc két rỗng không. Một nhà sư thọt lẻn đến hiện trường đào bới lúc nửa đêm. Liệu ông ta có liên quan đến cái chết của nạn nhân và số của cải bị giấu? Kỳ Phát phải làm thế nào để tìm ra hung phạm và những uẩn khúc được giấu kín suốt nhiều năm? ***   Kỳ Phát vặn khóa, mở cửa vào trong buồng. Chàng nhìn quanh quẩn, đến bên chiếc giường chăn ga còn phẳng nguyên, mở tủ thấy tầng dưới không còn chiếc va ly nữa thì càu nhàu, lẩm bẩm: - Cóc khô, cóc khô! Thằng cha lại đi vắng rồi, mà chẳng biết mấy ngày nữa mới về đây! Nhưng Kỳ Phát cũng cởi bỏ áo ngoài, vắt vào lưng ghế, cắm quạt điện, rồi phàn nàn một mình: - Được ngày về thăm bạn thì bố lại đi vắng, chán quá! Nhưng Kỳ Phát bỗng với tay lấy mẩu giấy đè dưới chiếc gạt tàn thuốc lá, để trên bàn: - Anh chàng để di chúc gì lại đây! À… “Anh Kỳ Phát, tôi đi có việc cho nhà báo, sáng mai mới về. Anh cứ ở lại chơi tự nhiên, trong tủ còn nhiều cà phê, anh đun nước đèn cồn mà pha. Ngăn tủ bên trái còn chai Rhum đấy!” Kỳ Phát gật gù: - Dưới chỗ đề ngày tháng, anh chàng đã chữa đi ba bận, tỏ ra rằng trong tháng này, anh đã đi xa ba lần rồi, và lần nào cũng cẩn thận để giấy lại cho mình. Và chắc bây giờ giấy cao, chàng hà tiện giấy: viết giấy để lại mà mình không về thì để lần khác dùng chỉ chữa có ngày tháng đi thôi! Kỳ Phát liếc nhìn lên ảnh bạn trên tường, mỉm cười, có lẽ đã thầm cảm ơn một người bạn tốt, lúc nào cũng nhớ và săn sóc đến mình mặc dầu sau khi đau đớn vì Cúc chết, đã ra đi và chẳng hẹn ngày về…* Xem Kỳ Phát giết người. Đổ chai nước lạnh vào ấm, tráng đi rồi lại đổ đầy, đánh diêm châm chiếc đèn cồn lên, Kỳ Phát thong thả sửa soạn đun nước. Chàng tháo giầy, cởi quần ngoài vì hôm nay đã đi đường nhiều hơi mệt, chàng cũng không muốn đi chơi đâu nữa. Lấy chai rượu mạnh ra, Kỳ Phát rót một cốc nhỏ, đánh diêm châm điếu thuốc lá thơm, rồi gác chân lên bàn mà uống nhấm nháp. Tiếng nước trong ấm reo đều đều, hòa nhịp với ngọn lửa đèn cồn xanh lè, xì mạnh. Kỳ Phát đứng dậy, lấy cà phê ra, bỏ vào bình lọc, lấy cái đĩa ấn cà phê xuống cho chặt, rồi thong thả pha nước sôi vào. Ghé đầu nhìn giọt nước vàng thánh thót rơi xuống Kỳ Phát xoa tay sung sướng. - Kể sống một đời văn sĩ, tự lập và chẳng bận bịu vợ con như anh chàng này cũng sướng, mình tính dù đã quen hoạt động mà đôi khi hưởng thú nhàn tình này cũng thấy hay hay! Kỳ Phát đợi cho nước trong bình chảy xuống hết, vừa lúc chàng cũng uống cạn cốc rượu mạnh. Bộ mặt xương xương của chàng trinh thám trẻ tuổi và có tài của chúng ta, nhất là chỗ hai lưỡng quyền cao, đã ửng đỏ. Mặc dầu, chàng cũng với tay lấy chai rượu, rót ra gần đầy cốc để sau khi khuấy đường trong cốc cà phê tan hẳn, nhẹ tay mà chế rượu vào. Đưa cốc cà phê lên ngang mũi hít một hơi dài, Kỳ Phát tắc lưỡi một cái ra ý vừa lòng lắm. Chàng lẩm bẩm: - Có say cũng không sao, mình đi ngủ chứ có làm gì đâu mà sợ! Quả vậy, sau khi Kỳ Phát uống cạn cốc cà phê, tráng miệng bằng một chén nước lạnh rồi thì chàng sửa soạn đi ngủ. Trên bàn giấy bấy giờ chỉ còn một ngọn đèn đêm, Kỳ Phát vươn vai, ngáp dài một cái. Một lát sau, trong phòng chỉ còn tiếng chàng thở đều đều. Có lẽ nỗi nhọc mệt khi đi đường, hơi men của cốc rượu mạnh đã làm cho Kỳ Phát vào giấc ngủ một cách dễ dàng mê mệt. Trên chiếc bàn con để ở cạnh giường, chiếc đồng hồ vẫn tí tách đều đều. Đôi kim dạ quang xanh biếc lừ lừ đuổi nhau, rồi vượt qua, đã được mấy vòng. Nhưng ngoài tiếng tí tách của đồng hồ, còn tiếng lạch xạch ở ngoài ổ khóa. Vốn quen ngủ một cách tỉnh táo, có lẽ vào lúc khác thì Kỳ Phát đã sực tỉnh rồi, nhưng lần này thì Kỳ Phát vẫn ngáy đều, không hay biết gì cả. Cho đến khi có tiếng chìa khóa nhè nhẹ xoay hết một vòng. Rồi im lặng. Rồi cánh cửa từ từ hé mở không một tiếng kẹt nhỏ đủ tỏ người đẩy quả đã quen tính không bao giờ làm bận rộn đến chủ nhân đang yên giấc. Một bóng đen rón rén tiến vào, rồi chỉ hai phút sau, ngọn đèn đêm đã vụt tắt. Trên giường Kỳ Phát vẫn ngáy đều. Cái bóng đen như nép yên một chỗ mà nghe ngóng, mãi một lát sau mới bấm ngọn đèn pin, chiếu ra một vệt sáng nhỏ dài như một tia nắng chiếu qua khe cửa vậy. Vệt sáng ấy vụt cháy, rồi vụt tắt, qua hết góc này đến góc nọ trong phòng. Rồi cuối cùng thì tắt hẳn. Một tiếng sột soạt nho nhỏ. Trong bóng tối, mấy chiếc ghế hình như có người nhẹ nhàng khiêng dịch ra chỗ khác. Mấy phút yên lặng vừa qua, rồi ánh sáng trong phòng bỗng chói lòa. Bị chói mắt, Kỳ Phát càu nhàu, giơ tay dụi, chưa kịp nhìn rõ cái gì thì đã có tiếng quát khẽ: - Nằm im, không có chết mất mạng! ... Mời các bạn đón đọc Nhà Sư Thọt của tác giả Phạm Cao Củng.