Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Evergreen Love: Từ Điển Tranh Về Thực Vật

Evergreen Love – Từ điển tranh về thực vật được chắp bút bởi Hiro Arikawai, nữ nhà văn nổi tiếng Nhật Bản. Phát hành năm 2009, tác phẩm đã nhanh chóng trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất năm và nhận được nhiều giải thưởng, đề cử văn học. Đặc biệt, Evergreen Love đã được mua bản quyền chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 2016. Ngay trong tuần đầu tiên ra mắt, bộ phim đã đứng nhất phòng vé với doanh thu 3.2 triệu USD. Cuốn tiểu thuyết là câu chuyện về cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa Sayaka và Itsuki. Sayaka làm việc trong một công ty tư vấn nhà đất, tuy nhiên cô lại thường xuyên bị quở trách vì năng lực của bản thân, không những sống một cuộc đời nhàm chán, thảm hại, Sayaka lại không hề khéo léo trong tình yêu nên vẫn còn cô đơn. Một đêm nọ, trên đường trở về nhà, Sayaka bắt gặp Itsuki, một người lạ mặt bất tỉnh ngay trước cửa nhà. Cô đưa anh vào nhà, khi tỉnh dậy, Itsuki bất ngờ xin Sayaka cho anh sống nhờ trong vòng nửa năm. Lạ thay, Sayaka gật đầu đồng ys. Và thế là họ bắt đầu sống chung và dần dần nảy sinh tình cảm với nhau lúc nào chẳng hay. Itsuki như một phép màu được gửi đến cứu rỗi cuộc đời tẻ nhạt của Sayaka. Trong thời gian sống chung, Itsuki luôn nấu ăn cho cô - một người con gái vụng về không hề biết gì về nữ công gia chánh, anh dạy cô cách sử dụng các loại thảo mộc và cỏ dại để nấu nướng. Thế nhưng Itsuki lại giữ trong mình quá nhiều bí ẩn như cách anh xuất hiện trong cuộc đời Sayaka và đột ngột biến mất khỏi cuộc đời cô sau bữa tiệc sinh nhật… Lạc vào thế giới của Evergreen Love, bạn sẽ dễ dàng chìm đắm trong sự ngọt ngào, lãng mạn bởi những “phản ứng hóa học” giữa hai nhân vật chính, sự kì diệu về thế giới của những loài cỏ dại, thảo mộc quanh ta đi cùng với cảm giác tò mò về những bí mật giấu kín của Itsuki… Evergreen Love hứa hẹn sẽ là một tác phẩm lãng mạn tươi mới giúp bạn xóa tan cảm giác oi bức trong hè này. *** Hiro Arikawa   Sinh năm 1972, đến từ Kochi, Nhật Bản. Bà chủ yếu sáng tác thể loại light novel hướng tới đối tượng học sinh trung học. Năm 2003, bà đạt giải thưởng nhà văn mới trong giải thưởng văn học thường niên lần thứ 10 Dengeki Novel Prize với tác phẩm Shio no Machi và được xuất bản sách trong năm 2004. Cuốn tiểu thuyết ăn khách Evergreen Love - Từ điển tranh về thực vật (Shokubutsu Zukan) của bà đã được chuyển thể thành phim điện ảnh vào tháng 6 năm 2016. *** Ngày cô phải ra ngoài cùng trưởng phòng là một ngày giữa mùa hè, cái nắng oi ả chiếu xuống mặt đường nhựa, phả lên từng đợt hơi nóng. Đôi chân của mỗi người đều tự động lựa chọn đi vào vùng bóng của hàng cây hai bên đường. Thế rồi đột nhiên có một bóng trắng nho nhỏ lướt qua khóe mắt cô. Ở bãi đỗ xe bên cạnh một tòa nhà gần đấy có một loại dây leo đang cuốn lên hàng rào chắn. Và bóng trắng nho nhỏ chính là những bông hoa trắng nhỏ xinh của loài dây leo đó. Những bông hoa nhỏ xinh với những cánh hoa trắng xòe rộng tạo hình quả chuông như hoa bách hợp, chính giữa bông hoa lại được điểm thêm bằng màu đỏ đậm. “Ô kìa.” Trưởng phòng cũng nhận ra bóng trắng đó mà ngừng lại. “Thật đẹp quá đi. Chủ ở đây trồng nó sao?” “Không phải đâu trưởng phòng.” Kouno Sayaka lại giội một gáo nước lạnh vào mớ cảm xúc đang dâng trào trong sếp. “Nó là cỏ dại đấy ạ.” “Cỏ dại!!” Trưởng phòng tròn mắt ngạc nhiên. “Thế nhưng nó trông đẹp thế cơ mà.” “Cỏ dại không phải là tên của một loại cỏ cây mà là chỉ chung cho tất cả các loại cỏ. Thiên hoàng Chiêu Hòa đã nói như vậy. Ít nhất thì nó không phải là loại cây cỏ được trồng trong vườn.” Sayaka vô thức nói thêm: “Nó là cây rắm thúi, trong tiếng Nhật gọi là Hekuso kazura.” “Hekuso… thú…?” “Vâng. Nếu vò nát những chiếc lá mọc trên thân dây leo kia thì nó sẽ tỏa ra mùi khó chịu giống như cái tên ấy. Mặc dù dựa theo những bông hoa dễ thương hay những đặc điểm khác thì nó còn được gọi với những tên khác như Saotome kazura nghĩa là cô gái đội nón đang làm ruộng hay Yaitobana vì hoa giống với hình mồi ngải dùng trong chữa bệnh hay xông huyệt, thế nhưng, Hekuso kazura vẫn là cái tên được dùng nhiều nhất.” Nói một tràng dài, Sayaka đột nhiên nhận ra trưởng phòng của mình còn đang ngây người. “Trưởng phòng làm sao thế?” “Không…” Trưởng phòng cười nói: “Chỉ là thấy bất ngờ khi cô còn trẻ vậy mà lại biết được nhiều điều như thế thôi. Đúng rồi, nó là rắm thúi chứ gì…” Thế rồi trưởng phòng lại nói tiếp: “Cái tên này cũng đủ để bị kết tội quấy rối tình dục đấy nhé.” “Không, tôi không có…” Sayaka vội lầm bầm tôi không cố ý hay gì đó. Bản thân cô cũng đã hơn hai mươi mấy rồi, thế nên cô không nghĩ mình cũng được coi là một cô gái trẻ trung gì nữa. Sau khi nói xong, trưởng phòng lại lần nữa ngắm nhìn bông hoa rắm thúi… không, hãy gọi nó là thiếu nữ xinh đẹp đi. “Rõ là bông hoa đẹp thế này cơ mà. Cái tên này làm hỏng hết cả một loài hoa rồi.” Đứng bên cạnh nghe trưởng phòng ca thán, Sayaka lại đang thầm xỉ vả bản thân mình. Ngu ngốc, mày thật ngu ngốc quá đi! Cho dù người ta có thân thiết và không để ý đến đâu đi chăng nữa thì người ta cũng là một người đàn ông đấy! Sao lại có một cô gái mở miệng ra là rắm thúi chứ! Thúi, thúi thúi! Nghe xong trưởng phòng cũng phải chạy xa rồi đấy! Có phải mày không biết các tên khác của nó đâu cơ chứ. Tại sao! Tại sao! Tại sao lại không nói là Yaitobana cơ chứ! Thế nhưng, chuyện mày nhanh nhảu nói ra cái tên thông dụng nhất đấy cũng đâu phải lỗi của mày đâu. Itsuki! Tất cả là tại anh đấy! Sayaka thầm rủa xả anh chàng đã nhồi nhét tên của đủ các loại cây cỏ vào trong đầu cô. Hãy đặt tên cho chàng trai đã rời xa bạn bằng tên của một loài hoa. Và hoa mỗi năm đều sẽ nở. Đại văn hào Kawabata Yasunari đã từng viết như vậy. Ấy thế nhưng trong lòng Sayaka lại cho rằng nó chẳng có gì là lãng mạn hay tình tứ cả. Nếu dùng một từ để nói về câu văn ấy thì đó chính là “ủy mị”. Thêm vào đó, phụ nữ tuyệt đối sẽ không nghĩ nhiều đến thế. Và vốn dĩ cô cũng không nghĩ mình sẽ khắc sâu ký ức về người đàn ông đã chia tay đến mức ấy đâu. Nếu coi trí nhớ của con người là bộ nhớ của một chiếc máy tính thì tình yêu của phụ nữ được lưu lại dưới dạng lưu đè, còn tình yêu của đàn ông lại được lưu lại dưới các file khác nhau. Phụ nữ dù có day dứt, dù có khổ sở đến đâu đi chăng nữa thì khi tình yêu mới xuất hiện, những ký ức về người yêu cũ của họ cũng sẽ phai mờ. Chỉ vì một câu nói ủy mị của ngài mà ba mươi năm sau khi ngài mất, một cô gái vô tội lại đang phải xấu hổ ở đây đây này. Thế nhưng, Sayaka lại thở dài. Cũng không thể nói là cô và người đàn ông đó đã chia tay được. Bởi… Anh ta cứ thế biến mất mà chẳng nói một lời. Mà dù sao giữa cô với anh ta cũng có hứa hẹn gì đâu cơ chứ. “Kouno này, mình đi thôi.” Nghe trưởng phòng cất tiếng gọi, Sayaka vội vàng “vâng” một tiếng rồi đi theo. ✥ Chữ “thụ” trong từ “đại thụ”, đọc là Itsuki. Đó là điều duy nhất về thông tin cá nhân của người đàn ông đó mà Sayaka có thể hỏi được. Lần đầu tiên hai người gặp nhau chính là một đêm cuối đông lạnh giá trước kỳ nghỉ của cô. Tối hôm đó, sau cuộc nhậu, Sayaka vừa vặn bắt kịp chuyến tàu cuối cùng. Trên đường về, cô còn trông thấy cả ánh trăng trong vắt hiếm thấy. Hiện tại, Sayaka đang sống trong một chung cư cũ, phòng của cô có một phòng khách và một phòng bếp, mặc dù khu nhà đã lâu đời nhưng vẫn rất rộng rãi, thoải mái đủ cho cô sống một mình. Chủ nhà trọ hay thích tán chuyện nhưng cũng chưa đến mức ầm ĩ. Vả lại căn nhà đó lại khá gần nhà ga và trước nhà ga lại có một dãy phố mua sắm nhỏ nên có thể nói là trọ ở đấy vô cùng tiện lợi. Sau bữa nhậu, Sayaka đã hơi chếnh choáng say. Cô vừa đi bộ từ nhà ga về vừa ngâm nga một giai điệu yêu thích trong cổ họng. Cô cũng chẳng còn nhớ rõ lời bài hát nữa nên chỉ có thể ngâm nga vài nốt như vậy mà thôi. Thế rồi đến khi gần tới khu nhà trọ, đột nhiên Sayaka nhận ra một thứ. Đó là một chiếc túi rác màu đen to đùng chắn ngay giữa lối đi bộ vốn chỉ vừa một người đi này. Không, chỗ này có phải là bãi rác đâu cơ chứ. Cái túi to như thế kia thì chắc là của công ty, văn phòng nào đó rồi. Chẳng lẽ là người ta lén vứt ra đây? Vừa nghĩ như vậy, Sayaka vừa chậm rãi tiến lại gần. “Oaaaaa!” Một tiếng hét thất thanh vang lên, phá vỡ sự tĩnh lặng của khu phố về đêm, tiếng hét ấy cũng không hợp với một cô gái trẻ chút nào. Hét lên một tiếng, Sayaka vội vàng lùi về sau. Bên trong cái túi ấy… vậy mà lại có một con người. Đó là một người đàn ông tầm tuổi cô đang cuộn tròn trong đó, cùng với một cái ba lô sau lưng. Anh ta ch… chết rồi sao? Nếu là có một xác chết ngay trước nhà trọ thế này thì cô phải báo cảnh sát thôi. Trong con say, Sayaka lấy hết dũng khí duỗi cánh tay về phía trước, dùng ngón tay trỏ của mình khẽ chạm vào má người đàn ông. Còn ấm. Dường như cảm giác được có người đang chạm vào mình, người đàn ông nhẹ nhàng mở mắt ra. Ôi Chúa ơi, anh ta đẹp trai quá đi. “Cái đó…” Sau một hồi bối rối, Sayaka cũng quyết định lên tiếng. “Có chuyện gì với anh vậy?” Người đàn ông chớp đôi mắt còn ngái ngủ đáp: “Tôi bị lả đi.” “Vậy sao anh ở chỗ này?” “Bởi nếu tôi mà ngất ngay ngoài đường thì sẽ bị chết cóng mất.” “Tại sao ở ngoài đường thì sẽ bị chết cóng chứ?” “Nếu nằm thẳng xuống nền nhựa đường, bê tông hay mặt đất thì cơ thể sẽ bị mất nhiệt. Nằm thẳng xuống đất buổi tối không thích hợp để duy trì thân nhiệt cho con người, thế nên ta cần có thứ gì đó ngăn cách ở giữa.” “Thế tại sao anh lại bị lả đi?” “Tôi đói quá. Không thể đi thêm một bước nào nữa.” “Tiền của anh đâu?” “Tôi bây giờ không còn một xu dính túi.” “Hả… đáng thương quá.” Người đàn ông ấy không khiến Sayaka cảm thay phải cảnh giác, thậm chí cô còn ngồi xổm xuống trước mặt anh ta. Ngay lập tức, người đàn ông ấy đặt tay trên đầu gối cô và: “Tiểu thư, liệu cô có thể thu nhận tôi được không?” Nhìn cứ như là một chú chó đang duỗi chân trước chủ vậy. Vừa nhìn bàn tay đặt trên đầu gối mình, Sayaka vừa nghĩ như vậy. Và bất giác, cô lại thốt lên: “Thu nhận… sao lại giống thu nhận mấy con cún ngoài đường vậy chứ?” Nói rồi, Sayaka còn cười khanh khách. Thấy vậy, người đàn ông lại nói tiếp: “Tôi sẽ không cắn người và rất ngoan đấy.” “Đủ rồi đấy.” Giờ nghĩ lại thì chắc hẳn lúc đó cô đã say đến không biết gì rồi. Đế bố mẹ ở quê nghe được chuyện cô đưa một người đàn ông xa lạ về phòng thì họ giết cô mất. Thế nhưng, trông anh ta thực sự là đã đói lả đi rồi, khi về được đến phòng của cô ở tầng một thì anh ta cũng chẳng còn tí hơi sức nào nữa cả. “Anh không sao chứ? Đừng có ngã ra đấy!” Bản thân Sayaka cũng phải đỡ ở một bên rồi nhanh chóng đưa anh ta vào phòng khách của mình. Trước hết phải cho anh ta ăn thứ gì đó mới được. Mặc dù nghĩ vậy, nhưng Sayaka lại là kiểu người không hay nấu ăn ở nhà. Giờ trong nhà cô cũng chỉ có mấy hộp mì ăn liền cô mua trữ sẵn từ trước. Nấu một cốc mì trong ba phút, Sayaka mang ra ngoài cho người đàn ông, ngay lập tức, anh ta đã nhận cốc mì với vẻ biết ơn vô cùng. “Giờ bất cứ thứ gì với tôi đều là món ăn ngon cả.” Anh ta nói một câu thật khó chịu, nhưng xét đến việc anh ta vừa đói đến lả người thì Sayaka lại tạm thời bỏ qua cho lần này. “Anh có đi tắm không?” “A, tuyệt quá. Người tôi đang lạnh cóng rồi.” “Vậy anh cứ ăn trước đi. Tôi đi tắm trước đã.” Giờ nghĩ lại thì hành động lúc đó của cô… cũng chẳng có tí cảnh giác nào cả. Để một người đàn ông xa lạ vào phòng, lại còn để đồ đạc, tài sản ở ngoài như thế mà yên tâm đi tắm nữa chứ. Lúc đi tắm, Sayaka còn nghĩ được là đã uống khá nhiều thì hay là chỉ tắm vòi hoa sen thôi, không cần ngâm mình nữa, nhưng chuyện mà một cô gái trẻ nên nghĩ lúc ấy cũng không phải là chuyện này. May mà “chú cún” mà cô nhặt về đúng là “không cắn người và rất ngoan”, thế nên cuối cùng cũng không có chuyện gì xảy ra. Đợi khi Sayaka ngâm mình xong đi ra ngoài thì chú cún lớn đã quỳ trên sàn, cúi đầu thật sâu với cô. “Cảm ơn vì bữa ăn.” Đúng là anh ta đã quá đói, đến mức anh ta còn uống hết cả nước súp mì nữa. “Xin lỗi vì chỉ có mỗi mì cốc cho anh. Nước nóng thì tôi xả sẵn ra rồi đấy.” “Tôi xin phép mượn một lát.” “Anh có đồ ngủ không?” “Tôi có đồ lót. Còn đi ngủ thì tôi vẫn mặc nguyên mấy bộ thế này” “Vậy sao. Thế thì…” Nửa năm trước Sayaka mới chia tay người yêu. Cô lôi từ trong tủ ra một túi quần áo của người yêu cũ mà lúc trước cô đã nhét xuống tận đáy tủ. Mặc dù lúc đó cô đã phân nó ra thành rác tái chế, thế nhưng cô lại quên mất ngày vứt rác tái chế và cứ thế nhét nó trong tủ cho tới tận bây giờ. (Dù sao thì một tháng cũng chỉ có hai ngày để vứt loại rác này thôi mà.) “Nếu anh không ngại quần áo cũ thì cứ lấy mà dùng. Trong này có nhiều áo phông, áo nỉ lắm, cũng toàn là áo free size cả.” “Cái đó…” Trông Sayaka cũng chẳng có vấn đề gì cả, thế nhưng chú cún ngoan của cô thì lại khá ngại ngùng. “Tôi dùng chúng không sao chứ?” “Không sao đâu. Đây là quần áo của bạn trai cũ đã chia tay cả nửa năm nay rồi. Tôi cũng giặt sạch, gấp gọn chúng rồi mà. Chỉ là để nó bên ngoài hơi vướng nên tôi mới nhét vào trong tủ thôi. Sau đó thì tôi lại quên mất ngày vứt rác tái chế thành ra cứ để cái bọc này ở đây nửa năm rồi. Nó cũng chỉ là bọc quần áo bình thường thôi. Anh không cần phải để ý đâu, chú cún của tôi ạ. Anh mà dùng chúng giúp tôi thì tốt quá ấy chứ?” “Vậy tôi xin cảm ơn cô.” Vừa nói, người đàn ông vừa mở bọc quần áo và lấy một bộ đồ thun ra làm quần áo ngủ, rồi lại lấy đồ lót và bàn chải, khăn mặt trong ba lô của mình ra và đứng dậy đi về phía nhà tắm. “Dầu gội, sữa tắm anh cứ dùng thoải mái, cả khăn tắm nữa. Nhưng nếu anh muốn dùng máy giặt thì để ngày mai nhé. Giờ cũng khá muộn rồi.” “Vâng, cảm ơn cô.” Anh ta đã nói cảm ơn đến ba lần rồi. Và tối hôm đó, trước khi người đàn ông đó tắm xong, Sayaka đã đi về phòng và ngã nhào lên giường. Sáng hôm sau, khi cô thức dậy thì đã thấy mình nằm trong chăn ấm đệm êm rồi. Sao cô không nhớ gì về chuyện mình đã chui vào trong chăn nhỉ. “A, chào buổi sáng. Cô dậy rồi sao?” Nhìn thấy người đàn ông đứng trong bếp, Sayaka bỗng thấy bối rối. Thấy Sayaka như vậy, người đàn ông vội vàng rụt vai lại nói: “Bình tĩnh, cô đừng hét lên nhé. Hôm qua cô đã đồng ý cho tôi ở đây rồi đấy nhé. Nếu cô không nhớ thì tôi sẽ giải thích lại.” Tôi bị lả đi. Liệu cô có thể thu nhận tôi được không? Tôi không cắn người và sẽ ngoan. Lúc này, ký ức tối hôm trước lần lượt ùa về và Sayaka lại phá lên cười. Thấy cô như vậy, người đàn ông cũng thở phào một hơi. “May quá. Tôi còn tưởng sẽ bị đưa lên đồn cảnh sát vì tội đột nhập nhà dân chứ.” “Được rồi, thế anh đang làm gì thế cún con?” “Trước hết cô cứ rửa mặt đi đã. Tôi tỉnh dậy trước nên có mượn nhà tắm của cô một lúc rồi.” Lúc này, Sayaka lại ngửi thấy mùi canh miso thơm nức mũi. “Cơm sáng… trong nhà tôi có thứ gì có thể nấu được cơm sáng sao?” “Mà bất ngờ thật đây, tủ lạnh của cô trống trơn chẳng khác nào tủ lạnh của một người đàn ông độc thân cả. May mà gia vị thì vẫn có. Tôi có mượn chút hành tây và trứng sắp hỏng của cô để nấu ăn.” “Hành!? Tôi có thứ đó ở trong nhà sao?” Trứng thì cô còn nhớ. Khoảng mười ngày trước đột nhiên cô muốn ăn món cơm trứng sống nên đã đi cửa hàng tiện lợi mua một giỏ sáu quả về. Thế nhưng, hành tây thì lần gần đây nhất khi cô mua hành cũng phải từ một tháng trước rồi. “Vần còn một củ héo quắt như thể bị chủ nhà bỏ quên nằm trong một góc. Nó cũng mọc mầm rồi, nhưng vẫn còn dùng được một chút. Nhân tiện, món cá muối Tsukudani của cô để tận trong cùng ấy, thời gian lâu nó chảy nước ra nên tôi vứt nó đi rồi.” “Ngại quá…” Xấu hổ bước xuống giường, Sayaka chợt nhận thấy một chiếc túi ngủ được trải trong phòng khách bên cạnh. “Cái gì thế này? Anh bảo là lả đi mà còn có cả túi ngủ thế này á?” “Thì tôi đói quá, chẳng còn tí sức nào để lôi nó ra khỏi ba lô cả. Tối hôm qua mặc dù chỉ có một cốc mì nhưng ít nhất tôi cũng được cô cho ăn nên mới có sức để kéo chăn đệm giúp cô đấy.” Hóa ra cô được nằm chăn ấm đệm êm ngủ ngay ngắn trên giường hôm qua là nhờ chú cún ngoan này sao? “Cảm ơn, cảm ơn anh…” Sao càng lúc cô càng cảm thấy xấu hổ thế này? Chờ khi Sayaka đánh răng rửa mặt xong thì trên chiếc bàn thấp ở phòng khách đã bày bữa sáng nóng hổi rồi. “Tôi có mượn dùng nồi niêu, bát đũa của cô một chút.” “A vâng, anh cứ dùng tự nhiên.” Vừa nói, Sayaka vừa ngồi xuống chỗ mà người đàn ông kia chỉ. Còn anh ta đang ngồi ở ghế gần bếp nhất. Nhìn thấy cảnh này, Sayaka lại có cảm giác giống như một bầu không khí gia đình vậy. Mời các bạn đón đọc Evergreen Love: Từ Điển Tranh Về Thực Vật của tác giả Hiro Arikawa & Như Nữ (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Mảnh Trò Đời - Steve Toltz
"Một mảnh trò đời" được đánh giá là tác phẩm nặng ký của một nhà văn trẻ từng gây xôn xao văn đàn thế giới và sau đó được lọt vào danh sách shortlist của giải Man Booker 2008.  Các nhà phê bình đã từng có những lời khen tặng dành cho cuốn tiểu thuyết như: “hài hước vô biên,” "một quyển sách có thể chứa đựng bí mật cuộc đời,” “một chiếc tàu lượn nhào lộn điên loạn,” "Nghìn lẻ một đêm thời hiện đại”… Đó là những đánh giá dành cho cây bút người Úc sinh năm 1972, Steve Toltz. Chuyện sống không giống ai "Một mảnh trò đời" là câu chuyện về những nhân vật bất bình thường sở hữu những ý tưởng ngỡ như điên rồ sống một cuộc đời không giống ai. Câu chuyện diễn ra qua lời kể của hai cha con Martin Dean và Jasper Dean. Người cha Martin luôn có những suy nghĩ khác người, từng vào viện tâm thần và sau đó sống cuộc đời ẩn dật tại một căn nhà giấu trong một mê cung.  Các dự án kì lạ của ông đã giúp ông được nước Úc tung hô như anh hùng, nhưng cũng chính các dự án đó đã đẩy ông xuống vực sâu, phải trốn chạy khỏi nước Úc. Cậu con trai Jasper, chịu sự dạy dỗ khác người của bố từ bé, phải vật lộn chứng tỏ bản thân để thoát khỏi cái bóng của bố mình, chỉ để rồi sau đó nhận ra ông thật đáng thương và cậu yêu ông xiết bao.  Người gắn kết hai cha con là Terry Dean, em trai của Martin, một tên tội phạm khét tiếng của Úc, phạm tội với mục đích duy nhất là... làm trong sạch ngành thể thao! Cuốn sách đưa người đọc vào một chuyến phiêu lưu trên một phạm vi rộng lớn, và nhiều hoàn cảnh lạ lùng. Từ một vùng đất hoang xơ của xứ sở chuột túi đến thủ đô Paris phóng túng, tới những cánh rừng tại đất nước Thái Lan, đặt chân tới một mê cung kỳ quái, nhà thương điên, thâm nhập vào hang ổ tội phạm, cho tới chuyến vượt biên khủng khiếp lênh đênh trên biển...  Toàn bộ tạo ra một cơn lốc xoáy của các sự kiện, người đọc bị hút sâu vào một thế giới đầy rẫy những điều lập dị, kỳ quái. Gia đình nhà Dean bị cười chê bởi họ không suy nghĩ như đám đông, không hành động như đám đông.  Các nhân vật rất khác với số đông. Song có vẻ như chính cái số đông cho mình là bình thường mới là những kẻ đầu óc có vấn đề. Đó là số đông mù quáng khi tung hô những tên tội phạm lên thành anh hùng.  Đó là số đông vô cảm hau háu trước các tin tức giật gân, được đáp ứng bằng một bộ phận truyền thông sẵn sàng vào cuộc moi móc chuyện đời tư của người khác. Và khi giá trị giải trí không còn, số đông đó sẽ không ngần ngại tống những kẻ suy nghĩ ngược lại với họ vào tù, hoặc nhà thương điên. Truyện đặt ra nhiều câu hỏi như xã hội có thể chấp nhận sự khác biệt của các cá thể trong nó đến mức độ nào? Và mỗi con người có cần gò mình vào khuôn khổ để được chấp nhận, nếu không muốn đứng ngoài cuộc chơi? Câu hỏi đó đeo đẳng hai cha con Martin và Jasper suốt cuộc đời.  Những triết lý thấm thía Trong khi người bố quyết định sẽ làm kẻ khác người đến phút chót, thì cậu con trai, trước khi bước vào cuộc phiêu lưu của đời mình, lại lưỡng lự: “…khi bạn là đứa trẻ, để ngăn bạn làm theo số đông, bạn sẽ bị phủ đầu với câu: “Nếu mọi người nhảy khỏi cầu, con cũng làm thế ư?” nhưng khi bạn là người lớn và sự khác người bỗng dưng trở thành một cái tội, thì người ta hình như hay nói: “Này. Mọi người đang nhảy khỏi cầu. Sao cậu không làm đi?”” Tác giả Steve Toltz đã đặt những vấn đề đó vào một tác phẩm có thể ví như bữa tiệc thịnh soạn của ý tưởng và ngôn từ. Viết về những điều khác thường, người viết phải có một trí tưởng tượng cực kì phong phú.  Những ý tưởng sáng tạo và cách kể chuyện hài hước khiến câu chuyện lôi cuốn ngay từ đầu. Toltz gây tò mò với những sáng kiến kì dị: lập ra liên minh dân chủ tội ác, xuất bản cẩm nang tội ác cho tội phạm, xây nhà trong mê cung, biến tất cả những người Úc thành triệu phú…  Những suy nghĩ quái chiêu sẽ làm bạn đọc không nhịn được cười: “Anh sẽ ngạc nhiên khi biết nhiều tên trộm đã cởi găng tay ra để ngoáy mũi. Tôi muốn nhấn thật mạnh điều này: Đừng để dấu vân tay lại bất kì đâu! Ngay cả trong mũi của anh!” "Một mảnh trò đời" mang đầy hài hước, tốc độ ngôn từ nhanh khiến cho người tiếp nhận trước nhiều điều lạ lẫm ngày từ những gì ngỡ bình thường và thấy không thể tưởng tượng được mình đã buồn cười thế nào. Dịch giả Thi Trúc là dịch giả của hai tác phẩm văn học nổi tiếng là "Cọp trắng" (Aravind Adiga – giải Man Booker 2008) và "Bà Mụ" (Chris Bohjalian) chia sẻ rằng chị đã cố gắng chuyển thể tác phẩm thật sát với cách thể hiện trong nguyên tác với hy vọng bạn đọc cảm nhận được văn phong của tác giả và sự thú vị trong lối hành văn độc đáo. *** Cuốn tiểu thuyết từng lọt vào chung khảo giải Man Booker của nhà văn Úc Steve Toltz. Một ký ức tuổi thơ khác thường đầy chấn động của Jasper Dean. Ở đó, có sự thất bại triền miên của người cha, sự vắng mặt bí ẩn của người mẹ và người chú là kẻ phạm tội khét tiếng. Một tiểu thuyết nhiều cung bậc, tràn trề trải nghiệm, từ các xó xỉnh tận cùng đến những đỉnh cao thăng hoa, từ bần cùng tuyệt vọng đến sự thanh thoát cao cả. Tất cả trộn lẫn trong một giọng văn hài hước đến chua chát. Gia đình tỉnh táo nào cũng giống nhau - nhưng mỗi gia đình điên rồ lại điên rồ theo một cách khác nhau. Khi hồi tưởng những sự kiện bất thường dẫn đến cái chết ngoạn mục của người bố tên Martin, Jasper Dean đã kể lại chính tuổi thơ đầy rẫy những kế hoạch điên khùng và phát hiện chấn động - về ông chú tội phạm đầy tai tiếng Terry Dean, người mẹ vắng mặt một cách bí ẩn của anh ta, và thất bại triền miên của Martin trong nỗ lực để lại dấu ấn trên cõi đời. Từ rừng rú nước Úc đến Paris phóng túng, từ những cánh rừng của Thái Lan đến các mê cung, nhà thương điên, và hang ổ tội phạm, và từ đỉnh cao của mối tình đầu đến vực sâu của tham vọng bất thành, “Một mảnh trò đời” là một cuộc phiêu lưu khó quên. *** Steve Toltz là một tiểu thuyết gia người Úc. Anh sinh năm 1972 ở Sydney. Tiểu thuyết đầu tay của Toltz là A fraction of the whole (xuất bản ở Việt Nam dưới tên Một mảnh trò đời) đã đoạt giải Man Booker năm 2008. Toltz đã từng học tại trường Knox Grammar School, Killara High School và tốt nghiệp trường đại học Newcastle, ở New South Wales vào năm 1994. Vì sự nghiệp văn chương của mình, anh đã từng chuyển đến sống ở Montreal, Vancouver, New York, Barcelona và Paris, với nhiều công việc khác nhau như: quay phim, tiếp thị viễn thông, bảo vệ, thám tử tư, giáo viên tiếng Anh và biên kịch phim. Toltz đã cưới nữ họa sĩ đầy triển vọng mang trong mình hai dòng máu Pháp-Úc Marie Peter Toltz vào năm 2005. Họ sinh được một người con trai vào năm 2012. Trong một lần trả lời phỏng vấn cho trang The Book Depository, Toltz cho biết với anh, việc khó khăn nhất trong quá trình viết một cuốn sách chính là: chờ đợi cho đến khi khả năng bản thân bắt kịp được tham vọng của mình. Anh đã mất 5 năm để viết tiểu thuyết đầu tay A fraction of the whole. Khi sáng tác, Steve viết tay liên tục trong hai tiếng đồng hồ và mục tiêu của anh là cố gắng hết mức để mỗi ngày có thể viết càng nhiều những lần hai tiếng càng tốt. Vào buổi tối, nếu như có tinh thần kỉ luật, Toltz sẽ đánh máy lại tất cả những gì mình đã viết vào buổi sáng. Nếu như không có được tinh thần tự giác kỉ luật ấy, mà tình trạng này thường xuyên xảy ra nhiều hơn là có, những bản viết tay sẽ chất chồng, sau đó Toltz phải dành toàn bộ những ngày riêng rẽ chỉ để chuyển thứ mình đã viết lên máy tính. Thường thì chữ viết tay của anh rất khó đọc và anh phải cố gắng để đoán xem mình đã viết gì. Những lúc không viết, sở thích của Toltz khi rảnh rỗi là: đọc sách, chơi guitar, đi bộ, xem phim… Những tác giả mà anh yêu thích là: Knut Hamsun, Dostoyevsky, E.M. Cioran, Henry Miller, Raymond Chandler, Roberto Bolano, Celine, Thomas Bernhard. Những tác phẩm mà anh yêu thích phần lớn cũng là những tác phẩm do các tác giả kể trên viết. Tuy nhiên, có một số tác phẩm khác anh yêu thích như: Winsberg, Ohio của Sherwood Anderson; A hero of our time của Lermontov; Revolutionary Road của Richard Yates; Moravagine của Blaise Cendrars.   Mời các bạn đón đọc Một Mảnh Trò Đời của tác giả Steve Toltz.
Đêm Trắng - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Đêm Trắng là cuốn tiểu thuyết của nhà văn Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (một cây đại thụ trong văn học Nga thế kỷ thứ 19) viết về một mối tình lãng mạn cao thượng và trong trắng đến nao lòng, diễn ra trong những đêm trắng thơ mộng bên bờ sông Neva ở thành phố Sankt Peterburg. Đêm Trắng kể về sự gặp gỡ giữa một người đàn ông 26 tuổi, là người mơ mộng và cô gái Naxtenca 17 tuổi mộng mơ hơn hẳn người mơ mộng kia. Họ vô tình gặp nhau và cùng nhau thoát ra khỏi những vỏ bọc, thế giới cô độc của riêng mình, cùng được chia sẻ và thương yêu. Lần đầu tiên người đàn ông nhìn thấy Naxtenca là khi cô đang đứng bên đường và khóc một mình vì nỗi buồn nào đó khi trời đã về khuya. Có điều gì đó đặc biệt ở cô gái này khiến ông rất tò mò. Ông giải thoát cô khỏi một kẻ quấy rối. Họ quen nhau và cùng chuyện trò trong 4 đêm trắng... *** Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky (thường phiên âm là "Đốt-xtôi-ép-xki") là nhà văn nổi tiếng người Nga, sinh ngày 11 tháng 11, 1821 và mất ngày 9 tháng 2 (lịch cũ: 28 tháng 1), 1881. Cùng với Lev Tolstoy, Dostoevsky được xem là một trong hai nhà văn Nga vĩ đại thế kỷ 19. Các tác phẩm của ông, như Anh em nhà Karamazov hay Tội ác và hình phạt đã khai thác tâm lý con người trong bối cảnh chính trị, xã hội và tinh thần của xã hội Nga thế kỷ 19. Ông được giới phê bình đánh giá rất cao, phần lớn xem ông là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20, chẳng hạn, Walter Kaufman xem Bút ký dưới hầm là "tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh tuyệt vời nhất từng được viết". Tuy nhiên ở Liên Xô, sau Cách mạng tháng Mười, người ta hầu như phủ nhận toàn bộ các sáng tác của Dostoevsky. Từ 1972, tác phẩm của Dostoevsky mới được nhìn nhận lại và đánh giá đúng mức ở quê hương của mình. Tại Việt nam, các tác phẩm của ông được xuất bản với tên Fyodor Mikhailovich Dostoevsky, một số như: Tội Ác Và Sự Trừng Phạt Đêm Trắng Là Bóng hay Là Hình Bút Ký Dưới Hầm Anh em nhà Karamazov Lũ Người Quỷ Ám Gã Khờ ... *** Đó là một đêm kì diệu, một đêm mà có lẽ chỉ có thể có được khi chúng ta còn trẻ, hỡi bạn đọc thân mến. Bầu trời đầy sao, một bầu trời lộng lẫy đến mức ngước nhìn lên nó ta phải bất giác tự hỏi mình: chẳng lẽ những con người cau có, trái tính trái nết đủ loại lại có thể sống dưới một bầu trời như thế? Đây cũng là một câu hỏi của tuổi trẻ, hỡi bạn đọc thân mến, một câu hỏi rất trẻ, nhưng cầu xin Đức Chúa Trời ban cho bạn thường xuyên hơn câu hỏi ấy!.. Còn nói về những quý ngài trái tính trái nết và cau có đủ loại thì tôi không thể không nhớ lại cách xử sự hợp lẽ của tôi trong cả ngày hôm đó. Ngay từ sáng sớm tôi đã bị một nỗi buồn kì lạ hành hạ. Tôi bỗng nhiên có cảm giác rằng tôi, một kẻ cô đơn, đang bị tất cả bỏ rơi, xa lánh. Tất nhiên, bất kì ai cũng có quyền hỏi: tất cả là ai? Bởi vì tôi sống ở Peterburg 1 đã tám năm nay mà hầu như chưa hề làm quen được với một người nào. Nhưng tôi phải làm quen để làm gì? Không có việc đó thì cả thành phố Peterburg cũng đã quen thuộc với tôi rồi; mà chính vì thế nên tôi mới cảm thấy tất cả đều bỏ rơi tôi khi toàn bộ thành Peterburg bỗng đột ngột kéo nhau ra các nhà nghỉ ngoại thành. Ở lại một mình tôi rất sợ, và suốt ba ngày dài tôi lang thang khắp thành phố trong nỗi buồn nặng nề và tuyệt nhiên không hiểu cái gì đang xẩy ra với mình. Dù xuôi đại lộ Nevxki, dù vào công viên hay lang thang dọc con đường bờ sông - không một khuôn mặt nào tôi vẫn quen gặp ở những nơi đó vào một giờ nhất định trong suốt cả năm qua. Tất nhiên mọi người không biết tôi, nhưng thôi lại biết họ. Tôi biết họ khá rõ; tôi gần như đã nghiên cứu từng khuôn mặt họ - tôi thích thú ngắm nhìn họ khi họ vui vẻ, và tôi buồn khi họ rầu rĩ u ám. Tôi gần như đã kết bạn với một ông mà tôi vẫn gặp hàng ngày vào một giờ nhất định ở Đài Phun Nước. Ông ta có vẻ mặt trang trọng, trầm tư, lúc nào cũng lẩm bẩm nói chuyện một mình và vung vẩy tay trái, còn trong tay phải là cây gậy dài có nhiều mấu, tay cầm bịt vàng. Ông ta thậm chí đã nhận ra tôi và tỏ vẻ thân thiện đối với tôi. Nếu như vào cái giờ nhất định đó mà tôi không có mặt ở cạnh Đài Phun Nước thì chắc là ông ta cảm thấy buồn. Chính vì vậy mà có khi chúng tôi đã gần như nghiêng người chào nhau, nhất là vào những hôm cả hai thấy trong lòng sảng khoái. Một lần cách đây không lâu, suốt hai ngày chúng tôi không gặp nhau, đến ngày thứ ba vừa trông thấy nhau chúng tôi đã suýt túm lấy vành mũ, nhưng kịp nhớ lại và hạ tay xuống, đi ngang qua nhau với mối đồng cảm trong lòng. Cả những ngôi nhà cũng quen biết tôi. Khi tôi đi ngang qua, chúng dường như chạy ra đón gặp, nhìn tôi bằng tất cả các cửa sổ và hình như nói với tôi: "Chào anh, sức khoẻ anh thế nào? Còn tôi, nhờ trời vẫn khoẻ, đến tháng Năm này tôi sẽ có thêm một tầng nữa". Hay là: "Anh có khoẻ không? Còn tôi ngày mai sẽ được sửa chữa". Hoặc: "Hôm rồi tôi suýt cháy rụi, làm tôi sợ quá", và vân vân... Trong số đó có những ngôi nhà tôi yêu thích, có những ngôi nhà là bạn thân thiết của tôi; có một ngôi nhà mùa hạ này sẽ nhờ kiến trúc sư chạy chữa. Tôi sẽ cố hàng ngày ghé qua thăm để người ta, cầu chúa ban ơn, chạy chữa cho nó đến nơi đến chốn... Và không bao giờ tôi quên câu chuyện xảy ra với ngôi nhà nhỏ màu hồng tươi cực xinh xắn. Đó là một ngôi nhà bằng đá dễ thương, đối với tôi hết sức niềm nở và nhìn những hàng xóm xấu xí của mình kiêu hãnh đến mức mỗi khi đi qua nó tôi thấy tim mình rộn lên vui sướng. Bỗng nhiên tuần trước khi đi trên phố, vừa nhìn thấy người bạn quen thì tôi chợt nghe một tiếng kêu não ruột: "Mà người ta sắp quét sơn vàng lên tôi đấy!" Quân độc ác! Lũ người man rợ! Họ không thương tiếc một cái gì hết: cả những dãy cột tròn, cả những mái đua, và người bạn của tôi vàng ệch ra như một con chim hoàng yến. Tôi suýt lộn ruột lên vì chuyện ấy và đến giờ không dám đến nhìn lại mặt người bạn đáng thương dị dạng của tôi đã bị trét lên cái màu của các hoàng đế Trung Hoa. ... Mời các bạn đón đọc Đêm Trắng của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.
Chim - Daphne Du Maurier
Nhờ óc tưởng-tượng phong-phú, bà thành công dễ dàng với loại truyện ly-kỳ, rùng rợn. Tuy ưa viết truyện quái-dị, bà không phiêu lưu đến lãnh-vực thần-kỳ, hoang-đường mà chỉ căn cứ trên nhận xét và thực-nghiệm. Bút pháp giản-dị nhưng đôi khi hơi cẩu-thả. Truyện “Chim” (“The Birds”) sau đây cũng được Hitchcock đem quay thành một cuốn phim nổi tiếng. *** Nữ văn sĩ người Anh Daphné du Maurier (1907 - 1985) sinh ở Luân Đôn trong một gia đình giàu truyền thống về nghệ thuật và văn chương. Bà là con gái một tài-tử trứ danh, Sir Gerald du Maurier, cháu nội một cây bút hí-họa rất được độc-giả tờ Punch mến chuộng, George du Maurier. Thuở nhỏ bà học ở nhà, sau sang Paris học thêm . Năm 1932, bà lấy chồng là trung tá F.A.Browning, người sáng lập và tổ chức các đội quân nhảy dù. Họ có ba người con : Tessa, Flavia và Christia. Cả gia đình sống hạnh phúc ở Menabilly. Sự nghiệp văn học của bà bắt đầu lừ năm 1931 với cuốn tiểu thuyết đầu tay “The Loving Spirit ” (Sợi dây tình). Nhờ trí tưởng tượng phong phú, bà thành công dễ dàng với loại truyện ly kỳ, rùng rợn. Daphne bắt đầu nổi tiếng từ cuốn Jamaica Inn (1936), đến cuốn Rebecca (1938) thì tiếng tăm bà lừng lẫy, truyện được dịch ra trên hai mươi ngoại ngữ và được Hitchcock đem quay thành phim, Sir Laurence Olivier thủ vai chính. Với cuốn My Cousin Rachel bà nỗi tiếng là Jane Eyre của thế-kỷ thứ XX. Những tác phẩm nổi tiếng khác của bà phải kể đến: Jeanesse perđue (Tuổi thanh xuân đã mất), “Le général du roi” (Viên tướng nhà vua - Thiếu nữ tật nguyền thời ly loạn), Ma cousine Rachel (Người em họ Rachel của tôi)... Năm 1969, bà được Nữ Hoàng Elisabeth II sắc phong vào hàng quý tộc với tước "Dame Commander of the Order of the British Empire" (DBE), được vinh-dự đặt chữ "Dame" trước bút hiệu (ngang với chữ "Sir" dành cho nam phái). *** Mồng ba tháng chạp, trời đổi gió nội trong một đêm, mùa đông đã đến. Trước đấy, trời còn giữ tiết thu ngọt ngào, êm dịu. Lá vàng úa đỏ còn vương vấn trên cây và hàng dậu vẫn xanh tốt. Cầy đất lên còn thấy màu mỡ. Là một thương binh, Nat Hocken được trợ cấp, không phải làm việc cả tuần. Anh chỉ đến trại làm có ba ngày một tuần, lại được phó thác những công việc nhẹ nhàng : làm hàng rào, lợp mái ra., sửa chữa lặt vặt nhà cửa. Tuy có gia đình, vợ con đông đủ, nhưng tính anh ưa cô tịch, chỉ thích làm việc một mình. Anh khoan khoái khi được giao cho việc xây đắp bờ lạch hay sửa sang một cái cổng ở mãi tận cuối bán đảo, nơi biển bao bọc quanh trại. Anh cắm cúi làm việc đến trưa thì nghỉ tay ăn chiếc bánh nướng nhân thịt do vợ làm, ngồi trên mép ghềnh đá, vừa ngắm chim bay vừa nhấm nháp. Mùa thu là mùa tuyệt nhất, tuyệt hơn cả mùa xuân. Mùa xuân, chim bay vào lục địa có mục đích, xăm xăm, chúng biết chúng phải tới đâu đúng hạn kỳ, không được chậm trễ. Mùa thu, những con nào không thiên di cũng vẫn bị bản năng thôi thúc và vì không được di chuyển nên tự bầy đặt ra một đường hướng sinh hoạt riêng. Từng đoàn lũ đông đúc chúng bay đến bán đảo thoăn thoắt, bồn chồn, tiêu hao sức lực, lúc thì lượn vòng trên trời, lúc thì là là kiếm mồi trên những mảnh đất mới cầy xới, nhưng ngay cả khi chúng rỉa mồi ta có cảm tưởng chúng ăn không phải vì đói, vì thèm. Rồi trạng thái bồn chồn lại thúc bách chúng phải cất cánh bay vụt lên trời. Trắng và đen, quạ khoang và mòng biển bay chung hỗn độn, kỳ quái, như tìm kiếm một lối giải thoát, không bao giờ vừa ý, không bao giờ đứng im một chỗ. Từng đoàn sáo sậu bay phần phật, như tiếng áo lụa, tới đồng cỏ tươi, cũng bị tiềm năng thúc đẩy sinh hiếu độn, và những loài chim nhỏ hơn, sẻ và chiền chiện, như cũng bị một ma lực bắt phải đậu rải rác trên cây hay trên bờ dậu. Nat ngắm chúng chán lại quay ra nhìn lũ chim biển. Đàn mòng đang đợi nước triều dưới bãi. Chúng kiên nhẫn hơn. Chim bói sò, chim đỏ chân, chim thọc trùn, chim dẽ cùng đứng rình bên bờ nước ; khi biển từ từ hút bờ rồi rút xuống bỏ lại rong rêu và cuội đá, những con chim biển đua chạy trên bãi; Rồi sự thôi thúc của bản năng cũng khiến chúng phải cất cánh. Chúng kêu quang quác, chí chóe, réo nhau, lướt trên mặt bể bình thản rồi bay đi xa. vội vã, gia tăng tốc độ, bay đi mất dạng. Nhưng bay đi đâu và để làm gì ? Sự thôi thúc liên miên của mùa thu không được thỏa mãn đã khiến chúng không cưỡng được phải họp thành đàn lũ, cùng nhau bay lượn, kêu réo. Chúng cần phát tiết những tiềm năng ứ đọng bằng hành động trước khi mùa đông đến. Ngồi trên mép ghềnh đá nhai bánh, Nat nghĩ hẳn vào thu loài chim đã nhận được một mật hiệu báo trước mùa đông sắp đến. Một số lớn sẽ lìa đời. Và củng giống như loài người sợ chết yểu khiến họ hùng hục cắm đầu làm việc hay hóa thành điên khùng, loài chim cũng thế. Mùa thu năm nay lũ chim xao xác tệ, sự xao xác càng dễ nhận vì ngày như đứng lại. Trong khi máy cầy xuôi ngược rẽ những luống đất trên khu đồi phía tây, hình bóng người nông dân cầm lái và cả cái máy đôi khi bị một đám mây lớn toàn chim bay lượn, kêu chí chóe, nhất thời che khuất. Nat chắc chắn năm nay chúng đông hơn mọi năm. Mùa thu nào chúng cũng bay theo máy cầy nhưng chưa bao giờ đông nghịt và om sòm như năm nay. ... Mời các bạn đón đọc Chim của tác giả Daphne Du Maurier.
Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa - K. G. Paustovsky
K.G. Paustovski (31/5/1892- 14/7/1968) là nhà văn Nga rất nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ẩn đằng sau vẻ băng giá bên ngoài, Konxtantin Paustovski sở hữu một tâm hồn Nga tuyệt đẹp với trái tim cháy rực lửa yêu thương. Ông biết rung cảm sâu sắc với cảnh đẹp thiên nhiên và sự hồn hậu của những con người không chỉ của nước Nga mà cả những nơi ông đã đi qua. Hai tập truyện ngắn Bông hồng vàng và Bình minh mưa của Paustovsky mang đến cho độc giả những cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng, một thế giới thanh bình yên ả trước thế chiến thứ II, thế giới của những con người nước Nga bình dị, đôn hậu và lóng lánh chất thơ. Những truyện ngắn như: Tuyết, Chiếc nhẫn bằng thép, Bức điện, Trái tim nhút nhát… được Paustovski diễn đạt bằng lối văn chương giản đơn, dịu dàng như con trẻ, tác giả đã thể hiện được những tình cảm dung dị nhất: tình cảm giữa cha mẹ với con, tình yêu đôi lứa, tình làng nghĩa xóm… của con người nước Nga những năm đầu thế kỷ trước. Bông hồng vàng và bình minh mưa khiến bạn đọc phải giật mình và tự hỏi: thật sự trên đời này vẫn còn những câu chuyện kỳ diệu như thế? Thông qua tác phẩm, Paustovski nhắc nhở chúng ta về những điều đẹp đẽ, những niềm hạnh phúc nhỏ nhắn mà chúng ta đã bỏ quên hay xem như xa xỉ trong cuộc sống vội vã của mình.   *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva - tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng... Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị..., tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. °°° Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev. Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát. Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư". Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác. Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn thành phố này từ đấy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva. Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye. Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau". Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin... Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư. Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời. Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau". Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng". Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm... Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết". Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ. Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống[2]. Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. °°° Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: "Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn". Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn - trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem - tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại "Chú Bé Chăn Bò", "Gió Biển", "Chuyến Xe Đêm", "Người Đầu Bếp Già"... Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người - nhân vật chính - mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái "hư" trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: "Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi". "Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu". "Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi". "Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó." Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự - một bầu trời sống - với muôn vàn vì sao lấp lánh. "Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó". Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài "Những Kẻ Lãng Mạn", "Những Vầng Mây Lấp Lánh", mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: "Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng"... "Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế"... "Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống "thô thiển" và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn... Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn ". Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng "hiện thực xã hội chủ nghĩa" muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp[3]. Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài "Thơ Của Văn Xuôi" đăng trong tạp chí "Ngọn Cờ" (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. "Bông Hồng Vàng" ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí "Tháng Mười"(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết ("Bông Hồng Vàng" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương "Ngôn Ngữ Kim Cương" và "Những Cuốn Từ Điển". Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu... của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong "Bông Hồng Vàng", sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch "Bông Hồng Vàng", tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Chú thích:[1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan [2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố mang tên Konstantin Pautovsky. [3] “Lời Nói Đầu” này được in trong lần xuất bản thứ nhất của bản dịch “Bông Hồng Vàng”. Lần xuất bản thứ hai nó bị bỏ đi, liên quan đến việc tên người dịch bị cấm. Trong lần xuất bản này có một số sửa chữa nhỏ. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa của tác giả K. G. Paustovsky.