Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trí Não Bất Bại

“Quá đát.” “Gần đất xa trời.” “Xế chiều.” “Hưu trí.” Những ngôn từ này cho thấy một sự ngộ nhận dai dẳng rằng tuổi tác là một trải nghiệm tiêu cực và tuổi già êm đẹp chẳng có gì khác ngoài việc làm chậm tiến trình suy thoái tất yếu của thân và tâm. Thật là sai lầm. Một số tặng phẩm quý giá nhất trong cuộc sống chỉ có thể đến bằng tuổi tác: Sự uyên bác, chẳng hạn, và sự tinh thông biết bao địa hạt kinh nghiệm khác của con người đều đòi hỏi hàng chục năm học hỏi. Tuổi tác là lúc con người đầy ắp những kinh nghiệm tích cực, và tuổi cao niên cũng là lúc để khai thác và thể hiện tiềm năng tích cực lớn lao mà mỗi chúng ta đều có, nhằm tiến hóa, thương yêu và hạnh phúc. Tất nhiên, tuổi tác cũng mang lại những thách thức và tổn thất..." Cuốn sách Trí Não Bất Bại (The Mature Mind) của tiến sĩ Gene D. Cohen là cuốn sách đầu tiên công bố một cách súc tích các khám phá đầy bất ngờ về não bộ và tuổi tác, mang lại tin vui thật sự cho những ai quan tâm đến hoạt động trí não, nhất là những người cao niên. Bằng lối mô tả thật cô đọng và đặc sắc về các thành tựu mới nhất của ngành thần kinh học, cùng với những câu chuyện minh họa lý thú và các ca nghiên cứu điển hình, ông đã giúp độc giả thay đổi hoàn toàn cái nhìn về tuổi tác và trí não, hiểu được bản thân và những người xung quanh, và có thể tự đề ra các chiến lược để hoàn thiện cá nhân. *** Trước tiên, tôi muốn cám ơn sự hỗ trợ và kiên nhẫn đầy ân cần từ gia đình tôi trong thời gian tôi soạn sách này. Thực tế là trong suốt mười tháng này tôi đang hồi phục sau khi bị gãy xương đùi và phải giải phẫu hai lần, điều đó càng khiến cho cho sự ủng hộ của gia đình trở nên bội phần quý giá. Vợ tôi, Wendy Miller, và con gái tôi, Eliana, thật phi thường trong thời gian qua, và con trai tôi, Alex, cùng vợ, Kate, và hai cháu gái của tôi – Ruby và Lucy – cũng là một sự cổ vũ tuyệt vời từ nơi xa, ở Camden, Maine. Tôi cũng muốn cám ơn những lời khuyên, sự trợ giúp và khích lệ vô giá mà Teresa Barker dành cho tôi trong quá trình lên kế hoạch, phác thảo sơ bộ và soạn thảo cuốn sách. Tôi cũng hết sức biết ơn Stephen Braun, người đã cộng tác rất chặt chẽ với tôi để giúp bản thảo cuối cùng đi đến đích, góp phần cực kỳ quan trọng trong việc bản thảo đạt chất lượng và kịp thời hạn. Tôi cũng rất biết ơn Gail Ross, đại diện xuất bản của tôi, người đã nỗ lực để kết nối tôi với Basic Books và tiếp tục hỗ trợ để mọi việc diễn ra suôn sẻ. Và tôi cũng biết ơn rất nhiều với Howard Yoon, người đã làm việc cần mẫn với Gail trong suốt quá trình này. Cảm ơn Jo Ann Miller, biên tập viên sách của tôi tại Basic Books, người đã làm việc chặt chẽ với tôi, luôn luôn nhanh nhẹn và tận tình trả lời các câu hỏi, giải quyết vấn đề và thúc đẩy công việc. Xin gửi lời tri ân sâu sắc đến các nhà bảo trợ những cuộc nghiên cứu chủ chốt tôi mô tả trong sách này. Tổ chức Atlantic Philanthropies (USA) Inc. đã hỗ trợ Nghiên cứu Hưu niên Thế kỷ 21. Cùng với Quỹ Helen Bader, họ cũng hỗ trợ biên soạn và đánh giá danh mục sách thiếu nhi đã chọn (để trẻ em có cái nhìn tích cực về sự lão hóa). Nghiên cứu Tính sáng tạo và Cao niên đã được hỗ trợ bởi sáu nhà bảo trợ, dẫn đầu bởi Quỹ Bảo trợ Nghệ thuật Quốc gia (NEA). Năm nhà bảo trợ kia là Trung tâm Dịch vụ Sức khỏe Tâm thần thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Hoa Kỳ, Viện Sức khỏe Tâm thần tại Viện Y tế Quốc gia, AARP, Quỹ Stella và Charles Guttman và Quỹ Nghiên cứu Âm nhạc Quốc tế. Về cuộc nghiên cứu này, xin đặc biệt cám ơn Paula Terry, cán bộ dự án tại NEA. Sau khi cuốn sách Thời sáng tạo của tôi ra đời, Paula, người đứng đầu Văn phòng Chương trình Tiếp cận và điều phối các dự án về lão hóa tại Quỹ Bảo trợ Nghệ thuật Quốc gia, đã đọc và quan tâm đến phần tóm tắt của cuộc nghiên cứu về tác động của sự biểu đạt sáng tạo đối với sức khỏe ở tuổi cao niên. Quỹ bảo trợ này từ lâu đã cam kết đưa toàn bộ các loại hình nghệ thuật đến với những người không đủ điều kiện tiếp cận, gồm cả người lớn tuổi. Nhận thấy phần dữ liệu ít ỏi ấy đã đề cập đến tác động của các chương trình nghệ thuật chuyên nghiệp đối với người lớn tuổi, Paula đã khuyến khích tôi soạn định hướng cho một cuộc nghiên cứu và nộp đề xuất cho Quỹ. Tôi cũng xin cám ơn Quỹ Small-Alper Family đã đóng góp cho quá trình biên soạn cuốn sách này. Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ sự tri ân đặc biệt với các đồng nghiệp của tôi tại ba địa bàn nghiên cứu trong Nghiên cứu Tính sáng tạo và Cao niên mà tôi đã dẫn dắt. Jeanne Kelly, thuộc Trường Âm nhạc Levine, giữ vai trò giám đốc nghệ thuật khu vực Washington, D.C., một phần của cuộc nghiên cứu. Jeff Chapline, người đứng đầu Trung tâm Cao niên và Thanh niên trong Nghệ thuật (CEYA), chỉ đạo khu vực San Francisco. Susan Perlstein, người đứng đầu tổ chức Người cao niên Chia sẻ Nghệ thuật (ESTA), chỉ đạo khu vực Brooklyn và chia sẻ các phát hiện quan trọng của Nghiên cứu về Tính sáng tạo và Cao niên với Trung tâm Quốc gia về Cao niên Sáng tạo (NCCA), mà bà cũng là người lãnh đạo, để thúc đẩy việc đưa các kết quả nghiên cứu vào ứng dụng thực tiễn trong các chương trình nghệ thuật cộng đồng trên cả nước. Làm việc với những đồng nghiệp tuyệt vời này giống như được đứng trong một đội hình lý tưởng. *** Trở ngại lớn nhất đối với hành trình khám phá không phải là sự dốt nát – mà là ảo tưởng về sự hiểu biết. • Daniel J. Boorstin “Quá đát.” “Gần đất xa trời.” “Xế chiều.” “Hưu trí.” Những ngôn từ này cho thấy một sự ngộ nhận dai dẳng rằng tuổi tác là một trải nghiệm tiêu cực và tuổi già êm đẹp chẳng có gì khác ngoài việc làm chậm tiến trình suy thoái tất yếu của thân và tâm. Thật là sai lầm. Một số tặng phẩm quý giá nhất trong cuộc sống chỉ có thể đến bằng tuổi tác: Sự uyên bác, chẳng hạn, và sự tinh thông biết bao địa hạt kinh nghiệm khác của con người đều đòi hỏi hàng chục năm học hỏi. Tuổi tác là lúc con người đầy ắp những kinh nghiệm tích cực, và tuổi cao niên cũng là lúc để khai thác và thể hiện tiềm năng tích cực lớn lao mà mỗi chúng ta đều có, nhằm tiến hóa, thương yêu và hạnh phúc. Tất nhiên, tuổi tác cũng mang lại những thách thức và tổn thất. Nữ diễn viên Bette Davis từng có câu châm biếm nổi tiếng, “Tuổi tác không dành cho những ai yếu đuối”. Mắt có thể mờ, tai có thể ngễnh ngãng, bạn bè có thể lìa trần hoặc không thể đi lại. Tất cả những điều này đều là sự thật, nhưng không phải toàn bộ sự thật. Từ xưa đến nay, khoa học và văn hóa trong xã hội phương Tây tập trung hoàn toàn vào những mặt tiêu cực của sự lão hóa và phớt lờ mặt tích cực. Đã đến lúc phải có một mô hình tốt đẹp hơn, đích thực hơn và giàu cảm hứng hơn – không phải một nhãn quan màu hồng, mọi thứ đều tuyệt vời, mà một cái nhìn chân thực để ghi nhận thực tế khó khăn của tuổi tác đồng thời tôn vinh những lợi ích, niềm vui và thành quả nó mang lại. Với cuốn sách này, tôi muốn phá vỡ ảo tưởng “kiến thức” về lão hóa dựa trên lý luận sai lầm, thiếu nghiên cứu và định kiến về bệnh tật và bệnh lý. Quan điểm tích cực của tôi về quá trình lão hóa xuất phát từ kết quả tiên tiến trong nghiên cứu khoa học cũng như kinh nghiệm của riêng tôi trong vai trò bác sĩ tâm thần, với hơn 35 năm điều trị cho những người cao niên và gia đình của họ. Các kết quả nghiên cứu mới nhất rất đáng khích lệ và quan trọng. Việc chối bỏ hoặc xem thường tiềm năng tích cực của quá trình lão hóa sẽ khiến người ta không nhận thức được trọn vẹn tài năng, trí tuệ và cảm xúc của chính mình. Khi ta kỳ vọng tuổi tác sẽ đến cùng với một sự tiến hóa, sự tiến hóa ấy sẽ được vun đắp. Chúng ta vẫn còn một chặng đường dài để làm chuyển biến nhận thức này, nhưng tôi hy vọng cuốn sách này sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để tạo nên sự thay đổi theo chiều hướng đó. Khoa học mới, những chân trời mới Một số nghiên cứu thú vị nhất hậu thuẫn cho quan niệm tích cực về lão hóa được lấy từ các nghiên cứu gần đây về não bộ và trí tuệ. Phần lớn các nghiên cứu lão hóa được tiến hành trong thế kỷ 20 đều nhấn mạnh việc cải thiện sức khỏe cho cơ thể lão hóa. Kết quả là tuổi thọ và sức khỏe tổng thể được cải thiện đáng kể trong thực tế. Nghiên cứu lão hóa vào đầu thế kỷ 21, ngược lại, đã diễn ra với trọng tâm nhấn mạnh rõ nét vào việc cải thiện sức khỏe tinh thần. Hàng chục kết quả nghiên cứu mới đã làm đảo lộn quan niệm cho rằng não cao tuổi không còn sức tiếp thu. Kết quả chỉ ra rằng não cao tuổi không những tiếp thu tốt mà thật ra, đối với nhiều công việc trí óc, còn tốt hơn cả não bộ trẻ tuổi. Thông tin trọng đại ở đây là não bộ linh hoạt hơn và thích ứng hơn rất nhiều so với những gì mọi người từng nghĩ. Não không những giữ nguyên khả năng tạo ký ức mới, vốn đòi hỏi khởi tạo các kết nối mới giữa các tế bào não, mà còn sinh ra những tế bào não hoàn toàn mới – một phát hiện choáng váng và đầy hứa hẹn. Chúng ta cũng biết được rằng não bộ lớn tuổi có thể xử lý thông tin một cách rất khác so với não bộ trẻ tuổi. Những người lớn tuổi có thể sử dụng cả hai bán cầu não để làm việc trong khi những người trẻ tuổi chỉ sử dụng một bên. Nhiều công trình khoa học cũng khẳng định cơ chế “càng dùng càng tốt”: Trí óc phát triển mạnh mẽ hơn khi bị thách thức, hệt như cơ bắp được luyện tập thì cường tráng. Nhưng não bộ không phải là bộ phận duy nhất có tiềm năng lớn lao hơn ta tưởng. Tính cách, tính sáng tạo và “các thể” tâm lý của ta vẫn tiếp tục phát triển suốt đời. Điều này giờ đây nghe thật hiển nhiên, nhưng suốt nhiều thập kỷ các nhà khoa học nghiên cứu hành vi con người đã không đồng tình quan điểm này. Thật ra, trước cuối thế kỷ 20, người ta không mấy chú ý đến sự phát triển tâm lý trong nửa sau cuộc đời, và mỗi khi quan tâm, họ thường rút ra những kết luận sai lầm. Ví dụ, Sigmund Freud, người có ảnh hưởng lớn đến lý thuyết tâm lý học, đã nói thế này về người cao niên: “Vào khoảng 50 tuổi, như một quy luật, các tiến trình trí não thiếu độ đàn hồi, vốn là nền tảng của trị liệu. Người già không còn đào luyện được nữa”. Trớ trêu thay, Freud khẳng định điều này vào năm 1907, khi ông 51 tuổi, và một số tác phẩm vĩ đại nhất của ông đã được viết sau tuổi 65. Chưa hết, Oedipus Rex của Sophocles, kiệt tác mà Freud dựa vào để hình thành lý thuyết phân tâm học tiên phong của mình, được viết khi kịch tác gia Hy Lạp này 71 tuổi. Freud không phải là người tiên phong duy nhất nói sai về lão hóa. Jean Piaget, người đã có công lớn giúp chúng ta hiểu về sự phát triển nhận thức, đã kết thúc phần mô tả của ông về quá trình phát triển trí tuệ bằng khái niệm ông gọi là “thao tác hình thức”, loại tư duy trừu tượng vốn trưởng thành trong những năm niên thiếu. Theo Piaget, sự phát triển này dừng lại vào đầu độ tuổi trưởng thành và sau đó bắt đầu một tiến trình suy thoái chậm. Ngay cả nhà tâm lý học phát triển vĩ đại Erik Erikson, một trong những vị thầy dạy tôi tại Đại học Harvard, cũng chú ý rất ít đến sự phát triển ở tuổi cao niên. Erikson vạch ra tám giai đoạn phát triển tâm lý và định nghĩa mỗi giai đoạn như một vấn đề, hoặc xung đột, phải giải quyết. Thế nhưng chỉ duy nhất một giai đoạn của ông đề cập đến sự phát triển sau tuổi trưởng thành – được gọi là “thời kỳ trưởng thành,” kéo dài đến 50 năm! Tác phẩm kinh điển của ông mang tên “Bản thể và chu trình sống” đề cập chỉ một trang cho mỗi giai đoạn trong hai giai đoạn cuối của đời người. Erikson được ghi nhận là một trong những nhà tư tưởng có uy tín đầu tiên khẳng định rằng có một dạng phát triển tâm lý diễn ra trong suốt cuộc đời. Ông thừa nhận công trình của mình về lão hóa là không đầy đủ, và đã mời gọi các sinh viên tiếp tục đi vào lĩnh vực này. Cuốn sách này một phần cũng là sự đáp lại của tôi đối với lời kêu gọi Erikson nêu ra cách đây mấy thập kỷ. Bốn giai đoạn Trong cuốn sách này, tôi trình bày một kiến giải mới về sự phát triển tâm lý ở nửa sau của đời người. Quan điểm mới này giải thích nhiều điều về tuổi cao niên, và cơ bản là tư tưởng cấp tiến và lạc quan về tiềm năng con người có thể phát triển, sáng tạo và viên mãn về cảm xúc trong suốt cuộc đời. Dựa trên các nghiên cứu với hơn 3.000 người lớn tuổi, các cuộc phỏng vấn chuyên sâu và câu hỏi khảo sát được tiến hành nhiều lần trong nhiều năm, tôi đã xác định được bốn giai đoạn phát triển ở tuổi cao niên: tái đánh giá ở tuổi trung niên, khai phóng, đúc kết và encore [vẫn tiếp diễn]. Con người bước vào và đi qua những giai đoạn này bởi tác động của những động lực, ham muốn và sự thôi thúc trồi sụt trong suốt cuộc đời. Tôi gọi những động lực này là “Động lực Nội tại” và đã chứng kiến ​​nó ở hàng ngàn đối tượng lớn tuổi tham gia các dự án nghiên cứu và lâm sàng của tôi. Động lực Nội tại là nhiên liệu thúc đẩy sự phát triển; nó vận hành phối hợp với những biến đổi trong não bộ cao tuổi mà tôi khảo sát trong chương 1. Tôi quan niệm các giai đoạn này linh hoạt và năng động hơn so với quan niệm của Erikson vì tôi nhận ra rằng khi lớn tuổi, mọi người rất khác nhau về mọi mặt, và không một hệ thống cứng nhắc nào chính xác cho tất cả. Các giai đoạn tôi đưa ra là có thật – tôi đã nhìn thấy chúng hiển lộ – nhưng mọi người trải nghiệm chúng theo những cách khác nhau và đôi khi theo một trình tự hơi khác với những gì tôi trình bày. Giai đoạn đầu tiên, tái đánh giá ở tuổi trung niên, là thời điểm thăm dò và chuyển tiếp. Đây hoàn toàn không phải “khủng hoảng tuổi trung niên” – khái niệm mà nghiên cứu hiện nay cho thấy đã bị thổi phồng và phần lớn chỉ là một sự ngộ nhận trong văn hóa. Chỉ 10% những người tôi phỏng vấn cho biết họ gặp khủng hoảng tuổi trung niên. Thay vào đó, tôi thấy trong giai đoạn này, từ khoảng 40 đến 65 tuổi, người ta trải qua một cuộc tái đánh giá sâu sắc, và thường tự vấn: Lâu nay tôi đang ở đâu? Giờ tôi đang ở đâu? Tôi sẽ đi về đâu? Với hầu hết mọi người, giai đoạn này không phải một cuộc khủng hoảng mà là một cuộc tìm kiếm – ước muốn tìm được lãnh địa mới, giải đáp được những câu hỏi sâu xa và tìm kiếm những gì xác thực và mang ý nghĩa trong cuộc sống. Tiếp theo giai đoạn tái đánh giá ở tuổi trung niên là giai đoạn mà tôi gọi là khai phóng: Giai đoạn ta cảm thấy muốn thử nghiệm, đổi mới và giải thoát bản thân khỏi những sự kiềm tỏa hoặc bó buộc trước đó. Mong ước này thường chồng lấp với thời điểm tái đánh giá ở tuổi trung niên và sau đó tiếp diễn mạnh mẽ suốt từ cuối độ tuổi 50 và 60 sang đến 70. Trong thời gian này, não bộ chúng ta trải qua những biến đổi sinh lý quan trọng, trong đó có việc sinh sôi các kết nối mới giữa các tế bào não và vận dụng cân bằng hơn hai bán cầu não. Đây là lúc người ta thường nảy sinh ý niệm: “Nếu không phải lúc này thì lúc nào?”. Giai đoạn đúc kết, từ độ tuổi cuối 60 sang 70 và 80, là thời kỳ tổng kết, giải quyết, và đánh giá. Một trong những thành quả chung của giai đoạn tự đúc kết này là ước muốn đáp trả – cho gia đình, bạn bè và xã hội. Hoạt động tình nguyện và tham gia từ thiện, vốn thịnh hành ở những người cao niên và kéo dài cho đến độ tuổi 80, là hai biểu hiện có thể thấy của giai đoạn này. Đối với giai đoạn cuối, tôi dùng từ “encore”, mượn từ tiếng Pháp, để diễn tả nghĩa “một lần nữa”, “vẫn” và “tiếp tục”. Giai đoạn này không phải là vũ điệu bế mạc, mà là ước muốn dấn bước, bất chấp nghịch cảnh hoặc mất mát. Nhu cầu duy trì sức sống này có thể dẫn đến những biểu hiện mới về sáng tạo và hoạt động xã hội, khiến cho thời kỳ này đầy rẫy bất ngờ. Khi mọi người hiểu được các giai đoạn này của nửa đời về sau và cơ chế hoạt động của chúng, tôi thấy họ trở nên tràn đầy động lực và nhiệt huyết. Khi thoát khỏi những ảo tưởng quá tiêu cực về tuổi tác, người ta thường được khích động bởi nhiệt huyết mới, hướng đi mới hoặc mục đích mới. Trí thông minh tiến hóa Trong sách này, tôi giới thiệu một khái niệm mới, trí thông minh tiến hóa, mà tôi cho là lợi ích lớn nhất của não bộ/trí óc cao niên. Trí thông minh tiến hóa là mức độ biểu hiện của mỗi người về năng lực thần kinh, cảm xúc, trí tuệ và tâm lý độc nhất của mình. Nó cũng là tiến trình mà những yếu tố này được hợp nhất tối ưu trong não bộ trưởng thành. Cụ thể hơn, trí thông minh tiến hóa phản ánh sức mạnh tổng hợp thành thục của nhận thức, trí tuệ cảm xúc, sự phán đoán, kỹ năng xã hội, kinh nghiệm sống và ý thức. Tất cả chúng ta đều thông minh về mặt tiến hóa ở một mức độ nào đó và, cũng như với trí tuệ, chúng ta có thể chủ động thúc đẩy sự tăng trưởng của nó. Khi ta trưởng thành, trí thông minh tiến hóa được thể hiện dưới dạng sự uyên bác, óc đánh giá, quan điểm và tầm nhìn. Trí thông minh tiến hóa cao cấp được chia làm ba dạng tư duy và lý luận đặc trưng, và hình thành muộn hơn giai đoạn “thao tác hình thức” của Piaget[1] nên được gọi là “thao tác hậu hình thức” (postformal operations): Tư duy tương đối (nhận thức rằng kiến thức có thể là tương đối chứ không tuyệt đối); tư duy biện chứng (khả năng phát hiện và luận giải sự mâu thuẫn của những quan điểm đối nghịch và dường như không thể tương thích); và tư duy hệ thống (có khả năng nhìn thấy bức tranh bao quát hơn, phân biệt được giữa rừng và cây). Ba dạng tư duy này “cao cấp” theo nghĩa rằng chúng không tự nhiên có được ở tuổi trẻ; chúng ta thích câu trả lời của mình phải đen hoặc trắng, đúng hay sai. Và chúng ta thường thích có câu trả lời bất kỳ hơn không có gì cả. Phải mất thời gian, kinh nghiệm và nỗ lực để có được lối tư duy linh hoạt và tinh tế hơn. Khả năng chấp nhận sự bất định, thừa nhận rằng những câu trả lời thường mang tính tương đối, và gác lại phán xét để đánh giá cẩn thận các luận điểm đối nghịch là một chỉ dấu đích thực của trí thông minh tiến hóa. Trong cuốn sách này, tôi sẽ chỉ cho bạn cách trau dồi trí thông minh tiến hóa để từ đó gặt hái thành quả. Hai nghiên cứu mới Tôi có hân hạnh dẫn dắt hai cuộc nghiên cứu đột phá về tuổi cao niên kể từ năm 2000; một xem xét diện mạo mới của giai đoạn hưu niên và một xét đến những lợi ích tích cực của sự sáng tạo ở người lớn tuổi. Cả hai cuộc nghiên cứu đã mang lại những kết quả bất ngờ – và đáng khích lệ. Nghiên cứu về hưu niên của tôi cho thấy từ “nghỉ hưu” lỗi thời ra sao. Với hầu hết mọi người hiện nay, độ tuổi sau 65 hoàn toàn không phải để “nghỉ ngơi”. Chẳng phải mọi người đều không chịu nghỉ ngơi và tận hưởng cho bản thân, nhưng hầu hết những người tôi phỏng vấn đều xem đoạn đời này như cơ hội lớn để theo đuổi các hoạt động và sở thích mà trước đây họ không có thời gian. Rất khác với tinh thần thoát ly khỏi đời sống xã hội và và văn hóa (như đã được mặc nhiên công nhận bởi các nghiên cứu có uy tín trước đây), thời “hưu niên” giờ đây lại dẫn đến sự tham gia sâu rộng hơn, những mối quan hệ tâm đắc hơn, sự mở mang thêm về trí tuệ, và nhiều niềm vui hơn. Cuộc nghiên cứu kia của tôi khảo sát những tác động về tinh thần, thể chất và cảm xúc khi tham gia một chương trình nghệ thuật cộng đồng. Một lần nữa, tôi và các đồng nghiệp đã có những khám phá bất ngờ. Trái ngược với ngộ nhận của xã hội, sự sáng tạo chẳng phải là độc quyền của tuổi trẻ. Nó có thể bừng nở ở bất kỳ lứa tuổi nào – và thực tế, nó có thể nảy nở sâu sắc và phong phú hơn ở người lớn tuổi vì họ được bồi đắp bởi kho tàng kiến ​​thức và kinh nghiệm rộng lớn. Như tôi sẽ giải thích sau, việc tham gia bất kỳ chương trình nghệ thuật nào, gồm cả nghệ thuật phi thị giác như âm nhạc, múa và sân khấu, đều có thể cải thiện sức khỏe, quan điểm và khả năng hồi phục của bạn. Hai nghiên cứu này hàm chứa những ẩn ý quan trọng, cho các cá nhân và cả những người chịu trách nhiệm hỗ trợ sức khỏe và phúc lợi cho người cao tuổi. Kết quả từ nghiên cứu về tính sáng tạo của chúng tôi, chẳng hạn, là hết sức quý giá với các giám đốc chương trình tại các trung tâm người cao niên. Tương tự, kết quả từ nghiên cứu về hưu niên – rằng nhiều người lớn tuổi đang tìm công việc bán thời gian, sẽ là thông tin đáng quan tâm với giám đốc nhân sự trong các công ty và tổ chức phi lợi nhuận. Khi trình bày các kết quả nghiên cứu, tôi hy vọng sẽ đưa ra được một định hướng giúp cải thiện sự hỗ trợ của xã hội và mang đến cơ hội học tập cho tất cả những người lớn tuổi. Niềm hy vọng của tôi Năm 1971, khi tôi bước vào lão khoa, đó là một lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới, còn thiếu thốn và chập chững với các định kiến ​​và quan niệm sai lạc. Cách đây chưa lâu, vào những năm 1960 và 1970, nhiều chuyên gia vẫn coi tuổi già là căn bệnh: Họ tin rằng tâm và thân tự khắc sẽ trục trặc, như một chiếc xe sau nhiều năm sử dụng. Đến giữa những năm 1970, các quan điểm này bắt đầu thay đổi bởi ngày càng có nhiều bằng chứng thực tế về lão hóa và dân số lớn tuổi bắt đầu tăng vọt. Chính phủ liên bang bắt đầu chi hàng triệu đô-la cho nghiên cứu mới thông qua hai chương trình lớn: Viện Quốc gia về Lão hóa và Trung tâm Nghiên cứu Sức khỏe Tâm thần Cao niên, mà với cuộc nghiên cứu sau, tôi đã may mắn là giám đốc đầu tiên. Các nhà nghiên cứu bắt đầu hiểu rằng bản thân lão hóa không phải là một bệnh; nó chỉ đơn thuần là một quãng đời mà nhiều bệnh bỗng bộc lộ – những cái gọi là các vấn đề liên quan đến tuổi tác. Trọng tâm mới này đã thúc đẩy lĩnh vực lão khoa và cho một cái nhìn cân bằng hơn về tuổi già. Các nhà nghiên cứu thấy những người lớn tuổi khỏe mạnh vẫn duy trì năng lực tinh thần và cảm xúc mạnh mẽ và thường chỉ suy giảm dần dần về thể lực. Hơn 30 năm sau đó, mức tài trợ cho nghiên cứu về lão hóa đã tăng từ 50 triệu đô-la một năm lên hơn 1 tỉ đô-la hiện nay. Tuy nhiên, bất chấp quỹ thời gian và tài chính dồi dào, các nghiên cứu thường vẫn tập trung vào các vấn đề của tuổi già. Ngay cả cuốn sách quan trọng gần đây, Tuổi cao niên viên mãn (Successful Aging), của John Rowe và Robert Kahn, cũng trình bày mục tiêu nhằm giảm thiểu suy thoái chứ không nhìn nhận tiềm năng to lớn để phát triển tích cực ở nửa đời về sau. Mặc dù Rowe và Kahn đã đúng khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì sức khỏe, chức năng tâm thần, và sự tham gia tích cực trong đời sống, họ không trình bày khả năng cải thiện những khía cạnh này theo tuổi tác. Cuốn sách này trình bày một mô hình mới của tiến trình lão hóa, một mô hình mà tôi hy vọng rốt cục sẽ thay thế những quan niệm và giả định tiêu cực hiện nay. Mô hình này nhìn nhận tiềm năng, bên cạnh các vấn đề liên quan đến lão hóa. Nó định vị lại tiến trình lão hóa như một chuỗi giai đoạn phát triển để thật sự thúc đẩy sự tiến hóa, ngược với quan niệm lão hóa là một sự suy thoái tất yếu. Cuốn sách này cho thấy ta có thể nâng đỡ và trau dồi năng lực sẵn có của mình ra sao để thay đổi tích cực. Tôi thật lòng hy vọng nó sẽ thúc đẩy sự đối thoại về chủ đề này bằng cách truyền đi thông điệp đầy hứa hẹn về các giá trị và năng lực của trí não cao niên. Mời các bạn đón đọc Trí Não Bất Bại của tác giả Gene D. Cohen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngôn Ngữ và Ý Thức
Đây là bản in lần thứ ba được chờ đợi từ lâu về tuyển tập các bài viết của Chomsky về ngôn ngữ và ý thức. Sáu chương đầu, được công bố vào những năm 1960, tạo nền tảng cho lí thuyết ngôn ngữ. Lần in mới này bổ sung vào một chương nữa và một lời tựa mới, đưa cách tiếp cận có ảnh hưởng của Chomsky vào thế kỷ mới. Chương 1 - 6 trình bày công trình của Chomsky về bản chất và thụ đắc ngôn ngữ như là một hệ thống sinh học được thiên phú về di truyền (ngữ pháp phổ niệm), thông qua các quy tắc và nguyên tắc của nó chúng ta thụ đắc kiến thức nội hiện (I-language). Hơn 50 năm qua, khung lí thuyết này đã châm ngòi cho sự bùng nổ và nghiên cứu trong một phạm vị rộng lớn các ngôn ngữ, và đã thu được những vấn đề lí thuyết quan trọng. Chương cuối cùng trở lại những vấn đề chủ chốt, tổng quan lại cách tiếp cận "ngôn ngữ học sinh học" đã dẫn đường cho công trình của Chomsky từ những khởi nguồn của nó cho đến nay, đưa ra một số thách thức mới gây phấn khích cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức. NOAM CHOMSKY là Giáo sư Ngôn ngữ học ở Viện Công nghệ Massachusetts. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách : Những chân trời mới trong nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức (New Horizons in the Studies of Language and Minds) (Cambridge University Press, 2000) và Về tự nhiên và ngôn ngữ (On Nature and Language) (Cambridge University Press, 2002).   Noam Chomsky được The New York Times bình chọn là tri thức gia quan trọng nhất hiện đang còn sống. Ông đã mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới về ngôn ngữ và theo ông, ngôn ngữ chính là một chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa đi tới bản chất con người. Ông không chỉ là một nhà ngôn ngữ học mà còn là một nhà phê bình chính trị, sử gia, triết gia đồng thời dấn thân vào hoạt động xã hội một cách chừng mực. Bài phỏng vấn dưới đây được thực hiện bởi Wiktor Osiatynski vào năm 1984 về chủ đề Ngôn ngữ và Văn hóa. BookHunter xin giới thiệu với bạn đọc để chúng ta hiểu rõ thêm góc nhìn của Noam Chomsky về bản chất con người thông qua ngôn ngữ học.   *** Hỏi:  Ngài đưa ra một cách tiếp cận nhân học đối với ngôn ngữ.  Ngài cho rằng ngôn ngữ có thể góp phần giải mã các vẫn đề mang tính triết học trong tự nhiên lẫn văn hóa của nhân loại? Chomsky: Tôi cảm thấy là sự tồn tại của loài người hay bất kỳ sinh vật phức tạp nào đều có một hệ thống các cấu trúc nhận thức, thứ phát triển theo theo sự phát triển về mặt thể chất. Nó thuộc về đặc điểm cơ bản  bẩm sinh của chúng; hình thái sơ khai này được định hình bằng cấu trúc gen di truyền. Tất nhiên, chúng phát triển dưới những điều kiện môi trường riêng biệt, giả sử như một hình thái đặc trưng nhường chỗ cho một vài sự thay đổi. Phần lớn cái phân biệt giữa loài người với nhau là cách cư xử riêng rẽ mà trong đó phát triển hàng loạt các cấu trúc nhận thức được chia sẻ. Có lẽ phần rắc rối nhất trong những cấu trúc này là ngôn ngữ. Trong nghiên cứu ngôn ngữ, chúng ta có thể khám phá ra rất nhiều thuộc tính cơ bản của cấu trúc nhận thức này, cơ cấu tổ chức, và cả các tố bẩm di truyền – nền tảng cho sự phát triển của nó. Vậy nên về điểm này, ngôn ngữ học, trước nhất, đang cố gắng mô tả nét đặc trưng chính trong tổ chức nhận thức của con người. Và điều thứ hai, tôi nghĩ nó có thể cung cấp một hình mẫu có tính gợi ý cho việc nghiên cứu các hệ thống nhận thức khác. Đồng thời ghi nhập những hệ thống này là một khía cạnh tự nhiên của con người. Hỏi: Ngôn ngữ, sau đó, là chìa khóa cho bản chất của loài người? Chomsky: Tư tưởng khoa học phương Tây từ vài thế kỷ trước cho đến giờ có khuynh hướng giả sử rằng bản chất tự nhiên của con người bị giới hạn ở cấu trúc vật lý có thể nhìn thấy ngay tức thì của cơ thể. Và  đối với những khía cạnh khác của bản chất con người, cụ thể là cử chỉ, lại không hề có các cấu trúc được xác định nhờ di truyền nào có thể so sánh được về bản chất phức tạp với các tổ chức vật lý có thể nhìn thấy được trực tiếp bên trong cơ thể. Vì vậy, cấu trúc vật lý của con người và cấu trúc trí năng nói chung được nghiên cứu theo những phương pháp khác nhau. Gỉa định rằng các cấu trúc vật lý đó được di truyền và các cấu trúc trí năng được học. Tôi cho rằng giả định đó không chính xác. Không cấu trúc nào trong số đó học được cả. Tất cả chúng phát triển; chúng phát triển theo cách so sánh; các hình thái sau chót của chúng phụ thuộc nhiều vào các tố bẩm sinh di truyền. Nếu chúng ta hiểu được, nhưng chúng ta không làm được vậy, cơ sở vật chất của những cấu trúc này, tôi có hơi ngờ vực rằng chúng ta hẳn sẽ tìm thấy trong não bộ các cấu trúc tương tác xã hội, ngôn ngữ hoặc phân tích độc lập – sự nguyên vẹn của các hệ thống đã phát triển dựa trên nền tảng của một khả năng sinh học đặc biệt. Hỏi: Ý ngài là toàn bộ hành vi của chúng ta đều do bẩm sinh mà có, được xác định bằng di truyền? Chomsky: Không, nhưng các cấu trúc cơ bản cấu thành lên hành vi của chúng ta là bẩm sinh. Những chi tiết đặc trưng trong cách chúng phát triển sẽ phụ thuộc vào tương tác với môi trường. Hỏi: Giả sử ngôn ngữ học có thể mô tả một cấu trúc như vậy, liệu có thể áp dụng những điều khám phá được cho toàn bộ các hoạt động trí não của chúng ta? Chúng ta chỉ suy nghĩ trong ngôn ngữ? Hay cũng tồn tại những thể thức phi ngôn ngữ của suy nghĩ? Chomsky: Việc phân tích các cấu trúc ngôn ngữ có thể giúp hiểu về các cấu trúc trí năng khác. Hiện nay, tôi không nghĩ có bất cứ bằng chứng khoa học nào cho câu hỏi rằng chúng ta chỉ suy nghĩ thông qua ngôn ngữ hay không. Tuy nhiên, tự xem xét từ bản thân thì cũng đã chỉ ra khá rõ ràng rằng chúng ta không cần thiết suy nghĩ thông qua ngôn ngữ. Chúng ta cũng có thể suy nghĩ qua các hình ảnh nhìn thấy được, chúng ta suy nghĩ trong các tình huống cũng như các sự kiện, và nhiều nữa, nhiều trường hợp chúng ta không thể thể hiện được bằng từ ngữ cái chúng ta đang nghĩ trong đầu. Cho dù là chúng ta có khả năng thể hiện nó bằng từ ngữ, người ta nói về thứ gì đó theo thói quen thường thấy và sau đó nhận ra rằng nó không diễn đạt được ý của mình, nó là một cái gì đó khác. Điều này có nghĩa là gì? Là có một dạng suy nghĩ phi ngôn ngữ đang diễn ra mà ở đó chúng ta cố trình bày bằng ngôn ngữ, để rồi đôi lúc chúng ta biết mình thất bại. Hỏi: Tôi đã có lần đọc được là chúng ta suy nghĩ bằng ngôn ngữ nhưng lại “cảm thấy” nó phi ngôn ngữ. Chomsky: Tôi biết điều đó không đúng với bản thân tôi, ít nhất nếu “ngôn ngữ” (trong trường hợp của tôi) quy vào tiếng Anh, và tôi giả sử rằng nó sai đối với những người khác. Tôi không nghĩ bạn sẽ gặp khó khăn gì để quyết định rằng bạn đang nghĩ về vài sự kiện rồi sau đó mường tượng nó xảy ra kèm với các hệ quả, và  phân tích sáng suốt mà không thể phát biểu thành lời thật đầy đủ sự phức tạp của nó. Hỏi: Ngài dùng cụm “phân tích sáng suốt.” Ngài tin rằng tất cả suy nghĩ của chúng ta đều sáng suốt và tuyến tính? Chomsky: Tôi không nghĩ tất cả suy tư đều là một dạng cấu trúc sáng suốt. Nhưng tôi cũng không cho rằng nó đúng để định hình sự  phân định sáng suốt – không sáng suốt với phân định ngôn ngữ – phi ngôn ngữ. Hỏi: Vậy ngôn ngữ có thể không sáng suốt? Chomsky: Đúng thế; vì vậy đó là hai chiều không tương quan với nhau. Đúng là ngôn ngữ ở trong một tuyến tính ý thức tuy nhiên điều đó cũng rõ ràng như không gian nhận thức là ba chiều. Hỏi: Như tôi hiểu thì ngôn ngữ có một nền tảng sinh học bẩm sinh. Công dụng của nó, tất nhiên, là tính xã hội. Ngài nghĩ các chức năng xã hội của ngôn ngữ là gì? Trước nhất có phải là phương tiện giao tiếp? Chomsky: Tôi nghĩ một khía cạnh rất quan trọng mà ngôn ngữ phải làm được là thiết lập các mối quan hệ xã hội và tương tác. Thường thì điều này được miêu tả như là giao tiếp. Nhưng tôi nghĩ, như thế rất sai lầm. Có một tầng hẹp của việc sử dụng ngôn ngữ  mà ở đó bạn dự định giao tiếp. Sự giao tiếp dẫn đến cố gắng đưa người ta vào cùng một ý hiểu giống nhau. Và điều đó, chắc chắn, là một cách sử dụng ngôn ngữ đang được dùng trong xã hội. Tuy vậy, tôi không nghĩ chỉ có xã hội sử dụng ngôn ngữ. Cũng như ngôn ngữ chỉ được dùng có vậy trong xã hội. Ví dụ, ngôn ngữ có thể dùng để bộc lộ hoặc tường minh những suy nghĩ của một người ít quan tâm đến xã hội, nếu có. Tôi nghĩ sử dụng ngôn ngữ bằng cách nào đó mang ý nghĩa rất quan trọng với các loài, bởi thiên tính sinh học của nó, tạo ra một loại không gian xã hội, để đặt chính nó vào những mối tương tác với những người khác. Nó không có tác dụng với sự giao tiếp ở trong một cảm quan chật hẹp; đó là, nó không tham gia vào sự truyền giao thông tin. Có nhiều thông tin được truyền giao nhưng lại không phải là truyền giao nội dung được nhắc tới. Rõ ràng không phải tranh cãi nhiều để biết về những cách sử dụng ngôn ngữ trong xã hội, để giao tiếp hoặc cho những mục đích khác. Nhưng ở hiện tại, không có gì nhiều trong cách nghiên cứu một giả thiết ngôn ngữ học, về giao sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội, theo như tôi biết. Hỏi: Điều gì, sau đó, trong lĩnh vực ngôn ngữ học, là thành tựu vĩ đại nhất? Chomsky: Tôi nghĩ công việc quan trọng nhất vẫn đang tiến hành là nghiên cứu các đặc trưng chung cũng như trừu tượng về cái mà đôi lúc được gọi là ngữ pháp phổ quát: những đặc tính chung của ngôn ngữ phản ánh một dạng nhu cầu sinh học hơn là nhu cầu logic; có nghĩa rằng, các đặc tính đó không cần thiết logic khi đặt trong một hệ thống nhưng ngôn ngữ của loài người lại cần phải có các đặc tính bất biến và được biết đến mà không cần đến sự học. Chúng ta biết những đặc tính này nhưng chúng ta không học chúng. Chúng ta chỉ đơn giản là dùng tri thức tự có của bản thân làm nền tảng cho sự học. Hỏi: Chúng ta di truyền tri thức này? Chomsky: Đúng, chúng ta được di truyền. Thực tế, thông qua ngữ pháp phổ quát, tôi có ý rằng hệ thống các quy tắc và cấu trúc là những điều kiện tiên quyết cho sự tiếp thu của ngôn ngữ, và để mọi ngôn ngữ nhất thiết đều tương thích. Hỏi: Thế có nghĩa là nền tảng di truyền của ngôn ngữ là phổ quát? Chomsky: Đúng thế. Nhưng chúng ta chỉ là một giống loài. Bạn có thể tưởng tượng ra một thế giới khác mà ở đó có một số lượng các loài sinh vật đã phát triển với các hệ thống ngôn ngữ được xác định theo di truyền. Không xảy ra tiến hóa. Cái đã xảy ra là một loài phát triển, và cấu trúc di truyền của loài này tham gia vào sự đa dạng của các quy phạm trừu tượng rắc rối trong tổ chức ngôn ngữ đó, do vậy, cần phải hạn chế mọi ngôn ngữ, và, thực tế, tạo ra nền tảng học ngôn ngữ như  một cách trải nghiệm vẫn hơn là dùng việc học từ kinh nghiệm để cấu thành điều gì đó. Hỏi: Vậy tri thức này cũng sẽ giúp ích cho việc hiểu về thiên tính của con người? Chomsky: Đúng thế, theo hai hướng. Thứ nhất, tự thân nó là một phần của việc nghiên cứu trí tuệ con người, có lẽ là khía cạnh cốt lõi của thiên tính con người. Và thứ hai, tôi nghĩ, nó là khuôn mẫu tốt cho việc nghiên cứu những đặc trưng khác của con người, cái nên được các chuyên gia tâm lý xem xét theo phương pháp tương tự. Hỏi:  Ý của ngài là ngôn ngữ học đem lại lợi ích cho ngành tâm lý? Ngài có thể giải thích rõ hơn không? Chomsky: Một thứ mà cả tôi và bạn đều biết là ngôn ngữ. Cái khác chúng ta cũng biết là cách các khác thể hành xử trong không gian cảm quan. Chúng ta có nguyên cả đống các cách hiểu phức tạp về bản chất của không gian thị giác. Phần nào của tâm lý học, và trong vài năm gần đây nữa, nên cố gắng  tìm hiểu các quy tắc về cách chúng ta tổ chức không gian thị giác. Tôi sẽ nói rằng sự tương đồng này chính xác trong mọi phạm vi của ngôn ngữ học lẫn nhân học. Ví dụ thế này, để hiểu cách con người tổ chức các hệ thống xã hội, chúng ta phải tìm hiểu về những nguyên tắc mà chúng ta đặt ra để khiến một vài tầng lớp xã hội hiểu được. Hỏi: Tôi hiểu là chúng ta đã có thể có một dạng ngữ pháp phổ quát của các hình thái phi ngôn ngữ trong hành vi ứng xử của con người . Nhưng nếu thế, như ngài nói, hành vi của chúng ta và ngôn ngữ đều bị định hình bởi các quy tắc chúng, tại sao và trên toàn thế giới thì chúng khác nhau nhiều chứ? Chomsky: Tôi không nghĩ chúng khác nhau nhiều lắm. Tôi cho rằng cũng như sự tồn tại của con người, một cách khá tự nhiên chúng ta chứ cho rằng cái gì nằm trong sự tồn tại đó cũng đều giống nhau, và, sau đó, chúng ta chú ý đến cái gì khác biệt với mình. Điều đó tạo ra cảm giác hoàn hảo đối với sự tồn tại của chúng ta. Tôi cho là những con ếch không chú ý đến sự tồn tại của chúng. Chúng quan tâm đến cái khác. Điều một con ếch quan tâm là những khác biệt trong giống loài của mình. Từ góc nhìn của chúng ta, chúng giống nhau nhiều hoặc ít, còn từ góc nhìn của chúng thì tất cả hoàn toàn khác. Tương tự vậy. Với mình, tất cả chúng ta rất khác biệt, ngôn ngữ của chúng ta khác nhau, và xã hội của chúng ta cũng thế. Nhưng nếu chúng ta có thể tự rút ra từ góc nhìn của mình và phần nào nhìn cuộc đời con người theo cách một nhà sinh vật học xem xét các loài sinh vật khác, tôi nghĩ chúng ta có thể nhìn nó theo cách khác đi. Hãy tưởng tượng một người quan sát công tâm đang xem xét chúng ta. Người này sẽ được đánh giá chính xác thông qua tính chất đồng nhất của các ngôn ngữ của con người, qua sự thay đổi nhỏ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, và bằng cách lưu ý tới những điểm giống nhau trong tất cả các ngôn ngữ. Tiếp đến, anh ta sẽ để ý rằng chúng ta không tập trung lắm vào điều đó bởi mục đích của cuộc đời con người là hết sức tự nhiên và chỉ cho rằng mọi thứ đều là bình thường.  Chúng ta không quan tâm đến chính mình, tất cả chúng ta lại lo lắng về những điều khác biệt. Hỏi: Người quan sát khách quan này sẽ có cùng cách nghĩ về các biểu tượng, ý tưởng, nhu cầu và giá trị của chúng ta chứ? Chomsky: Tuyệt đối là vậy, tôi nghĩ thông qua sự đồng nhất giữa các tầng lớp của xã hội loài người trong mọi khía cạnh, anh ta sẽ bị thu hút. Hãy tưởng tượng một lần nữa, anh ta vẫn đang nhìn chúng ta mà không có bất kỳ định kiến nào. Tôi cho là anh sẽ lại chú ý đến thực tế, mặc dù sự tồn tại của con người có khả năng phát triển tri thức khoa học, nó hẳn là khả năng bị giới hạn bởi được thực hiện trong những phạm vi nhỏ hẹp và đặc biệt. Có những lĩnh vực to lớn, nơi suy nghĩ của con người dường như là không có khả năng được khoa học định hình, hoặc ít nhất là vẫn chưa làm được. Lại có những lĩnh vực khác – rất khác nữa, trong thực tế, một lĩnh vực duy nhất  –  mà ở đó chúng ta đã và đang chứng minh khả năng cho sự phát triển đúng đắn của khoa học. Hỏi: Các lĩnh vực vật lý chăng? Chomsky: Các lĩnh vực vật lý và những phần thuộc các lĩnh vực mở rộng của vật lý – hóa học, cấu trúc đại phân tử – đều nằm trong đó, có tiến bộ đáng kể. Ở nhiều lĩnh vực khác thì sự phát triển tri thức khoa học thực tế rất ít. Hỏi: Không phải là do con người muốn tập kiểm soát thế giới vật lý đấy chứ? Chomsky: Tôi không nghĩ thế. Ý tôi là nó hầu như phản ánh điều gì đó rất đặc biệt về đặc tính tư duy của chúng ta. Không có sức ép tiến hóa nào tạo ra được cho tư dụy khả năng định hình khoa học; nó chỉ xảy đến. Sức ép tiến hóa không giúp tăng khả năng giải quyết các vấn đề hay hình thành các ý tưởng khoa học mới mẻ. Vì thế, trong thực tế, các khả năng định hình khoa học được thể hiện vì những lý do khác, sẽ không quá ngạc nhiên nếu các cấu trúc khác thường đó phát triển và được chứng minh rằng đặt chúng đặc biệt hơn khi đặt trong tính bẩm sinh, nó cho thấy những ngẫu nhiên trong tiến hóa hoặc cách vận hành của quy luật vật lý. Hỏi: Ý ngài là chúng ta có thể, nhờ vào ưu điểm mà nguồn gốc ngẫu nhiên của khoa học này đem lại, có khả năng phát triểu một vài quy luật khoa học và không có khả năng khác? Đồng thời chúng ta cũng không ý thức được điều đó? Chomsky: Đúng vậy, giống cách chúng ta không ý thức về sự tồn tại của loài người, bởi chúng mặc nhiên cho rằng các cấu trúc tinh thần của bản thân là phổ quát. Tuy nhiên, tôi tin rằng một nhà sinh vật học nhìn từ ngoài vào sẽ thấy rất khác. Anh ta sẽ thấy, giống như cách xem xét các loài khác, chúng ta có một khoảng hẹp mà ở trong đó chúng ta vẫn tốt đẹp, nhưng nơi ấy cũng bị giới hạn. Và rằng, thực ra, những thành tựu chúng ta có thể có trong ấy lại gây ra sự thiếu thốn ở nhiều chỗ khác. Điều kiện để xây dựng một học thuyết khoa học từ dữ liệu và có thể nhận ra rằng nó là học thuyết hợp lý, là cần có một số nguyên tắc giới hạn rõ ràng, thứ dẫn dắt bạn đi theo hướng nhất định cũng như ngăn bạn lạc sang hướng khác. Nếu không thì bạn sẽ chẳng có khoa học gì sất, chỉ đơn thuần chọn một giả thiết ngẫu nhiên nào đó. Rồi tiếp đến, những thiên tài có thể có nhiều cơ hội không bị giới hạn để phát triển theo một hướng, nhưng đồng thời thiên tài cũng sẽ không đi theo hướng khác được. Và hai điều cân nhắc đó có liên quan đến nhau. Rất nhiều đặc tính của tư duy con người đem đến một cơ hội lớn cho thiên tài trong vài lĩnh vực sẽ trở thành chướng ngại vật cho sự phát triển của những lĩnh vực khác, chính xác thì những đặt tính bộc lộ ở mỗi đứa trẻ nhằm cho phép có được một ngôn ngữ phức tạp và ngăn việc thu nhập các hệ thống ngôn ngữ tưởng tượng khác. Hỏi: Ngài nghĩ những lĩnh vực nào sẽ trở lên lạc hậu nhất và bị sao nhãng? Chomsky: Tôi nghĩ về cơ bản thì chũng ta chẳng có gì trong lĩnh vực ứng xử con người. Có thể đó chỉ là tình cảnh bỏ bê tạm thời. Nhưng cũng có thể là chúng ta chỉ đơn giản là không được trang bị theo cách thông minh để phát triển một học thuyết như vậy. Hỏi: Ý ngài là chúng ta không chỉ không có công cụ để phát triển một học thuyết như vậy mà còn không có khả năng tạo ra công cụ cần thiết? Chomsky: Đúng rồi, những công cụ thông minh. Tư duy của chúng ta đặc biệt phù hợp với việc phát triển các học thuyết cố định, và chúng ta có một ngành khoa học nếu các học thuyết tồn tại trong tư duy của mình diễn ra theo hướng gần với sự thật. À, không có lý do đặc biệt nào để tin rằng sự giao cắt giữa những học thuyết đúng đắn với các học thuyết, thứ dễ dàng đạt được trong tư duy, là có quy mô. Nó có thể không quá lớn. Hỏi: Ít nhất chúng ta có thể biết nó rộng đến thế nào chứ? Chomsky: Đó là một câu hỏi thuộc về sinh học, mối tương giao ấy to lớn ra sao. Và nếu con người được cấu thành giống như mọi loài thì chúng ta nên trông chờ, rằng có một vài lĩnh vực mà sự tiến bộ của khoa học là khả thi, còn những cái khác thì không. Người dịch: Leica Green Mời các bạn đón đọc Ngôn Ngữ và Ý Thức của tác giả Noam Chomsky.
Tôi Chọn Hôm Nay, Tôi Chọn Hạnh Phúc
Khoảng 20 năm trước, tôi bắt đầu làm việc tại trung tâm điều dưỡng Kousei ở Yokohama, một trong mười trung tâm chăm sóc bệnh nhân lúc cuối đời trên toàn nước Nhật thời bấy giờ. Tôi đã chăm sóc rất nhiều bệnh nhân cho đến khi họ qua đời. Và ai cũng có cách riêng để đón nhận nấc thang cuối của cuộc đời mình. Có người cha phải đeo mặt nạ thở oxy để đến dự lễ cưới của con trai. Có bà lão nói với tôi rằng, cha bà đang đợi bà ở thế giới bên kia nên bà không hề sợ hãi cái chết. Hay còn có người nói đây là cách để gặp lại người con trai sau 20 năm âm dương đôi ngả. Nhưng sự thật là, không phải ai cũng có thể ra đi thanh thản trong niềm hạnh phúc. Có những người không rượu chè, thuốc lá, họ đạt được mục tiêu mua một ngôi nhà mơ ước, và rồi họ phát hiện ra mình mắc bệnh ung thư. Họ phẫn nộ hét lên: “Tại sao người mắc bệnh lại là tôi?”. Hay có những bệnh nhân không thể tự mình vệ sinh cá nhân nói với tôi rằng: “Xin bác sĩ hãy để cho tôi chết sớm, bởi lẽ nếu tôi cứ tiếp tục sống như thế này thì chỉ càng thêm đau đớn mà thôi!”. Đối với “mong muốn” như vậy, những y bác sĩ như chúng tôi không thể cho họ một câu trả lời thỏa đáng. Tôi chỉ biết ngồi cạnh những người bệnh đang bị giày vò, tự dằn vặt vì bản thân không thể làm được gì cho họ. Thế rồi vào một ngày nọ, tôi nhận ra rằng, cho dù tôi không thể làm gì giúp họ giảm bớt sự giày vò bởi bệnh tật, nhưng chỉ cần ở bên họ và cùng họ trải qua đau khổ, đó chẳng phải là đã giúp đỡ họ rồi sao!? Có nhiều bệnh nhân cho tôi thấy sự thay đổi của họ, và họ muốn nó được gọi là “kỳ tích”. Trong quãng thời gian điều trị tại bệnh viện, không ít bệnh nhân trước đó từng nói “Xin hãy cho tôi chết sớm”, nhưng giờ lại có những suy nghĩ tích cực như: “Cho dù mình không thể đi lại được nữa nhưng được sống đã là một điều may mắn rồi”. Cũng có những bệnh nhân từng than: “Sống đến bây giờ nhưng tôi chưa làm được điều gì lớn lao cả”, nhưng trước khi chết họ lại nhận ra rằng: “À, những điều mình đã làm được cho gia đình, cho công ty, cho xã hội đều là những điều có ích.” Nhiều bệnh nhân đã tìm thấy cơ hội để tự khẳng định mình. Tận cùng của đau khổ là khi ta tiến gần tới nấc thang cuối của cuộc đời. Nhưng từ những đau khổ đó, con người lại học được rất nhiều điều. Được sống đến giờ phút này thôi đã là một điều vô cùng ý nghĩa rồi. Hãy khiến bản thân mình luôn cảm thấy thanh thản. Hãy buông bỏ những điều mà chúng ta đang cố chấp níu giữ, hãy mạnh dạn chia sẻ cuộc đời với người mà chúng ta tin tưởng. Khi nhận ra những điều đó, chúng ta sẽ hiểu được hạnh phúc thật sự. Những ai nhận thấy mình đang ở giai đoạn cuối của cuộc đời cũng là một điều quan trọng. Điều đó không có nghĩa rằng họ phải chuẩn bị cho cái chết mà để họ có động lực sống và trân trọng giây phút hiện tại. Cả tôi và các bạn đều có những điều mà chúng ta coi đó là nguồn động lực sống. Thật khó để con người xóa bỏ mọi khổ đau, nhưng tôi nghĩ nếu chúng ta hiểu được rằng, điểm tựa của ta là gì, chắc chắn những ngày tháng tiếp theo trong cuộc đời chúng ta sẽ phần nào bình thản và hạnh phúc hơn. Hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng của bạn. Hãy chọn hôm nay, hãy chọn hạnh phúc. *** Hãy Kết Thúc Mỗi Ngày Thật Trọn Vẹn Để Đón Nhận “Ngày Cuối Cùng” Thật Thanh Thản Trước tiên, tôi muốn hỏi bạn rằng, nếu hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc đời bạn, bạn sẽ sống như thế nào? Bạn sẽ dốc toàn lực cho công việc của mình tới tận khoảnh khắc cuối cùng? Hay bạn sẽ trải qua khoảng thời gian ấy cùng gia đình và những người yêu thương? Chắc hẳn mỗi người sẽ có câu trả lời của riêng mình. Cho dù câu trả lời của bạn là gì đi chăng nữa thì đó vẫn là sự lựa chọn của bạn, là điều mà bạn cho là đúng đắn, là điều mà bạn cho rằng thực sự quan trọng. Sau khi tốt ngiệp đại học, tôi từng về làm việc tại nhiều nơi như Trung tâm cấp cứu, Bệnh viện địa phương, Trung tâm điều dưỡng… Năm 2006, với chuyên môn khám bệnh tại nhà, tôi mở Phòng khám đa khoa Megumi. Phương châm hoạt động của phòng khám là: “Cho dù bạn ở đâu, cho dù bệnh của bạn là gì, hãy yên tâm vì chúng tôi luôn bên bạn. Chúng tôi sẽ giúp bạn hoàn thành nghĩa vụ xã hội đến giây phút cuối cùng”. Với những bệnh nhân do bệnh tật hoặc già yếu, gặp khó khăn trong việc đi khám, chúng tôi sẽ tiến hành thăm khám và chẩn trị tại nhà một cách tốt nhất. Việc tiến hành thăm khám của chúng tôi không đơn thuần chỉ là chẩn trị, kê đơn hay chỉ định sinh hoạt hàng ngày. Quan trọng là, chúng tôi muốn giúp cho những bệnh nhân đang mang những phiền muộn có thể sống thanh thản hơn mỗi ngày. Để có thể thanh thản đón những nấc thang cuối của cuộc đời, chúng tôi phải làm giảm đi những đau đớn trên cơ thể bệnh nhân và làm dịu đi nỗi phiền muộn trong tâm hồn họ. Chúng tôi nỗ lực hết mình để có thể giúp đỡ mọi người. Khi cận kề cái chết, nhiều người bệnh khổ sở nghĩ rằng: “Vậy là thời gian đã hết!”, “Có thể ngày mai sẽ không đến nữa”… Con người biết suy nghĩ về ngày mai, hướng về tương lai do đó chúng ta mới có thể tiếp tục sống để ấp ủ mơ ước, khát khao. Suy nghĩ “không còn có ngày mai” có lẽ là tận cùng của sự tuyệt vọng. Thế nhưng, con người không nên chỉ nhìn vào mãi những khổ đau. Quan trọng là chúng ta học được gì từ những điều đó. Hàng ngày, cuộc sống của ta bị những bận rộn và bộn bề bủa vây. Nếu chúng ta thoát khỏi những phiền muộn, và suy nghĩ một cách nghiêm túc về việc làm sao có thể sống thanh thản trong những ngày cuối của cuộc đời, thì chắc chắn chúng ta sẽ biết được điều gì là quan trọng với bản thân mình. Trong số những bệnh nhân mà tôi chăm sóc từ trước tới giờ, có một nữ bác sỹ dù trên người cắm đầy dây truyền dịch, đến mức không thể di chuyển được nhưng vẫn chọn làm việc tới tận khoảnh khắc cuối cùng. Có những người, cố gắng hết sức chỉ để được gặp một người họ muốn, bằng những nỗ lực cuối cùng. Bên cạnh đó, cũng có người không làm gì cả, họ chỉ lặng lẽ cùng gia đình và những người yêu thương đón nhận những giây phút cuối. Tôi không bao giờ nói với các bệnh nhân của mình rằng: “Đừng quá quan tâm vào công việc, hãy dành nhiều thời gian hơn cho gia đình” hay “Hãy cố gắng hoàn thành những điều còn dang dở.” Bởi mỗi người có những điều quan trọng, những mục đích sống khác nhau. Chúng ta cần phải tôn trọng những khao khát chân thành của người khác, bởi nó xuất phát từ trái tim. Thế nên, tôi nghĩ đó là điều hạnh phúc nhất với những bệnh nhân của mình. Hơn nữa, khi càng nhận ra mình phải xa lìa cuộc đời, nhiều bệnh nhân càng có mong muốn khẳng định mình. Có những người cả đời suy nghĩ rằng mình chưa từng làm được điều gì lớn lao hay cuộc đời của mình là chuỗi ngày tẻ nhạt. Nhưng đến thời khắc cuối, họ lại suy nghĩ rằng, “Mình đã làm việc một cách vững vàng trong những năm tháng ấy, mình là người có ích cho xã hội”, “Mình đã cố gắng hết mình vì (hạnh phúc) gia đình.” Đối với những người đó, điều thực sự quan trọng hầu hết là những điều gắn bó như gia đình, người yêu, bạn bè, công việc, thú vui… Và, khi biết cái chết đang đến gần, họ nhận ra được giá trị của khoảng thời gian được sống cùng với những điều quan trọng ấy. Tôi xin sử dụng câu nói “Hãy sống như thể hôm nay là ngày cuối cùng của bạn” và coi đó như tinh thần của cuốn sách này để cho các bạn có thể thử tưởng tượng, “Nếu như hôm nay là ngày cuối của cuộc đời mình, bạn muốn sống như thế nào?” Khi bạn nghĩ rằng “Hôm nay là ngày cuối cùng” thì bạn sẽ hiểu được đâu là điều quan trọng nhất với bản thân mình. Chính bởi vậy, tôi nghĩ rằng, ngay cả khi chúng ta còn khỏe mạnh hay khi cận kề cái chết, đó là cách nghĩ tích cực nhất để thúc đẩy động lực sống của mỗi người. Con người không nên chỉ nhìn vào mãi những khổ đau. Quan trọng là chúng ta học được gì từ những điều đó. Mời các bạn đón đọc Tôi Chọn Hôm Nay, Tôi Chọn Hạnh Phúc của tác giả Taketoshi Ozawa.
Không Đến Một
Nếu bạn muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, bạn phải tin vào bí mật. Bí mật lớn nhất của thời đại chúng ta là vẫn còn những lĩnh vực và phát minh mới cần chúng ta khám phá và tạo ra. Trong Không Đến Một, doanh nhân và nhà đầu tư huyền thoại Peter Thiel chỉ cho chúng ta biết cách tìm ra những cách thức độc đáo để tạo ra những thứ mới này. Thiel bắt đầu bằng một tiền đề nghịch lý là chúng ta đang sống trong giai đoạn trì trệ về công nghệ, thậm chí chúng ta còn bị các thiết bị di động hào nhoáng làm cho sao nhãng. Công nghệ thông tin đã cải thiện nhanh chóng, nhưng không có lý gì mà sự tiến bộ của loài ngoài chỉ nên giới hạn trong lĩnh vực máy tính hay ở Thung lũng Silicon. Chúng ta có thể đạt được sự tiến bộ trong bất cứ ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh nào. Nó xuất phát từ kỹ năng quan trọng nhất mà mọi nhà lãnh đạo phải thuộc nằm lòng: học cách nghĩ cho chính bản thân mình. Một Bill Gates của tương lai sẽ không viết nên hệ điều hành máy tính như Microsoft. Một Larry Page hoặc Sergey Brin kế tiếp sẽ không tạo ra cỗ máy tìm kiếm như Google. Và tất nhiên, một Mark Zuckerberg tiếp theo sẽ không tạo ra mạng xã hội như Facebook. Nếu bạn bắt chước họ, bạn sẽ chẳng học được gì từ họ cả. Không Đến Một đưa ra một cái nhìn lạc quan về tương lai của sự tiến bộ và tư duy mới mẻ về đổi mới: bắt đầu từ việc học cách đặt ra những câu hỏi đưa bạn đến những nơi không ngờ tới để tìm và tạo ra giá trị cho thế giới. PETER THIEL là doanh nhân và nhà đầu tư. Ông sáng lập PayPal năm 1998 và làm CEO, rồi đưa công ty lên sàn năm 2002, điều này giúp định hình một kỷ nguyên mới của thương mại điện tử nhanh chóng và an toàn. Ông cũng đầu tư vào Facebook, LinkedIn, SpaceX... *** Không Đến Một đưa ra một cái nhìn lạc quan về tương lai của sự tiến bộ và tư duy mới mẻ về đổi mới: bắt đầu từ việc học cách đặt ra những câu hỏi đưa bạn đến những nơi không ngờ tới để tìm và tạo ra giá trị cho thế giới. Peter Thiel là doanh nhân và nhà đầu tư. Ông sáng lập PayPal năm 1998 và làm CEO, rồi đưa công ty lên sàn năm 2002, điều này giúp định hình một kỷ nguyên mới của thương mại điện tử nhanh chóng và an toàn. Ông cũng đầu tư vào Facebook, LinkedIn, SpaceX… Bí mật lớn nhất của thời đại chúng ta là vẫn còn những lĩnh vực và phát minh mới cần chúng ta khám phá và tạo ra. Trong *Không Đến Một,* doanh nhân và nhà đầu tư huyền thoại Peter Thiel chỉ cho chúng ta biết cách tìm ra những cách thức độc đáo để tạo ra những thứ mới này. Nếu bạn muốn xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, bạn phải tin vào bí mật. Dành cho - Những người sáng lập các công ty khởi nghiệp hiện tại và trong tương lai. - Người trẻ tuổi với một ý tưởng lớn, nhưng không có nhiều sự hỗ trợ từ bạn bè và gia đình. - Nhà đầu tư. - CTO công ty công nghệ. - Bất cứ ai nghiên cứu về kinh tế và các công ty khởi nghiệp. *** Peter Thiel và Blake Masters Peter Andreas Thiel (sinh ngày 11 tháng 10 năm 1967) là một doanh nhân, nhà đầu tư mạo hiểm, nhà từ thiện, nhà hoạt động chính trị và tác giả người Mỹ. Thiel sinh ra tại Frankfurt. Ông là người đồng sáng lập PayPal, Palantir Technologies và Founders Fund. Ông phục vụ như giám đốc điều hành cho đến khi bán cho eBay vào năm 2002 với giá 1,5 tỷ đô la. Ông được xếp thứ 4 trong Danh sách Midas của Forbes năm 2014, với giá trị ròng là 2,2 tỷ đô la, và số 328 trên Forbes* 400 năm 2018, với giá trị ròng 2,5 tỷ đô la Mỹ.  Mời các bạn đón đọc Không Đến Một của tác giả Peter Thiel & Blake Masters.
Giải Độc Siêu Nhân
John Bevere chỉ cho chúng ta cách để chiến thắng tội lỗi bởi ân sủng thêm sức của Chúa. Trong cuốn sách mới này, Giải Độc Siêu Nhân, ông tiết lộ cách mà hết thảy chúng ta đã nhiễm chất diệt siêu nhân trong chính đời sống chúng ta, và chúng ta chỉ có thể thắng được nó bởi tình yêu của Chúa. Tạ ơn Chúa vì đã ban cho John khải thị này! ROBERT MORRIS Mục sư sáng lập, Gateway Church, Dallas/Fort Worth, Texas Tác giả sách bán chạy The Blessed Life, The God I Never Knew, Truly Free và Frequency Sứ điệp này là một lời kêu gọi khẩn thiết dành cho hội thánh Chúa đó là đừng chấp nhận bất cứ điều gì ngoại trừ điều tốt nhất Chúa dành cho mình! Tôi tin những cái nhìn của John cộng với động cơ muốn giúp các tín hữu sống cho Chúa sẽ là một kinh nghiệm đổi đời cho tất cả những ai tâm huyết sứ điệp này. JOYCE MEYER Giáo sư Kinh Thánh và tác giả sách bán chạy Trong cuốn Giải  Độc Siêu Nhân, John Bevere chứng minh rõ ràng những đồn lũy ngăn cản chúng ta không sống hết tiềm năng của Chúa trong Chúa. Cuốn sách này đầy quyền năng, rất thẳng thắn và đem độc giả đến chỗ mặt đối mặt với chất diệt siêu nhân thuộc linh trong chính đời sống của họ. JENTEZEN FRANKLIN Mục sư quản nhiệm, Free Chapel Tác giả sách bán chạy New York Times Khải thị của John Bevere về các nguyên tắc và lời dạy của Kinh Thánh cùng với tấm lòng yêu thương dành cho dân sự Chúa đã gây dựng mỗi cá nhân và hội thánh Chúa suốt nhiều thập niên qua. Các sách vở của ông đã đi đến tận cùng ngõ ngách trên khắp thế giới, và ảnh hưởng của ông trên nhiều cuộc đời thì vô số kể. Tôi rất biết ơn là bạn của ông và của chức vụ ông và cũng tạ ơn Chúa là ông tiếp tục vâng lời Chúa mà viết sách. BRIAN HOUSTON Nhà sáng lập và mục sư quản nhiệm Hillsong Church Rất thuyết phục. Đầy dẫy Thánh Linh. Đầy quyền năng. Cuốn sách Giải Độc Siêu Nhân đã loại bỏ thứ tội lỗi đã làm suy yếu cơ đốc nhân bằng ân sủng và lẽ thật. Tôi tin cuốn sách này sẽ làm dấy lên một thế hệ mà trước đây rất ít nghe đến chân lí và sự vâng lời Chúa sẽ trở thành một thế hệ yêu mến Chúa đến độ không bằng lòng với hiện trạng của mình mà khao khát điều tốt nhất của Chúa - sự tự do trong Chúa và sự đầu phục Ngài. LOUIE GIGLIO Mục sư hội thánh Passion City Church, nhà sáng lập  Passion Conferences Tác giả cuốn Goliath Must Fall Cũng như các sách vở hay khác của John Bevere, cuốn sách này sẽ làm nhiều người ngạc nhiên. Không phải là ông không dùng biệt tài của mình để lột tả những vấn đề quan trọng mà trái lại thì khác. Ơn Chúa trên đời sống ông thật quá rõ ràng khi ông viết sách này. Điều làm nhiều độc giả ngạc nhiên là cách ông lột tả một vấn đề sờ sờ ngay trước mắt chúng ta, nhưng ít ai để ý tới. Thật không quá đáng khi cho rằng cuốn sách này rất cần thiết. Cuốn sách Giải Độc Siêu Nhân là sách mà mọi tín hữu nên đọc trong thời điểm này. BILL JOHNSON Bethel Church, Redding, CA Tác giả God is Good             Tôi kính tặng cuốn sách này cho các thành viên trong đội của chức vụ Messenger International. Chúng ta cùng nhau giảng tin lành của Chúa Giê-xu cho vô số người bởi ân sủng của Chúa. Việc này  không thể thực hiện được nếu không có đức tin, tài năng, lòng tận hiến và sự làm việc chăm chỉ của các bạn. Vợ tôi Lisa và tôi tôn trọng các bạn, rất vui được làm việc với các bạn và mong đợi tới Ngày Phán Xét khi đó Chúa Giê-xu sẽ ban thưởng cho sự phục vụ trung tín của các bạn ở cõi đời đời. Vì hy vọng, niềm vui và mão hoa vinh dự của chúng tôi trước mặt Chúa Giê-xu chúng ta khi Ngài quang lâm là gì? Không phải là chính anh chị em sao? Vì hy vọng, niềm vui và mão hoa vinh dự của chúng tôi vốn là gì? Không phải chính anh chị em trước mặt Chúa Giê-xu chúng ta khi Ngài quang lâm sao? Phải, chính anh chị em là vinh quang và niềm vui của chúng tôi. - TÊ-SA-LÔ-NI-CA 2:19-20 Cảm ơn các bạn, Messenger Team 2019! VÀI NÉT VỀ CUỐN SÁCH     Bạn có thể đọc Giải Độc Siêu Nhân (Killing Krytonite) từ đầu  đến cuối như bất kì cuốn sách nào. Tôi cũng trình bày các chương sách rất ngắn gọn, mất không tới mười đến mười lăm phút đọc là xong. Trong mỗi chương bạn sẽ thấy có phần thực hành, giúp bạn áp dụng những lẽ thật của chương đó vào đời sống của bạn. Xin đừng bỏ qua các bước thực hành này nó là một phần quan trọng để trải nghiệm cuốn sách này. Vì lí do này mà tôi khuyên mỗi ngày chỉ đọc một chương. Như thế, bạn có thể thực hành trước khi đọc chương tiếp. Ở cuối cuốn sách bạn cũng sẽ thấy nội dung thảo luận dành cho ai muốn dùng loạt bài Giải Độc Siêu Nhân cho nhóm nhỏ. Tôi cũng soạn bài học trực tuyến và phần nghiên cứu, đi kèm với nội dung trong sách này. Cả hai phần này đều là các phần bổ sung rất hay nếu bạn muốn nghiên cứu sâu hơn về chủ đề này. ( Cuối sách có thêm thông tin về bài học và phần nghiên cứu). Nếu bạn đọc sách này như là một phần trong loạt bài học về Giải Độc Siêu Nhân, tôi khuyên bạn theo dõi hoặc nghe bài dạy của mỗi tuần và trả lời những câu hỏi thảo luận theo nhóm ở phần cuối sách. Sau đó yêu cầu mỗi thành viên của nhóm đọc các chương tương ứng trước khi gặp nhau lần tới. Nếu bạn có câu hỏi nào, cứ liên lạc với tôi hoặc các thành viên khác trong chức vụ Messenger International. Chúc bạn đọc vui vẻ!         John           LỜI GIỚI THIỆU     Tôi biết khi nói điều này bạn sẽ ngạc nhiên, nhưng trong đời tôi, tôi chưa bao giờ lại không muốn viết một cuốn sách như vậy. Lát nữa tôi sẽ giải thích điều này. Nhưng trước hết, làm sao một cuốn sách có cái tựa về Giải Độc Siêu Nhân lại áp dụng cho các tín hữu tin Chúa? Hãy để tôi giải thích ngay. Phần lớn chúng ta đều biết chữ Kryptonite từ câu chuyện giả tưởng về siêu nhân. Thực tế nó  đã trở thành câu chuyện dân gian của Mỹ, do hai người bạn thời trung học là Jerry Siegel và Joe Shuster viết. Câu chuyện được xuất bản lần đầu trong một cuốn truyện thiếu nhi vào tháng Sáu năm 1938. Cốt truyện về một người anh hùng bác ái có được sức mạnh siêu nhiên là thuốc giải độc đặc hiệu trong thời Phát-xít độc tài. Tiếng tăm của Siêu Nhân ngày càng vang xa, và rốt cuộc thì câu chuyện siêu nhân không chỉ xuất hiện trên các mặt báo mà cả trên các chương trình phát thanh và phát hình, cùng trong hàng loạt các bộ phim bom tấn. Sau một thời gian, những câu chuyện này thành ra nhàm chán đối với khán giả vì không ai tấn công được Siêu Nhân. Chuyện này đã thúc đẩy các tác giả vào thập niên 1940 cho ra đời một thủ pháp mà sau này trở thành một thứ chất phổ biến có tên gọi Kryptonite một hợp chất có nguồn gốc từ hành tinh của Siêu Nhân, có thể trừ khử sức mạnh siêu phàm của Siêu Nhân. Dưới tác động của chất kryptonite thì Siêu Nhân trở lại bình thường như con người. Áp dụng cho Cơ Đốc nhân, có một thứ mà kẻ thù dùng để điểm huyệt (triệt tiêu) sức mạnh và phẩm cách mà Chúa ban cho chúng ta. Thứ đó là gì? Làm sao chúng ta nhận ra nó? Nó ảnh hưởng đến mỗi tín hữu hay hội thánh như thế nào? Nó ngăn trở chúng ta không còn khả năng và năng lực để chinh phục những người hư mất như thế nào? Tại sao chúng ta lại bị nhiễm độcdễ dàng như thế? Đây là một số câu hỏi sẽ được trả lời trong cuốn sách này. Đây là cuốn sách thứ hai mươi mà tôi viết nhờ Đức Thánh Linh giúp đỡ và dẫn dắt. Như tôi đã nói trước đó, trong lúc viết sách này, tôi muốn bỏ cuộc năm sáu lần. Lí do là vì chuyện này buộc tôi phải đối diện với các vấn đề mà tôi không thể bỏ qua trong chính đời sống tôi. Tôi đã phải tự hỏi bản thân, Mình có đang sống dưới tiêu chuẩn mà Chúa tạo dựng mình không? Là hội thánh Chúa, chúng ta có đang thật sự kinh nghiệm sự hiện diện và quyền năng của Ngài để thay đổi cộng đồng của chúng ta không? Tôi quả đã phải thức giấc nhiều lần và thốt ra những lời này, Cha ơi, con không biết chắc là con có thích đọc sách này hay không. Con không muốn viết sách này nữa. Mỗi lần như thế tôi cảm nhận lời phán Không được rất nghiêm khắc từ Thánh Linh. Cuối cùng, vào cái lần gặp Chúa mới đây, Ngài trấn an tôi rằng sứ điệp này sẽ mang lại những hiểu biết quan trọng để tiến hành xây dựng từng cá nhân, từng gia đình, và từng hội thánh khắp thế giới một cách lành mạnh. Những nguyên tắc này có thể thay đổi nhiều cộng đồng. Sau khi nhận lời hứa này, bởi đức tin tôi viết tiếp. Khi viết tới phần cuối của sách, bảy chương cuối, tôi thấy mình được phước. Tôi không chỉ hiểu ra sự khôn ngoan của sứ điệp này, mà tôi còn hiểu ra tính cấp bách của nó. Bây giờ thì tôi cho rằng sứ điệp này là một trong những thông điệp quan trọng được loan báo dưới danh nghĩa tôi là tác giả. Tôi đã nói những ích lợi của sứ điệp này ở cuối cuốn sách, nên rất dễ bạn sẽ bị cám dỗ mà mở đọc phần cuối của sách ngay. Nhưng để tôi cảnh báo bạn  xin đừng làm thế! Nếu bạn không đọc ba phần đầu thì bạn sẽ không nhận được gì nhiều ở phần thứ tư. Việc này có thể được ví như việc xem một bộ phim chỉ hai mươi phút cuối chỉ để biết kết cuộc câu chuyện ra sao. Như thế thì bạn sẽ không có ấn tượng bằng bạn xem bộ phim từ đầu. Những ai xem phim từ đầu đến cuối thì họ trải nghiệm được những cảm xúc cười khóc, la hét hay vui nhộn. Còn bạn thì sẽ thắc mắc không biết sao mà bộ phim lại hấp dẫn đến thế. Sách này gồm hai mươi tám chương, chia làm bốn phần, mỗi phần có bảy chương. Chúng tôi có dụng ý làm thế để giúp các độc giả không có nhiều thời gian đọc. Bạn có thể để mười đến mười lăm phút mỗi ngày đọc mỗi chương suốt bốn tuần. Hoặc bạn có thể để một tuần đọc một chương thì sẽ mất gần sáu tháng . Còn không thì bạn có thể đọc bình thường. Mục tiêu của chúng tôi là làm sao bạn có thể đọc sứ điệp này cách thích hợp nhất với thời gian biểu của bạn. Cuối cùng, cần xem việc đọc sứ điệp này như là một hành trình  mà hành trình đó sẽ bảo vệ bạn không bị nhiễm độc và có được những kiến thức để ảnh hưởng đến thế giới của bạn. Trước khi bắt đầu đọc, nào chúng ta hãy cầu nguyện xin Thánh Linh mở mắt chúng ta để nhìn thấy sự khôn ngoan thiên thượng, tăng cường sức mạnh giúp chúng ta hoàn thành định mệnh của mình trên đất này. Lạy Cha, trong Danh của Chúa Giê-xu, xin hãy mở mắt, mở tai và mở lòng con để nhìn thấy, lắng nghe và hiểu được ý muốn của Ngài cho cuộc đời con. Thánh Linh ơi, xin hãy dạy con đường lối của Chúa Giê-xu một cách sâu nhiệm khi con đọc sứ điệp này. Con xem Ngài là Giáo sư của con. Nguyện Ngài phán với con qua mỗi lời dạy trong sách này. Và nguyện đời con được thay đổi mãi mãi. Amen. Mời các bạn đón đọc Giải Độc Siêu Nhân của tác giả John Bevere & Daniel PhucNguyen.