Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thanh Kiếm Và Lá Chắn

Cuốn tiểu thuyết tình báo Thanh kiếm và lá chắn của nhà văn - phóng viên chiến trường Vadim Kozhevnikov nói về số phận chìm nổi của Aleksandr Belov - một chiến sĩ tình báo Xô Viết từng hoạt động ở Đức trong những năm chiến tranh Thế giới II. Thanh kiếm và lá chắn là bộ tiểu thuyết có chủ đề sắc bén viết về thời kỳ chiến tranh Liên Xô - Đức (1941-1945), khi Đức Quốc xã đang ở đỉnh cao sức mạnh quân sự của chúng, sau khi đã chiếm đóng hầu hết châu Âu và lăm le tấn công lấn chiếm Liên Xô từ phía Đông, trong tác phẩm có xung đột kịch tính cao độ khắc họa những mâu thuẫn sâu sắc giữa hai thế giới đối kháng nhau. Một bên là những người lính trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, một bên là bọn đế quốc phát xít, những kẻ xâm lược. Người chiến sĩ tình báo xô-viết không chỉ phải vượt qua ranh giới về mặt địa lý để tiến sâu vào lòng địch mà còn phải vượt qua cả ranh giới vô hình, những khác biệt về văn hóa, tâm lý, phải hóa thân thành kẻ thù đối mặt với Tổ quốc, đồng bào mình. Anh đã phải vượt qua những thử thách ấy như thế nào, bằng cách nào, khi những tin tức của anh chuyển về có ý nghĩa trọng đại với Tổ quốc? Thanh kiếm và lá chắn là một tác phẩm đặc sắc của văn học Nga mà chúng tôi muốn giới thiệu đến các bạn. *** Lời Giới Thiệu Trước ngày nổ ra cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, chiến sĩ tình báo Xô Viết Alexander Belov không những chỉ vượt qua biên giới địa lý giữa hai nước mà còn vượt qua cả giới tuyến vô hình ngăn cách thế giới của chủ nghĩa xã hội với bọn đế quốc phát xít đế chế thứ ba. Người chiến sĩ Xô Viết sẽ phải trở thành một người Đức tên là Johann Weiss: Và không phải là một người Đức bình thường. Nhiệm vụ của Belov là phải đeo cái mặt nạ của kẻ thù đối với Tổ quốc mình. Lối sống và cách suy nghĩ của anh về bề ngoài không được khác với lối sống và đạo đức của bọn kẻ cướp lớn hoặc nhỏ của nước Đức Hitler. Đây là một thử thách nặng nề đối với Belov, nhưng anh đã biết khắc phục và vượt qua được những thử thách đó. Những tin tức của anh đã có nhiều ý nghĩa trọng đại đối với Tổ quốc. Weiss Belov đã lần lượt sống qua những cuộc sống của các tầng lớp xã hội quốc xã. “Thanh kiếm và lá chắn” là một tác phẩm đặc sắc. Đây là bộ tiểu thuyết tâm lý xã hội có chủ đề sắc bén, có xung đột kịch tính cao độ, khắc họa nên những mâu thuẫn sâu sắc giữa hai thế giới đối kháng. “Thanh kiếm và lá chắn” đã được dựng thành phim cùng tên và đã được khán giả Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh. Xin trân trọng giới thiệu với toàn thể bạn đọc. *** Mùa hè năm 1940 một công dân Xô Viết quốc tịch Đức bị giết hại ở Riga. Các cán bộ công an điều tra của Latvia xác định rằng: kẻ giết người đã dùng một loại súng đặc biệt có lắp các ống đựng chất kali xyanua, khi các ống bị vỡ sẽ xuất hiện một loại hơi tập trung làm chết người ngay tức khắc và không gây tiếng nổ. Mặc dù nhiều đồ vật quý giá của nạn nhân như nhẫn cưới, đồng hồ, tiền bạc bị cướp mất, nhưng sau đó người ta tìm thấy một số các đồ vật đó gói lại quẳng xuống đáy cống. Điều này gạt bỏ giả thuyết cho rằng đây là một vụ giết người cướp của. Thế là chỉ ít lâu sau có thể đoán được ngay là một thủ đoạn khủng bố có tổ chức. Nạn nhân là kỹ sư Rudolf Schwarzkopf, một chuyên gia nổi tiếng trong ngành vô tuyến điện. Con trai nạn nhân là Heinrich Schwarzkopf, sinh viên trường Đại học Bách khoa Riga, bàng hoàng trước cái chết của cha, không cung cấp một dẫn chứng nào cả. Johann Weiss, thợ nguội kiêm thợ máy xưởng sửa chữa ô tô của Friedrich Kunz, bị gọi đến cơ quan công an điều tra. Theo các tài liệu điều tra vào ngày xảy ra vụ án mạng, Weiss đã có mặt rất lâu trong nhà Schwarzkopf để chữa những dụng cụ gì đó của kỹ sư đặt làm. Ngoài ra Weiss còn có quan hệ bạn bè với con trai Schwarzkopf đang rất ham mê môn đua mô tô. Weiss là một thợ máy có tài, đã giúp Heinrich hoàn thiện chiếc mô tô nhãn hiệu Zundap, nên mới đây Heinrich đã đoạt giải. Người ta còn biết rằng Weiss đã nghiêm chỉnh tham dự các cuộc họp của “Hội liên hiệp kiều dân Đức vùng Baltic” đã sửa chữa không công một chiếc xe hơi của luật sư Sebastian Funk, liên khu trưởng Hội này, thời giờ nhàn rỗi Weiss còn làm lái xe cho viên luật sự này nữa. Trong thời gian bị hỏi cung, Weiss tỏ ra biết kiềm chế mình, và trả lời hơi lung tung. Khi anh cán bộ công an Latvia bực tức trách Weiss là không muốn giúp đỡ việc điều tra, mặc dù nạn nhân là người cùng dân tộc với anh, Weiss đáp là không có gì đáng ngạc nhiên cả vì nạn nhân lại là người Đức như anh. Bởi vì bây giờ người Latvia đối xử với người Đức không có gì là thân thiện cả. Điều này làm người thẩm phán tức giận. Anh trách Weiss là một công nhân trẻ mà lại không thấy xấu hổ khi nói năng như vậy. Lẽ nào Weiss lại không hiểu rằng lúc này hơn lúc nào hết tình đoàn kết vô sản phải liên hiệp tất cả mọi công nhân lại không kể dân tộc nào hay sao? Weiss nghiêm chỉnh, chăm chú ngồi nghe, nhưng qua nét mặt lạnh lùng và bình thản của anh, khó mà hiểu nổi anh tiếp thu những lời người thẩm phán vừa nói như thế nào. Thẩm phán cũng là một công nhân trẻ, mới trở thành nhân viên cơ quan công an. Tổ chức Đảng nhà máy thủy tinh đã cử anh đến đây, mặc dù đối với nghề nghiệp mới mẻ này anh không có một bằng cấp nào cả, mà cũng không có khả năng gì! Về vấn đề này anh cũng nóng nảy nói với Weiss, nhưng vẫn không làm cho Weiss thông cảm. Ở cơ quan công an ra, Weiss đi đến hiệu cà phê. Anh mua bia, xúc xích rồi từ tốn ngồi ăn sáng. Cũng với dáng điệu bình tĩnh đó anh đi ra bến xe, bỏ lỡ một chuyến tàu điện và lên chuyến sau, dọc đường anh chỉ lãnh đạm nhìn qua cửa kính tàu điện. Tàu còn chưa chạy tới bến đỗ ở phía nhà luật sư Funk, trưởng khu “Hội liên hiệp kiều dân Đức vùng Baltic”. Weiss đã xuống và vội vã chạy về phía trước. Sebastian Funk là một người mập mạp, vai rộng, thân hình gần như vuông, bụng nở căng, đôi má nặng trễ xuống, sốt ruột dậm chân ở bên cửa ra vào nhà mình. Khi Weiss đánh chiếc xe “Adler” kiểu cổ đến cổng chính, Funk khó nhọc ngồi vào ghế sau và tức giận hỏi: - Tại sao tôi phải chờ xe mà xe không chờ tôi? Weiss trả lời ngắn gọn: - Xin lỗi ngài Funk, vì tôi có những chuyện không may. - Anh mà còn có những chuyện không may nữa kia à? - Funk lầu bầu khinh bỉ rồi bảo: - Hay là hôm nay tôi làm anh không may mắn? - Sau đó hắn động lòng thương hại hỏi Weiss: - Thế có chuyện gì xảy ra với anh? Nghe Weiss kể lại tỉ mỉ việc anh bị hỏi cung ở cơ quan điều tra, nét mặt Funk dần dần khoan dung hơn. Lão vỗ vai Weiss bảo: - Cũng không sao đâu nếu như họ có bỏ tù anh. Vì họ cần một thủ phạm người Đức. Mà anh là người Đức. - Nhưng, thưa ngài Funk, chắc ngài đã hiểu tôi. Tôi rất muốn nhờ ngài một việc, nếu cần xin ngài làm luật sư cho tôi. - Cũng chẳng cần đâu. - Funk chẳng cần suy nghĩ nói luôn - Anh là công nhân, mà họ thì không nghi ngờ công nhân đâu. - Công nhân cái gì ở tôi cơ chứ? - Weiss nóng nảy phản đối. - Ngài đã biết, tôi đang tính toán để trở thành một chủ trại. Tôi còn chưa rõ là trang trại có thuộc về cô tôi nữa hay không? - Phải, vì chính anh không biết điều đó nên suốt mấy tháng anh lo lắng chăm sóc bà cô ốm đau của mình khiến cả xã người ta khen ngợi anh là một thanh niên vô cùng đứng đắn. Đừng có ngạc nhiên, Weiss ạ. Tôi là khu trưởng, tôi có trách nhiệm phải biết tất cả về anh, thậm chí cả những điều bản thân anh cũng không biết về mình. - Nhưng tôi cũng yêu quý cô tôi, mặc dù tất nhiên thôi, chỉ rất giận một điều là chẳng nhận được của thừa tự gì cả. Funk lắc đầu. - Tôi cho rằng ở nghĩa địa anh đã khóc vì thương bà cô ngang với tiếc của thừa kế… - Rồi lão xẵng giọng. - Anh vẫn còn dao động chứ? Anh định về nước hay ở lại với bọn Bolshevik? - Thưa ngài, Weiss nói tiếp: - Bây giờ tôi đã quyết định trở về Đức càng sớm càng tốt. - Tại sao bây giờ mà không phải trước đây? - Hôm nay ở cơ quan điều tra tôi đã hiểu rằng, ở đây người ta đối xử với người Đức không tốt. Ngài Kunz hứa để lại cho tôi xưởng của mình để tôi trở thành chủ nhân hờ của xưởng. Tôi đã nghĩ là ở đây tôi có triển vọng lớn hơn ở bên nước. Nhưng bây giờ thì tôi đã rõ rồi, xưởng sẽ bị tịch thu. Và tôi buộc sẽ phải vào nhà máy như một công nhân bình thường. Tôi cho rằng làm một người lính ở bên nước mình còn hơn làm công nhân ở đây. - Cho tới bây giờ tôi mới nghe thấy giọng nói mang dòng máu Đức của anh: - Funk tán thưởng gật đầu. Chiều hôm đó, rửa xe xong, Weiss đang lau cửa kính xe bằng miếng da hươu, bỗng nhiên Funk đến gara (trước kia không bao giờ lão đến đây) và hỏi: - Hôm nay anh sẽ đến chia buồn với con trai ông Schwarzkopf chứ? - Vâng, ông Schwarzkopf đối xử với tôi rất tốt. - Điều đó tôi biết, - Funk tức giận nói tiếp, - nhưng tôi không thể hiểu nổi tại sao lại như vậy? - Bao giờ tôi cũng nghiêm chỉnh hoàn thành những việc làm theo yêu cầu của ông ấy. - Còn gì nữa? - Trong những lúc rỗi rãi tôi có giúp ông ta đôi chút, vì ông ấy là nhà phát minh. - Rất tiếc là tôi không đủ trình độ để hiểu nổi ông ấy nghiên cứu gì. - Phải, đầu óc anh thật ngốc nghếch, - Funk hạ thấp giọng nói với vẻ cương quyết và chắc chắn - Còn bây giờ thì thế này Weiss ạ, mặc dù anh đã quyết định về nước, song hoàn toàn chưa có nghĩa là anh sẽ được về, vì rằng chúng tôi còn chưa quyết định. Chúng tôi quyết định anh sẽ được về Đức nếu Heinrich về theo. Và muốn cho Heinrich về nước thì phải cho cậu ta biết rằng cha cậu ta cũng đã dự định như vậy. - Chẳng lẽ Heinrich lại không biết điều đó? - Cho đến nay cậu ta vẫn chưa biết. Cậu ta cũng chưa biết là mới đây ông Rudolf có gửi cho tôi một bức thư… Anh hãy bảo với Heinrich rằng tôi có bức thư đó. - Như vậy cho Heinrich xem bức thư đó thì tốt hơn, vì cậu ta vẫn thường làm những điều bố mình muốn. Funk nhăn trán, nhưng rồi dịu giọng ngay: - Weiss, tôi tin anh như tin đứa con trai tôi. Bức thư này tôi đánh mất rồi và tôi nghĩ là các tình báo Bộ nội vụ Liên Xô đã lấy cắp mất. Chúng cần Schwarzkopf vì ông ta là một kỹ sư có tài, hiểu biết rất sâu về kỹ thuật thông tin quân sự. Khi chúng biết Schwarzkopf chuẩn bị về nước, chúng bèn giết kỹ sư. - Funk cất giọng huênh hoang - Bây giờ nghĩa vụ của chúng ta phải đưa con trai Schwarzkopf trở về Tổ quốc. Chú của Heinrich hiện giờ mà một nhân vật quan trọng ở Đức. Ông ta muốn giang tay ôm chặt anh trai và cháu mình vào ngực, và tôi đã hứa với ông ta rằng sau khi về Đức gia đình Schwarzkopf sẽ có địa vị đặc quyền hơn chúng ta nhiều. Anh hiểu tất cả chứ? - Vâng, tôi sẽ nói với Heinrich rằng tôi sẽ là người trung thành nhất với anh ta nếu như anh ta đồng ý về nước trong một ngày gần đây. - Vấn đề là như thế, nhưng anh còn có nhiệm vụ đối với tôi, - Funk nhắc lại - Không được sự đồng ý của tôi anh không được bỏ nơi này. •º• Ngay cả chuyên gia có tài cũng không thể tạo cho nét mặt của Rudolf Schwarzkopf bị biến đổi vì sợ hãi một nét bình tĩnh trở lại. Người ta phủ lên quan tài tấm nhiễu đỏ. Những người Đức sống ở Riga hồi đó không mến phục Schwarzkopf vì tính tự cao đối với đồng bào bởi uy thế của mình, và vì sự thể hiện quá kính trọng giáo sư Goldblatt. Kết bạn với một người Do Thái, dù cho người này có tài đi nữa, cũng là một sự khiêu khích đối với xã hội.   Mời các bạn đón đọc Thanh Kiếm Và Lá Chắn của tác giả Vadim Kozhevnikov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bùi Thị Xuân
Bùi Thị Xuân là con của Bùi Đắc Chí, gọi Bùi Đắc Tuyên bằng chú, người thôn Xuân Hòa, một thôn nằm về phía đông Phú Phong (nay thuộc thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Sinh trưởng trong một gia đình khá giả, Bùi Thị Xuân sớm được học văn và học võ. Tương truyền bà vừa có sức mạnh vừa có sắc đẹp, nữ công khéo, chữ viết đẹp, nhưng thích làm con trai, thích múa kiếm đi quyền. Nghe kể chuyện bà Trưng bà Triệu cỡi voi đánh giặc, Bùi Thị Xuân náo nức muốn được theo gương bà Triệu bà Trưng. Còn những chuyện Tô Tiểu Muội cùng chồng xướng họa, chuyện bà Mạnh Quang cử án tề mi thì Bùi Thị Xuân cho là nhảm nhí. Lúc nhỏ đi học thường mặc áo con trai. Lớn lên tự chế kiểu áo các nữ hiệp vẽ trong sách mà mặc. Năm 12 tuổi, Bùi Thị Xuân đến trường học chữ. Bị đùa cợt, Bùi Thị Xuân cả thẹn, vung quyền đánh vào mặt hai người sanh sự rồi trở về nhà. Từ ấy bỏ học chữ, ở nhà chuyên học võ. Từ khi bỏ học văn thì đêm đêm có một lão bà đến dạy. Dạy từ đầu hôm đến gà gáy lần thứ nhất thì bà lão lui gót. Không ai hiểu lai lịch ra sao. Suốt ba năm trời, trừ những khi mưa gió, đêm nào bà lão cũng đến cũng đi đúng giờ giấc. Dạy quyền, dạy song kiếm. Rồi dạy cách nhảy cao nhảy xa. Nhảy cao thì cột hai bao cát nơi chân mà nhảy, ban đầu bao nhỏ rồi đổi bao to dần, cuối cùng mới nhảy chân không. Còn nhảy xa thì ban đầu dùng sào, sau dùng tre tươi ngoài bụi, níu đọt uốn cong xuống thấp rồi nương theo sức bung của cây mà nhảy. Đêm học ngày tập, đến 15 tuổi thì tài nghệ đã điêu luyện. Theo cụ Bùi Sơn Nhi ở Xuân Hòa thì đó là bà cao tổ của ông Hương mục Ngạc, một võ sư trứ danh ở An Vinh thời Pháp thuộc. Sau khi luyện tập võ nghệ thuần thục, Bùi Thị Xuân bèn rủ một số chị em khác trong vùng đến nhà mình luyện quyền múa kiếm. Đệ tử của bà ban đầu còn ít, dần dần lên đến vài chục người. Tài nghệ đã tinh mà cách đối xử, cách dạy dỗ lại đứng đắn nên Bùi Thị Xuân được chị em kính yêu, quý trọng. Trong số đệ tử xuất sắc có bà Bùi Thị Nhạn. Năm 1771, Bùi Thị Xuân lúc 20 tuổi đã dùng kiếm để giải nguy cho Trần Quang Diệu khi vị tráng sĩ này bị một con hổ dữ tấn công. Và cũng từ lần gặp này mà hai người trở thành vợ chồng khi ông Diệu đến ở nhà người con gái Xuân Hòa để trị thương, rồi cùng nhau về tòng quân dưới ngọn cờ Tây Sơn ở chiến khu Phú Lạc. *** Đào Trinh Nhất (1900-1951), tự Quán Chi, là nhà nhà văn, nhà báo Việt Nam giữa thế kỷ 20. Khi viết văn, viết báo, ông ký nhiều bút hiệu: Nam Chúc, Viên Nạp, Hậu Đình, Tinh Vệ, Bất Nghị, Vô Nhị, Hồng Phong, Anh Đào, XYZ.... Ông được người trong giới cầm bút đánh giá là người có cách làm việc nghiêm túc, thận trọng và là người đã biết dùng ngòi bút nghệ thuật làm sống lại nhiều tư liệu đã mai một trong lịch sử cận đại Việt Nam Đào Trinh Nhất sinh năm Canh Tý (1900) tại Huế. Nguyên quán tại xã Thượng Phán, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng Đình nguyên nhị giáp Tiến sĩ (tức Hoàng giáp) Đào Nguyên Phổ. Vợ là Lương Thị Hòa, con gái Lương Ngọc Quyến và là cháu nội Lương Văn Can. Thuở nhỏ, Đào Trinh Nhất theo học chữ Hán ở quê nhà, sau lên Hà Nội học chữ Pháp và chữ quốc ngữ. *** Vốn là nhà báo viết văn, cho nên hầu hết các tác phẩm của Đào Trinh Nhất đều đăng từng kỳ trên báo rồi sau mới in thành sách. Theo thống kê chưa đầy đủ, sau 30 năm cầm bút (1921-1951), ông đã để lại khá nhiều tác phẩm như sau: Thế lực khách trú và vấn đề di dân vào Nam Kỳ.(Thụy Ký - Hà Nội, 1924) Đông Châu liệt quốc (dịch, Sài Gòn, 1928) Thần tiên kinh (Dịch của A lan Kardec, 1930) Cái án Cao Đài (Sài Gòn, 1929) Việt sử giai thoại (Hà Nội, 1934) Nước Nhựt Bổn ba mươi năm duy tân (Đắc Lập, Huế, 1936) Phan Đình Phùng, một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (Cao Xuân Hữu, Hải Phòng, 1936; Đại La, Hà Nội, tái bản 1945; Tân Việt, Sài Gòn, tái bản 1957) Việt Nam Tây thuộc sử (Đỗ Phương Huế, Chợ Lớn, 1937) Ðông Kinh nghĩa thục (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938) Ngục trung thư (Đời cách mạng Phan Bội Châu) (Mai Lĩnh, Hà Nội, 1938; Tân Việt, Sài Gòn tái bản, 1950) Vương An Thạch (Hà Nội, 1943; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1960) Cô Tư Hồng (tiểu thuyết, Trung Bắc Tân Văn Chủ nhật, 1940; Trung Bắc Thư xã, Hà Nội, 1941) Chu Tần tinh hoa (dịch, Hà Nội, 1944) Lê Văn Khôi (1941-1945) Con trời ngã xuống đất đen (Hà Nội, 1944) Chu Tần tinh hoa (1944) Vương Dương Minh-Người xướng ra học thuyết lương tri và tri hành hợp nhất (Hà Nội, 1944; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1950) Kẻ bán trời Con quỷ phong lưu Bùi Thị Xuân Lương Ngọc Quyến và cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên 1917 (Quốc Dân thư xã, Hà Nội, 1946; Tân Việt, Sài Gòn tái bản 1957). Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, ông mới dịch được nửa bộ, đang đăng báo thì từ trần (Bốn Phương xuất bản, Sài Gòn, 1950) Đào Trinh Nhất Tác Phẩm gồm có: Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Lịch Sử Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 1 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Văn Học Tập 2 Đào Trinh Nhất Tác Phẩm - Triết Học gồm có: Vương Dương Minh Vương An Thạch Chu Tần Tinh Hoa Mời các bạn đón đọc Bùi Thị Xuân của tác giả Đào Trinh Nhất.
Atlas Vươn Mình
Atlas Vươn Mình (Atlas Shrugged) mô tả thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử nước Mỹ khi các nhà công nghiệp và doanh nhân hàng đầu chống sự điều khiển bất công và thô bạo của nhà nước đối với toàn bộ ngành công nghiệp. Nhân vật chính, Dagny Taggart, giám đốc một công ty đường sắt, chứng kiến sự suy sụp của xã hội mà trong đó những người lao động ưu tú, những cá nhân xuất chúng nhất bị gạt ra rìa. Tất cả họ, những người có cả lý trí và lương tri, dưới sự lãnh đạo của một nhân vật bí mật tên là John Galt đã làm "dừng lại động cơ của thế giới". Quyển sách thể hiện rõ ràng những quan niệm của tác giả về thành tựu lao động, về tri thức và tinh thần tự do của con người. Bản dịch tiếng Việt dày 1650 trang cũng chứa đựng toàn bộ những triết lý quan trọng nhất của Ayn Rand. Lúc đang còn ở dạng bản thảo đang viết, nó có tên là "The Strike", nhưng khi được xuất bản (lần đầu vào năm 1957), cuốn sách có tựa là "Atlas Shrugged" (Atlas Vươn Mình). Một trong những lý do khiến độc giả không thể làm ngơ cuốn sách: tác phẩm đứng đầu bảng xếp hạng "Những tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20" do độc giả của Modern Library bình chọn năm 1998 (tiểu thuyết "The Fountainhead" - Suối Nguồn cũng của Ayn Rand đứng thứ hai). "Atlas Vươn Mình" được cho là tiểu thuyết có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của nhiều độc giả Mỹ, chỉ sau Kinh Thánh (theo cuộc thăm dò của Thư Viện Quốc Hội Mỹ vào năm 1991). Nhiều cuộc tranh luận về cuốn sách xảy ra kể từ lúc cuốn sách được xuất bản lần đầu, và liên tục được đào xới lại cho đến tận ngày nay. Sức sống của nó không chỉ ở nước Mỹ mà còn lan ra khắp thế giới. Một tiểu thuyết kinh điển cần đọc! *** Như bao người da trắng khác, tôi đọc cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất của Ayn Rand “Atlas Vươn mình” khi tôi ở tuổi 18. Và cũng như bao người da trắng khác, cuốn “Atlas Vươn mình” đã khiến tôi thành một kẻ đần độn trong nhiều tháng trời. Ayn Rand (1905-1982) Cuốn “Atlas Vươn mình”, được xuất bản năm 1959 và số lượng ấn bản phát hành chỉ đứng thứ hai sau Kinh Thánh, “Atlas Vươn mình” được dùng như một lời mời gọi bạn đọc đến với triết lý của Ayn Rand, Chủ nghĩa Khách quan, dựa trên ý tưởng rằng sự vị kỷ nên là đức tính hướng dẫn cho toàn bộ nhân loại. (Nếu bạn cho rằng tôi đang nói quá hoặc hiểu sai về thông điệp của bà, thì xin lưu ý là Rand đã công bố một cuốn sách phi hư cấu có tựa đề chính xác là “Phẩm hạnh của sự vị kỷ” |The Virtue of Selfishness| theo đúng nghĩa đen.) Rand khẳng định rằng tính tư lợi là động lực tốt nhất cho kinh tế học, tài chính, chính trị học và về cơ bản cho tất cả những sự mưu cầu của nhân loại. Bà lập luận rằng đặt những người khác lên hàng đầu nghĩa là mọi người đều sẽ về cuối. Sức hấp dẫn của sự vị kỷ Thế giới quan theo Chủ nghĩa Khách quan đơn giản của Rand không thể được thiết kế tốt hơn để thu hút những chàng trai da trắng sống êm ả ở ngoại ô và thuộc tầng lớp trung lưu và thượng lưu giống tôi - loại người, mà theo câu nói bất hủ của Barry Switzer, là sinh ra ở tầng lớp thượng lưu song lại cứ tưởng mọi thứ mình có được là nhờ nỗ lực và tài năng cá nhân. Đối với những đứa trẻ như tôi vào thời điểm đó, thông điệp của Rand cho rằng chúng ta kiếm được mỗi phần của cải mà chúng ta được thừa kế là một điều đáng an ủi, và điều này làm hài lòng cái tôi của chúng ta bằng cách tập trung vào chúng ta như những chủ nhân của vũ trụ, những người xứng đáng với vị trí cao. May mắn thay, tôi không mất quá nhiều thời gian để loại bỏ các chủ đề của cuốn “Atlas Vươn mình”. Ngay khi tôi kết bạn với những người không phải là công tử ngoại ô da trắng, và khi tôi hiểu rằng họ phải làm việc chăm chỉ gấp 5 lần để được hưởng một nửa đặc quyền mà tôi được hưởng, tôi nhận ra rằng Rand đang hát một bản anh hùng ca tán dương sự thoải mái. Với việc áp dụng một chút đồng cảm và kinh nghiệm sống, triết lý của bà đã sụp đổ. Nhưng rất nhiều người có quyền lực vẫn tán đồng triết lý của Rand. Cựu Chủ tịch Hạ viện Paul Ryan đã nói chuyện thường xuyên, và một cách sùng bái, về tác động của Rand đối với cuộc sống của ông ấy. Cựu Cục dự trữ liên bang Alan Greenspan là một người đi theo và ủng hộ Rand, cùng với cả Ron và Rand Paul. Một số người chơi trò chơi quyền lực nhất của Thung lũng Silicon, gồm Peter Thiel và Travis Kalanick, đã ca ngợi Rand. Văn phong của bà cho đến ngày nay cho biết một hình thức đặc biệt độc hại của tư tưởng bảo thủ - theo chủ nghĩa tự do mãnh liệt, hăng hái chống chính phủ, mù quáng ủng hộ việc trao quyền cho các tập đoàn. David Sloan Wilson (1949-) Trong tập “Kinh tế học Pitchfork” của tuần này, Nick Hanauer và David Goldstein trò chuyện với nhà tiến hóa luận nổi tiếng David Sloan Wilson về cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh ấy, “Atlas Ôm chặt” |Atlas Hugged|. Cuốn “Atlas Ôm chặt” bác bỏ các tuyên bố của “Atlas Vươn mình” bằng cách sử dụng sự hiểu biết phi thường của Sloan về sinh học tiến hóa, cuốn sách này xác định lại con người như một loài động vật hợp tác và có tinh thần cộng đồng chứ không phải như những tác nhân vị kỷ hung bạo. Tính tư lợi đối diện với đại dịch Và đối với một ví dụ được trích từ các tiêu đề về lý do tại sao con người lại hoàn toàn không trở thành những người có thái độ và hành động kịch liệt chống xã hội (sociopathic) như hư cấu của Rand, hãy nhìn xa hơn với đại dịch. Xã hội tự do Galt’s Gulch đã phản ứng như thế nào vào năm ngoái khi COVID-19 lan đến? Trước tiên, không ai trong số những nhân vật chính theo chủ nghĩa cá nhân nghiêm khắc của Rand sẽ chịu nổi việc bắt buộc phải đeo khẩu trang. Họ không ưa mọi quy định của chính phủ, và vì đeo khẩu trang bảo vệ người khác nhiều như bảo vệ chính bản thân người đeo khẩu trang, điều đó vi phạm chỉ thị chính của Rand về tính vị kỷ là trên hết. Điều tương tự cũng xảy ra đối với các quy tắc giãn cách xã hội 6 bộ Anh (ft) [1 ft = 0,3048 m]. Vì vậy, Galt’s Gulch trông giống như một đĩa petri (đĩa bằng thủy tinh hay nhựa trong suốt để nuôi cấy tế bào) cho vi rút corona. Rand đã hình dung xã hội không tưởng (utopia) của mình là thiên đường cho các CEO |Tổng Giám đốc Điều hành| và chủ tịch của các công ty sản xuất lớn, và độ tuổi trung bình của các CEO ở Mỹ đã tăng lên trong những năm gần đây, là dưới 60 tuổi. Cho rằng 95% tổng số ca tử vong do vi rút corona là ở những người trên 60 tuổi, tỷ lệ sống sót của Galt’s Gulch có vẻ không cao. Lúc này tôi nghe thấy những lời phản đối: “Nhưng chắc chắn những nhà tư bản không bị ràng buộc này sẽ có thể mua hoặc sản xuất máy thở để giữ cho những CEO bị nhiễm bệnh đó sống sót?” Có lẽ là không. Nếu bạn nhớ lại, máy thở có nhu cầu cao trong những ngày đầu của đại dịch, và lúc bấy giờ Tổng thống Trump đã sử dụng quyền hạn của chính phủ để buộc hãng General Motors sản xuất chúng - một sự vi phạm nghiêm trọng triết lý của Rand. Và chuỗi cung ứng toàn cầu đã hoàn toàn bị phá vỡ trong những ngày đầu tiên đó, nghĩa là toàn bộ tiền bạc trên thế giới không thể mua máy thở hoặc các bộ phận sản xuất máy thở cho Galt’s Gulch kịp thời để giải cứu những nhà khách quan chủ nghĩa đáng thương đang bị bệnh hiểm nghèo. Sau đó, hãy cân nhắc thực tế là Galt’s Gulch có khả năng không có cơ sở y tế công cộng để thông báo cho dân chúng về các hành vi rủi ro và dữ liệu nhân khẩu học, không có cách nào để chỉ đạo doanh nghiệp tư nhân theo những cách có lợi cho phúc lợi tập thể |public good| mà không bị khoét giá lớn và không có tiền thuế để hỗ trợ những người thất nghiệp vì đại dịch, và xã hội không tưởng của John Galt đang bắt đầu giống xã hội trong bộ phim “Đấu trường sinh tử” |The Hunger Games|. Khoa học viễn tưởng về chủ nghĩa cá nhân Có một lý do tại sao những người theo chủ nghĩa tự do vô chính phủ lại quá im lặng kể từ khi COVID lan đến các bờ biển của chúng ta cách đây một năm, và tại sao những người theo chủ nghĩa bảo thủ cực đoan của Đảng Cộng hòa lại thất vọng về Tiến sĩ Seuss khi đảng Dân chủ thông qua một gói cứu trợ đại dịch cực kỳ được lòng dân. Paul Constant Đại dịch là chứng cứ cho một sự thật không thể tránh được mà phá hủy triết lý của Ayn Rand: Chúng ta đang sống trong một xã hội, và không ai thực sự là một người làm chủ tự tạo ra vận mệnh của chính mình. Chúng ta càng sớm hiểu lý tưởng của người Mỹ về chủ nghĩa cá nhân tối thượng là một thứ khoa học viễn tưởng |science-fiction| bao nhiêu, thì chúng ta càng nhanh chóng có thể bắt tay vào xây đắp một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người bấy nhiêu. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Paul Constant là một cây bút của Civic Ventures và là đồng chủ biên của podcast “Pitchfork Economics” cùng với Nick Hanauer và David Goldstein. Trong tập mới nhất, họ đã nói chuyện với nhà tiến hóa luận David Sloan Wilson về cuốn tiểu thuyết của ông, “Atlas Ôm chặt”. Wilson cho rằng đại dịch đã làm phá sản triết lý của Ayn Rand rằng tính tư lợi sẽ lấn át các nhu cầu xã hội. Hồ Thị Thu Hiền dịch Nguyễn Việt Anh hiệu đính *** Ayn Rand (1905 – 1982) là một tiểu thuyết gia, triết gia người Mỹ sinh ra ở Nga. Bà nổi tiếng là người đã phát triển học thuyết “Chủ nghĩa khách quan” thông qua hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng như The Fountainhead (Suối nguồn), Atlas Shrugged (Atlas vươn mình),  For the new Intellectual,… Bà sinh trưởng trong một gia đình gốc Do Thái và bắt đầu niềm đam mê với nghệ thuật từ rất sớm. Năm 8 tuổi bắt đầu viết kịch, 10 tuổi viết tiểu thuyết. Sau thành công của Cách mạng Nga, các trường đại học bắt đầu mở cửa cho nữ sinh, Ayn Rand nhanh chóng gia nhập tầng lớp trí thức, bắt đầu nghiên cứu về lĩnh vực xã hội và lịch sử. Bà bắt đầu say mê các tác phẩm của Aristotle và Plato, những tác phẩm ảnh hưởng rất lớn đến bà sau này. Tiểu thuyết đầu tiên của Rand, hư cấu dựa trên tiểu sử của bà We the Living, được xuất bản năm 1936. Bối cảnh ở Liên bang Xô Viết, tiểu thuyết tập trung vào cuộc đấu tranh giữa cá nhân và chính quyền. Bà rời khỏi Nga vào năm 1926 và đến Mỹ. Ayn Rand ở nhà một người họ hàng tại Chicago rồi sau đó tới New York để theo đuổi ước mơ làm biên kịch. Một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của bà, The Fountainhead (Suối nguồn) xuất bản năm 1943 đã mang tên tuổi Ayn Rand đến độc giả trên toàn thế giới. Thu nhập từ tác quyền và phiên bản điện ảnh đã mang lại cho bà danh vọng và sự ổn định về tài chính. Tác phẩm đã từng bị từ chối bởi 12 nhà xuất bản trước khi được chấp thuận bởi Bobbs-Merrill Company. Các tác phẩm của bà đã bán 25 triệu bản trên toàn thế giới. Trong suốt cuộc đời của mình, Rand đã trở thành một nhân vật nổi tiếng và gây nhiều tranh cãi. Ngoài việc là một tác giả có sách bán chạy, bà cũng mang thông điệp của mình đến với các lớp đại học, đến Hollywood, với Quốc hội, với các trang xã luận, các buổi tọa đàm, chương trình phát thanh. Ngày nay , sách của bà đã bán được hàng triệu bản, và bà là chủ đề của một bộ phim tài liệu được đề cử Oscar, một con tem bưu chính Hoa Kỳ, các khóa học đại học, và một môn học xã hội triết học dành cho các nghiên cứu về tư tưởng của bà . Mời các bạn đón đọc Atlas Vươn Mình của tác giả Ayn Rand.
Quán Trọ Ancuta
“Quán trọ Ancuta” - tiểu thuyết dã sử nổi tiếng của nhà văn Mihail Sadoveanu đã được dựng thành bộ phim hấp dẫn cùng tên. Những cuộc đời, số phận, cảnh ngộ có thật được các lữ khách kể lại trong quán trọ Ancuta giúp người đọc mường tượng ra những khoảnh khắc lịch sử của đất nước Rumani. Dữ đội, khốc liệt, nghĩa trượng, trung thành... tính cách các nhân vật riêng biệt nhưng vẫn tạo nên một nét chung nhân văn.Quán trọ Ancuta "cho thấy nhà văn đã kết hợp tài tình và nhuần nhuyễn tính thiên nhiên, tính lịch sử mang đậm dấu ấn đặc sắc của vùng Moldova quê hương ông." - Dịch giả Phương Thảo *** Những cuộc đời, số phận, cảnh ngộ có thật được các lữ khách kể lại trong quán trọ Ancuța giúp người đọc mường tượng ra những khoảng khắc lịch sử của đất nước Rumani. Dữ dội, khốc liệt, nghĩa trượng, trung thành… tính cách các nhân vật riêng biệt nhưng vẫn tạo nên một nét chung nhân văn. Quán trọ Ancuța cho thấy nhà văn đã kết hợp tài tình và nhuần nhuyễn tính thiên nhiên, tính lịch sử và mang đậm dấu ấn đặc sắc của vùng Moldova quê hương ông. *** Nhà văn MIHAIL SADOVEANU (1860 - 1961) Nhà văn nổi tiếng của Rumani, Là tác giả của hơn 100 tác phẩm văn chương xuất sắc Dịch giả PHƯƠNG THẢO (1922 - 2012) Quê quán: Đại Hòa, Đại Lộc, Quảng Nam Đã từng công tác tại Viện Văn học và báo Văn nghệ TÁC PHẨM DỊCH: • Hồi kí A Đriêng • Con chim mồi bằng gỗ • Chú bé và con lạc đà • Bí ẩn Hy Lạp • Sự hủy diệt tinh vi và xảo quyệt • Bác Ruben *** LỜI NÓI ĐẦU Mihail Sadoveanu là nhà văn nổi tiếng của Rumani. Ông để lại hơn 100 tác phẩm văn chương xuất sắc, làm vẻ vang cho nền văn học Rumani. Sadoveanu sinh ngày 5 tháng 11 năm 1880 tại Pașcani, thuộc vùng Moldova của Rumani và tạ thế ngày 19 tháng 10 năm 1961 tại thủ đô Bucarest. Cuộc đời 81 năm của ông là cuộc đời sáng tạo văn chương miệt mài từ thuở thiếu niên cho đến tận những năm tháng cuối cùng. Tác phẩm của ông bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và các bài báo với nhiều chủ đề, đã thật sự chinh phục độc giả từ thập niên này đến thập niên khác. Cùng với nhà thơ Eminescu và nhà soạn kịch Ion Luca Caragiale, ông được giới văn chương Rumani và các nhà bình luận văn học quốc tế đánh giá là một nhà văn vĩ đại vào bậc nhất của Rumani. Trong thể loại tiểu thuyết thì Mihail Sadoveanu là bậc thầy về tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết phiêu lưu. Các sáng tác cho thấy nhà văn đã kết hợp tài tình và nhuần nhuyễn tính thiên nhiên, tính lịch sử và mang đậm dấu ấn đặc sắc của vùng Moldova quê hương ông. Ông là một trong những người sáng lập Hội Nhà văn Rumani và sau này trở thành Chủ tịch Hội Liên hiệp Nhà văn Rumani, đồng thời là thành viên của Viện Hàn lâm Rumani từ năm 1921. Những tác phẩm của ông đã nhận được nhiều giải thưởng quốc tế. Xin giới thiệu với độc giả một trong những tiểu thuyết dã sử của Mihail Sadoveanu - Quán trọ Ancuța, một tác phẩm được nhiều độc giả yêu thích và đã được dựng thành một bộ phim hấp dẫn cùng tên. Người dịch *** LỜI TỰA Quán trọ Ancuța không phải hình tượng hư cấu, mà là một quán trọ có thật, thậm chí còn rất nổi tiếng vào thế kỉ trước. Cách đây vài chục năm, người ta vẫn trông thấy các bức tường đổ nát của nó, nhưng về sau, những người thừa kế cuối cùng đã chia những viên gạch của quán để xây thành hai trang trại nhỏ cách nhau không xa. Ngày nay người ta còn thấy chúng trên quốc lộ đi từ xã Cornu-Luncii đến thành phố Roman bên sông Moldova. Cách đó một quãng có con đường nhỏ tách khỏi quốc lộ, dẫn đến cây cầu ở Tupilati, và làng Războieni nổi tiếng nhờ trận chiến đấu chống quân Thổ của Ștefan Đại đế năm 1476. Nhưng Ancuța không phải là quán trọ duy nhất ở Moldova. Khách bộ hành ngày xưa thường bắt gặp các nhà trọ như thế ở hầu hết các trạm dừng chân. Đến giờ, người ta vẫn trông thấy dấu tích của chúng trên khắp đất nước. Phần quan trọng nhất của quán trọ Ancuța là cái hầm rượu. Nó vẫn nguyên xi như trước, nhưng bây giờ hoang vắng như đang ngủ vùi giữa hào quang của quá vãng. Chỉ có cảnh sông quyến rũ là còn giữ được toàn bộ sức sống mạnh khỏe của mình, với những con suối lấp loáng chảy qua các đồng cỏ, những khu rừng trải dài đến tận các rặng núi xa mờ, những đồng lúa mì chín vàng, và các ruộng ngô ngút ngàn xanh thẫm một màu. Dù vật đổi sao dời, nhưng các thế hệ con cháu vẫn đang được hưởng chính vầng mặt trời của thời xưa cũ. Cái quán trọ nơi ông cha chúng ta dừng chân khi xưa ấy đã chứng kiến vô số biến cố lạ thường. Nếu mẹ tôi không trải qua những năm tháng thơ ấu ở vùng đất ấy - bên bờ kia sông Moldova, tại ngôi làng Verșeni nghèo khó, nếu thỉnh thoảng tôi không được cùng mẹ từ Pașcani về thăm ông bà ngoại, và nếu tôi không được nghe mẹ kể các câu chuyện xưa, thì tất cả những buồn đau, say mê, ngược đãi, hằn thù của ngày cũ sẽ mãi rơi vào lãng quên, bị đào sâu chôn chặt. Nhưng mẹ tôi lại là người có tài kể chuyện, đến nay kí ức về giọng trầm ấm của mẹ vẫn khiến tôi run lên xúc động. Quán trọ Ancuța, tập sách nhỏ tôi viết hẳn vẫn gợi nên một miền kí ức cho những ai từng có dịp ngắm phong cảnh bất diệt tôi vừa tả ở trên, khơi dậy những giọng cười, tiếng khóc từng vang lên lúc xưa tại nơi này, cái góc nhỏ trên con đường cái lớn gần thành phố Roman. Khi người sống còn nhớ đến những ai không còn trên cõi đời nữa, thì người chết vẫn chưa lìa khỏi cuộc sống hiện tại. Hơn nữa, những độc giả thuộc thế hệ dân cày lớn lên trên những vùng đất ấy sau cuộc cách mạng ở miền Đông có lẽ sẽ hiểu rõ hơn những đổi thay hiện thời sau khi đọc các câu chuyện xưa và nhớ lại quá khứ. Trên cái nền đen tối của thế kỉ trước, mặt trời công lí và tự do mọc lên vì những con người cần lao của xứ sở chúng ta sẽ chiếu sáng càng thêm rực rỡ. Mihail Sadoveanu Mời các bạn đón đọc Quán Trọ Ancuta của tác giả Mihail Sadoveanu & Phương Thảo (dịch).
Nghìn Lẻ Một Nàng Dâu
Nghìn lẻ một nàng dâu - Hoàng Minh Tường (tác giả Thời của Thánh Thần) Tôi chuẩn bị làm một luận án Thạc sỹ về phái đẹp. Giáo sư Võ Nhu, người hướng dẫn tôi, khuyên: - Đề tài rất hay. Nhưng rộng quá, e sức cậu không kham nổi. Hãy khoanh hẹp lại. Ví dụ như về các nàng dâu chẳng hạn. - Hay quá - Tôi reo lên - Lâu nay em cũng nghĩ nhiều về vấn đề này. Các Nàng dâu Việt Nam xưa và nay. Một đề tài rất thú vị. - Vậy thì trước hết cậu cần phải tiến hành một cuộc điều tra xã hội học. Ít ra phải hiểu biết được một nghìn nàng dâu. - Ôi, thế thì quả là một công việc khó khăn - Tôi tỏ ý e ngại. - Đừng nản. Phải có chừng ấy tư liệu thì mới mong có một cái luận văn Thạc sỹ tử tế - Thầy tôi động viên - Vả lại cậu có năng khiếu về văn chương. Biết đâu, nhân dịp này cậu lại có một thiên phóng sự hay về một truyện dài kỳ lý thú. Tôi chợt nghĩ đến những câu chuyện bất hủ của xứ sở Một nghìn một đêm lẻ và hăm hở đi kiếm tìm một nghìn lẻ một nàng dâu Đất Việt. Trân trọng giới thiệu... *** Hoa hậu áo dài Nàng dâu đầu tiên mà tôi nghĩ đến là cô giáo Thúy, người đã dạy tôi hồi phổ thông trung học. Cô giáo Thúy dạy văn giỏi có tiếng, đẹp người, đẹp nết, từng là thần tượng của thế học trò chúng tôi những năm đánh Mỹ. Gần hai chục năm, do mải mê kiếm sống, tôi chưa có dịp gặp lại. Nghe tin cô mới chuyển gia đình về Hà Nội, tôi vội đi tìm. Bấm chuông ngôi biệt thự hai tầng nằm tách biệt trong khu cư dân một vùng ngoại vi thành phố, tôi bồi hồi mường tượng lại hình bóng cô giáo thân thương của tôi ngày nào. Cô sẽ từ trong nhà đi theo lối sỏi kia. Cô sẽ sững sờ một giây rồi sung sướng reo lên: “Trời ơi. Hoàng đấy ư em? Hơn hai mươi năm rồi mà em vẫn chẳng thay đổi chút nào…” Nhưng kìa, người đang ra mở cổng cho tôi là một thiếu nữ. Chiếc váy quá ngắn để lộ một cặp giò trắng muốt, đẹp như thần vệ nữ. Chắc là con gái cô giáo Thúy. Tôi chớp mắt kinh ngạc khi thoáng nhìn ra một vẻ đẹp hoàn mĩ mà hầu như trong đời, đây là lần đầu tiên tôi được chiêm ngưỡng. Người tôi run lên, nổi gai lên - một phản xạ mà tôi chưa từng có bao giờ. - Anh hỏi ai? Cần gì? - Cô gái cúi xuống nhòm qua ô cửa. Đôi mắt quá đẹp và quá sắc xía vào tôi những ánh nhìn chẳng có chút gì thiện cảm. Lập tức, người tôi như muốn co rúm lại, hệt như cảm giác của một kẻ ăn cắp bị bắt quả tang. Tôi cụp vội mắt xuống và chợt nhận ra sự bệ rạc, xoàng xĩnh của bộ quần áo không phẳng phiu, của chiếc honda 79 quá tàng… - Dạ, xin lỗi… Tôi muốn gặp cô giáo Thúy… - Không có nhà. Đến trường mà hỏi… Mà lần sau anh đừng có bấm chuông giật giọng thế nhá. Chối không chịu được. Người đẹp nói sẵng và quay phắt, đóng sập luôn tấm chắn ô cửa. Tôi có cảm giác vừa bị hắt một chậu nước lạnh và bẩn vào người. Rã rời đến không còn hơi sức để nổ máy chiếc honda 79 cũ nát, tôi quay xe ì ạch dắt bộ ngược con đường ra chợ. Thì may quá, cô giáo của tôi kia rồi. Hơn hai mươi năm mà cô chẳng thay đổi là bao, vẫn gương mặt phúc hậu ấy, vẫn dáng người đậm đà ấy… Hai cô trò gặp nhau, mừng vui khôn xiết. Cô kéo tôi trở lại nhà. - Ở chơi với cô lâu lâu một chút. Có nhiều chuyện tôi muốn nói với em… Tôi biết cô giáo tôi có nhiều tâm sự, nhất là sau khi chú Tuấn hy sinh ở chiến trường, một mình cô nuôi con, chăm sóc mẹ chồng. - Cô ơi, em gái út chắc là sinh trước năm chú Tuấn hy sinh - Tôi gợi. Cô giáo tôi ngạc nhiên nhìn tôi rồi chợt hiểu ra. - Cô chỉ có hai đứa con trai thôi. Cô bé vừa nãy em gặp là con dâu cô đấy. Vợ thằng Vũ Lâm. Em có còn nhớ nó không? Ngày các em học, nó mới đi mẫu giáo. - Em nhớ ra bé Lâm rồi. Nhanh thật. Bây giờ Lâm cũng gần ba mươi tuổi rồi cô nhỉ? - Ừ, nhanh thật. Mọi chuyện với cánh trẻ bây giờ cứ vùn vụt. Chuyện thằng Lâm nhà cô lấy con Hà My cũng thế. Ngay cái đêm Hà My đăng quang hoa hậu áo dài, thằng Lâm đã say như điếu đổ. Tôi như không tin ở tai mình. - Thưa cô, cô vừa bảo Hà My là hoa hậu áo dài? - Hoa hậu đấy em à. Cô là mẹ chồng của một hoa hậu áo dài. Em thấy có vinh dự không? Để cô kể tiếp cho mà nghe. Sau cái đêm đi xem Hoa hậu đăng quang, thằng Lâm về nói với cô: “Con phải lấy một hoa hậu làm vợ mẹ ạ. Tuyệt lắm. Mẹ có nhớ câu ca: “Một ngày tựa mạn thuyền rồng. Còn hơn chín tháng năm trong thuyền chài”? Cô nói: “Con mơ tưởng điều ấy làm gì? Con nhà giàu có quyền thế mới lấy được hoa hậu con ạ” Nó bảo: “Thế mà con sẽ lấy được hoa hậu. Rồi mẹ xem”. Tưởng chuyện tầm phào ấy rồi cũng qua đi. Ai ngờ thằng Lâm nó cứ ngấm ngầm làm thật. Nó rủ một anh bạn đóng giả phóng viên của một tờ báo để phỏng vấn, chụp ảnh hoa hậu. Đây là bước làm quen đầu tiên. Tiếp đó nó mượn ô tô con của ông cậu làm giám đốc một công ty, đánh xe đến mời người đẹp đi ăn hiệu. Nó khoe đang làm trợ lý cho Giám đốc một công ty của Nhật Bản, một tháng lương năm tờ xanh. Nó mượn máy điện thoại di động đeo xệ một bên sườn, mỗi lần đến thăm người đẹp lại kêu tíu tít rồi để sát tai thì thầm to nhỏ. Trò lừa bịp ấy nào ngờ đã làm người đẹp xiêu lòng. Thế rồi đùng một cái thằng Lâm bảo với cô là nó sẽ cưới hoa hậu. Đó, bây giờ nhà cô đang có một hoa hậu tầm cỡ quốc gia… Câu chuyện của cô giáo Thúy khiến tôi nổi máu tò mò. Và thế là một lần nữa, tôi lại được chiêm ngưỡng người đẹp. Lần này thì lâu hơn. Và quả tình, càng ngắm nàng tôi không thể tìm ra một khiếm khuyết nào. Mới hay, ban giám khảo thật có con mắt tinh đời. Tất nhiên khi được cô giáo Thúy giới thiệu tôi là học trò cũ, hoa hậu Hà My đã tỏ ra tươi tắn và lịch thiệp với tôi một chút. Lẽ ra, khách của mẹ đến nhà chơi. nàng dâu phải đon đả pha trà nước. Nhưng tôi nhận ra cô dâu mới này không quan tâm đến chuyện đó. Cô ngồi trên giường, duỗi đôi chân tuyệt đẹp dọc thành giường và điềm nhiên vừa đọc sách vừa tóp tép ăn một cái gì đó. Có tiếng ho rũ trong buồng, tiếng ho của người già. Cô giáo tôi vội nói: - Em ngồi chờ cô một lát. Cô phải vào xem bà cụ thế nào. Hai hôm nay, cụ bị cảm cúm. Tôi hiểu bà cụ mà cô giáo tôi vừa nói là bà mẹ chồng, một bà mẹ liệt sỹ. Chẵn hai mươi năm, kể từ khi chú Tuấn chồng cô hy sinh, cô đã ở vậy để nuôi dưỡng bà mẹ chồng và hai đứa con trai. Tôi hơi ngạc nhiên nhìn hoa hậu Hà My. Tiếng ho và rên của bà cụ già không hề tác động gì đến cô. Cô vẫn thản nhiên đọc và thản nhiên nhai cái gì đó tóp tép. Tiếng chuông điện thoại bỗng reo vang. Tiếng chuông khiến hoa hậu áo dài như bừng tỉnh, vội lao ngay đến bên máy. - Alô! Ai đấy? A cái Vân phải không? Trời ơi, con ranh. Tao mong mày chảy máu mắt… Vào cầu rồi phải không? A, phải khao nhé. Chiều nay tao đến. Thôi mày không phải đến đây nữa. Bà mẹ chồng khốt của tao cổ hủ lắm. Tao cấm. Ứ ừ. Lão béo ấy thì tao phẩy tay. Á à, láo quá…Con ranh… Cứ thế, hoa hậu áo dài tuôn ra một tràng những mớ từ ngữ lộn xộn khiến tôi không thể đoán được câu chuyện của họ. Kỳ lạ nữa là càng nói qua điện thoại, nàng dâu của cô giáo tôi càng… tự nhiên như ruồi. Cô vừa nói như súng liên thanh, vừa nhai tóp tép, vừa gác một chân lên bàn điện thoại, người ngả hẳn ra sau. Tưởng như không cần đếm xỉa đến sự có mặt của tôi. Tưởng như trước mắt cô, trên bộ ghế ba nan là một cục đất chứ không phải là cậu học trò của cô giáo Thúy năm xưa, một cử nhân đầy tài năng đang tiếp tục hoàn thành tiếp luận án thạc sỹ. Cái dáng ngồi của cô thật hớ hênh và thiếu văn hóa đến mức tôi bỗng đỏ bừng mặt. Ôi, cái váy ngắn lật lên. Và… Tự nhiên tôi có một ý nghĩ buồn: Hoa hậu áo dài đang cố tình xúc phạm tôi hay nàng không có đủ kiến thức về ứng xử và giao tiếp. Chao ôi, cái đẹp bên ngoài dễ chinh phục người ta nhưng nó cũng dễ trở thành lố bịch, vô duyên khi thiếu đi những phẩm hạnh và vẻ đẹp bên trong… Một tràng cười ngặt nghẽo của hoa hậu áo dài xả vào ống nghe điện thoại khiến những ý nghĩ của tôi ngừng bặt. Cũng lúc đó, từ trong buồng, cô giáo Thúy hớt hải chạy ra: - Gay quá rồi. Hoàng ơi, giúp cô việc này nhé. Em ra gọi ngay cho cô một chiếc xích lô. Phải đưa gấp bà cụ đi bệnh viện cấp cứu em ạ. - Vâng, em đi ngay đây! Tôi bật lên như chiếc lò xo, nổ máy chiếc honda 79 tàng, lao vút ra cổng. Mời các bạn đón đọc Nghìn Lẻ Một Nàng Dâu của tác giả Hoàng Minh Tường.