Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quả Chuông Ác Mộng

Khi nhìn vào sự điên rồ của thế giới và thế giới của sự điên rồ, chúng ta luôn phải đối diện với câu hỏi: “Thực tại là gì và làm thế nào để chấp nhận nó?” Trong Quả chuông ác mộng, áp lực thực tại đã hủy hoại hoàn toàn Esther Greenwood xinh đẹp và tài năng, đẩy cô vào thế giới trầm cảm, chênh vênh giữa biên cảnh của khát vọng sống và ham muốn chết. Tự tử, một trò chơi u tối khó cưỡng của sợ hãi và tội lỗi, gây nghiện như ma túy, ban đầu chỉ mang tính thử nghiệm - nay vài giọt máu, mai một cơn nghẹt thở, chỉ cốt để xem cảm giác ấy ra sao. Dần dà, nó nhanh chóng bùng phát thành khát vọng điên cuồng của niềm tự diệt *** Đã 56 năm kể từ ngày nữ thi sĩ - nhà văn người Mỹ Sylvia Plath cho ra đời cuốn tiểu thuyết định mệnh Quả chuông ác mộng , một tác phẩm bán tự truyện được phát hành trước vụ tự sát của chính cô chưa đầy một tháng khiến nó mang một màu sắc dự báo đầy ám ảnh. Vì lo sợ cuốn tiểu thuyết có thể tác động tới đời sống của các nhân vật ở ngoài đời, nhà văn ban đầu đã xuất bản Quả chuông ác mộng dưới nghệ danh Victoria Lucas; và phải bốn năm sau cái chết của cô cuốn sách mới được tái bản dưới đích danh Sylvia Plath. Kể từ đó, Quả chuông ác mộng lập tức gây chấn động trong giới độc giả, bán được hàng triệu bản trên khắp nước Mỹ và được đưa vào chương trình giảng dạy phổ thông ở nhiều nơi trên thế giới. Câu chuyện kể về Esther Greenwood, một cô gái trẻ dường như đang đứng trước tương lai trải hoa hồng với công việc thực tập tại một tạp chí danh giá ở New York (Mỹ). Tuy nhiên với bao nỗi lo lắng sợ hãi về vai trò được đòi hỏi ở bản thân đối với gia đình và sự nghiệp, Esther ngày càng cảm thấy bị cô lập khỏi thế giới bên ngoài và dần đánh mất mọi hứng thú và hi vọng, cũng như khả năng thực hiện những nhiệm vụ đơn giản trong cuộc sống thường ngày. Cô bỏ học, bắt đầu tìm cách tự sát, và bị đưa đi chữa trị ở nhiều nhà thương điên. Những sự kiện chính trong truyện đều được rút ra từ chính cuộc đời của nữ nhà văn - công việc biên tập khắc nghiệt tại một nhà xuất bản có tiếng ở New York, ám ảnh tự sát, và những trải nghiệm chữa trị bằng sốc điện thiếu quy chuẩn. Khoảng gần mười năm trước khi sáng tác Quả chuông ác mộng, trong một lá thư gửi người bạn thân Sylvia Plath đã bộc bạch về cuộc vật lộn của mình với chứng trầm cảm: “Cái cách tôi quẩn quanh suốt cuộc đời mình trong bầu không khí loãng thếch dưới quả chuông này quả là khó tin". Quả chuông ác mộng được Công ty cổ phần Sách Tao Đàn và NXB Hội Nhà Văn xuất bản tháng 7.2019 Cả trước và sau Quả chuông ác mộng, hiếm có cuốn sách nào phơi bày những bằng chứng đích xác như thế về bản chất của bệnh tâm thần. Từ đầu truyện, trạng thái cách ly của Esther khỏi thực tại thể hiện rất rõ qua cách cô đón nhận các tác động ngoại lai rất bị động: “Bất chợt tôi cảm nhận được mặt đất dâng lên và đập vào mình. Bùn trào qua kẽ ngón tay...”. Đặc biệt ám ảnh là mỗi khi Esther nhìn vào gương, cô lại thấy hình ảnh ánh xạ kia như một cá thể tách biệt và vô hồn: “Khuôn mặt đang nhìn tôi trong gương giống như đang nhìn qua lưới sắt của phòng giam sau khi bị tra tấn lâu ngày”; “Trong gương phản chiếu hình ảnh tôi với đôi cánh trắng, tóc buộc đuôi ngựa, tái nhợt như hồn ma bồng bềnh giữa khung cảnh bên ngoài”. Plath gọi những cảm xúc này là bị nhốt bên trong một “quả chuông” - biểu tượng cho sự cô lập; chúng mạnh đến mức người ngồi bên trong cảm thấy bất lực trước bất kỳ một quyết định hay nhiệm vụ đơn giản nào của cuộc tồn sinh. Trên thực tế, vào những tháng cuối đời, bệnh trầm cảm đã khiến cho Sylvia Plath không còn khả năng sáng tác bất cứ thứ gì và đẩy cô vào trạng thái bất lực đến điên loạn. Cuối cùng cô đã chọn cách tự sát bằng hơi ga và không may mắn như Esther Greenwood trong sách, Sylvia Plath không bao giờ trở lại cuộc sống đời thường được nữa. Thế nhưng chụp lên quả chuông tâm lý là một quả chuông khổng lồ hơn mang tính xã hội. Phụ nữ Mỹ thời hậu Thế chiến thứ hai, giai đoạn đánh dấu bùng nổ dân số và chủ nghĩa tiêu thụ, được đóng khung trong quan niệm cô ta chỉ có thể trở thành một người phụ nữ đáng mơ ước trong vai trò vợ hiền, mẹ đảm, và phục sức những thứ đồ đắt tiền. Trái ngược với đàn ông, người có thể cùng lúc theo đuổi đam mê, thăng tiến trong sự nghiệp lẫn làm chủ một gia đình thì người phụ nữ chỉ có thể chọn một con đường cho chính mình. Đây chính là chỗ thế giới quan của Sylvia Plath mâu thuẫn với thực trạng xã hội, một phụ nữ đã hình thành tư tưởng nữ quyền từ rất sớm trước khi phong trào nữ quyền của thế kỷ 20 thực sự phổ biến rộng rãi. Trong Quả chuông ác mộng, Sylvia Plath đã gói gọn tư tưởng của mình trong hình ảnh ẩn dụ về cây vả: “Tôi thấy đời mình đang đâm cành trổ nhánh như cây vả xanh tươi trong truyện ngắn đã đọc. Ở đầu mỗi cành, như một trái vả tím mọng, một tương lai tươi sáng đang lấp lánh chào đón tôi. Trái đầu tiên là một người chồng, ngôi nhà và những đứa trẻ, một trái khác là thi sĩ nổi danh, một trái khác nữa là giáo sư kiệt xuất [...] Rồi trên cao, vượt lên những trái vả này là những trái khác mà tôi không thể nào nhận ra. Tôi thấy chính mình đang ngồi trên chạc của cây vả này, người đói lả, chỉ vì không thể quyết định mình sẽ chọn trái nào. Trái nào trong số đó tôi cũng muốn, nhưng chọn một trái nghĩa là bỏ lỡ số còn lại, thế nên tôi ngồi trơ đó, băn khoăn chọn lựa, rồi những trái vả bắt đầu nhăn nheo sạm màu, từng trái, từng trái một rụng rơi xuống chân tôi". Bên cạnh đó, Sylvia Plath còn đưa vào Quả chuông ác mộng yếu tố đồng tính nữ như một phản ứng trước sự thống trị của nam giới. Trong truyện, nhân vật Joan Gilling cũng từng hẹn hò với Buddy Willard, bạn trai cũ của Esther Greenwood. Tuy nhiên về cuối tác giả hé lộ Joan là lesbian và giống như Esther, cô chưa bao giờ thực sự thích Buddy Willard. Yếu tố nữ quyền thể hiện rất rõ khi từ đầu câu chuyện, cả Esther lẫn Joan đều từng đụng độ với những gã đàn ông đểu cáng, hung bạo, ve vãn, thì đến cuối truyện, họ đều được bàn tay hiền hậu của phụ nữ che chở, và Joan thậm chí sinh tình cảm với Esther hay với nữ bệnh nhân Dee Dee: “Một người đàn bà tìm thấy điều gì ở một người đàn bà khác mà cô ta không thấy ở đàn ông? Bác sĩ Nolan ngập ngừng. Rồi bà nói: Sự dịu hiền”. Đối với người ở trong quả chuông thủy tinh, trống rỗng và ngưng đọng như một đứa bé chết non, bản thân thế giới là một cơn ác mộng. Sylvia Plath đã sống giữa cơn ác mộng ấy trong 30 năm ngắn ngủi của đời cô và trút hết những nỗi trăn trở miên trường vào tiểu thuyết duy nhất cô từng viết. Không chỉ dẫn ta đi sâu vào những góc khuất tối tăm của bệnh trầm cảm, Quả chuông ác mộng còn là tâm sự của một phụ nữ với tầm tư tưởng vượt trước thời đại, là tuyên ngôn mạnh mẽ về nữ quyền ngày càng có giá trị giữa thời nay. *** Đó là một mùa hè dị thường, ngột ngạt và oi bức, mùa hè mà người ta đưa vợ chồng nhà Rosenberg lên ghế điện, còn tôi thì chẳng biết mình đang làm gì ở New York nữa. Tôi mù tịt về những vụ hành hình. Ý nghĩ phải lên ghế điện làm tôi phát ốm, nhưng đó là tất cả những gì có thể đọc được từ những tiêu đề giật gân trên báo chí cứ đập vào mắt tôi nơi các góc phố và ở mỗi lối xuống ga tàu điện ngầm ẩm mốc bốc mùi đậu phộng. Chúng chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng tôi không thể không tự hỏi sẽ như thế nào khi các dây thần kinh bị thiêu sống. Tôi nghĩ đó hẳn là điều kinh khủng nhất trần đời. New York quả thực tồi tệ. Tầm 9 giờ sáng, sự tươi mát ẩm ướt giả tạo rỉ ra trong đêm đã tan biến như đoạn kết của một giấc mơ ngọt ngào. Chỉ còn lại vẻ xám xịt dưới đáy các thung lũng hoa cương, những con đường nóng rẫy loang loáng dưới ánh mặt trời, những mui xe kêu ri rỉ và lấp lánh sáng, bụi khô như than đỏ đâm vào mắt, tràn vào tận họng. Tôi vẫn tiếp tục nghe về nhà Rosenberg trên radio nhiều đến nỗi khi ở văn phòng làm việc tôi không thể dứt bỏ nó ra khỏi tâm trí. Cũng giống như lần đầu tiên tôi nhìn thấy xác chết. Nhiều tuần sau, cái đầu thi thể - hay đúng hơn là những gì còn sót lại của nó - cứ lềnh bềnh lên món trứng và thịt nguội trong bữa sáng và đằng sau là gương mặt của Buddy Willard, người phải chịu trách nhiệm vì đã chỉ cho tôi thấy nó đầu tiên. Ngay sau đó, tôi cảm thấy như lúc nào cũng phải mang bên mình cái đầu lâu lơ lửng trên một sợi dây, tựa như một quả bong bóng màu đen không có mũi, hôi mùi giấm. (Tôi biết mình có gì đó không ổn vào mùa hè ấy, bởi lúc nào tôi cũng chỉ nghĩ tới vụ án nhà Rosenberg và tôi ngu ngốc hết mức khi mua một lô quần áo đắt tiền, nhưng không chút tiện dụng nào chỉ để treo đầy tủ, và tất cả những thành công nho nhỏ mà tôi đã hạnh phúc khi gặt hái được ở trường trở nên vô nghĩa hoàn toàn khi đứng trước những cửa hiệu bằng đá cẩm thạch và kính, dọc theo đại lộ Madison.) Tôi phải tận hưởng thời khắc đẹp đẽ của cuộc đời. Tôi phải trở thành đối tượng ghen tị của hàng ngàn nữ sinh viên đại học ở khắp nước Mỹ, những cô gái không có mong muốn gì hơn là được dạo chơi với đôi giày da bóng cỡ số bảy mà tôi đã mua ở hiệu Bloomingdale nhân một lần đi ăn trưa, cùng với chiếc thắt lưng và túi xách đồng màu da đen bóng. Rồi khi ảnh tôi xuất hiện trên tờ tạp chí, nơi mười hai đứa chúng tôi đang làm việc, uống martini ở Starlight Roof, mình mặc áo yếm lấp lánh ánh kim cùng chiếc váy phồng bằng vải tulle trắng, được vây quanh bởi nhóm thanh niên xa lạ với cấu trúc xương kiểu Mỹ, thuê riêng cho những dịp thế này - hẳn mọi người sẽ cho rằng tôi đang quay cuồng thực sự. Họ sẽ bảo, hãy nhìn xem cái gì đang xảy ra ở cái đất nước này. Một cô gái tỉnh lẻ sống ở vùng sâu vùng xa nào đó suốt mười chín năm trời, nghèo đến nỗi không mua nổi một tờ tạp chí, đột nhiên nhận được một học bổng đại học, rồi giành hết giải thưởng này sang giải thưởng khác, và tạo ảnh hưởng ở New York ngon lành như thể lái chiếc xe riêng của mình vậy. Chỉ có điều tôi chẳng lái cái gì cả, kể cả bản thân mình. Tôi chỉ đi từ khách sạn đến nơi làm việc hoặc các bữa tiệc, rồi lại từ các bữa tiệc trở về khách sạn và tiếp tục đi làm như một chiếc xe điện tê cóng. Tôi nghĩ mình cũng có thể bị kích động như phần lớn những cô gái khác, nhưng tôi không thể tự phản ứng lại được. Tôi cảm thấy rất bình yên và trống trải tựa như mắt bão khi di chuyển một cách chậm chạp giữa tiếng mưa gào gió thét xung quanh. Mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn. Chúng tôi vừa đoạt giải trong kỳ thi do một tạp chí thời trang tổ chức dự thi những bài luận, truyện ngắn, thơ và quảng cáo thời trang. Giải thưởng là một công việc ở New York trong vòng một tháng, mọi chi phí đều đã được đài thọ, thêm vào đó là hàng lô hàng lốc những món thưởng khác: vé ba lê, xem trình diễn thời trang, làm tóc tại một tiệm danh tiếng và cơ hội gặp được những người thành đạt trong lĩnh vực mà chúng tôi mơ ước, để nhận được những lời khuyên thích hợp với mình. Tôi vẫn còn giữ cái hộp trang điểm mà họ đã tặng, vốn hợp với một cô nàng mắt nâu tóc vàng: một lọ mascara màu nâu với bàn chải nhỏ xíu, một ô phấn mắt màu xanh hình tròn chỉ vừa đủ lớn bằng đầu ngón tay, và ba thỏi son môi từ đỏ đến hồng, tất cả đều đặt trong một cái hộp nhỏ mạ vàng, mặt trong có kèm gương. Tôi cũng có một cái hộp đựng kính mát bằng nhựa trắng, được khảm xà cừ đủ màu và đính một con sao biển bằng nhựa màu xanh lá cây. Tôi nhận ra rằng việc trao tặng những món quà này chính là cách quảng cáo miễn phí của các doanh nghiệp, nhưng tôi không thể không giữ chúng. Tôi từng hất văng tất cả những món quà trong tầm tay. Suốt một thời gian dài, tôi giấu biệt chúng đi, nhưng rồi khi bình tâm lại, tôi lôi chúng ra và bày khắp nhà. Đôi khi tôi dùng son môi, và mới tuần trước tôi đã cắt con sao biển bằng nhựa khỏi bao kính để làm đồ chơi cho một đứa bé. Cả bọn mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn, cùng một bên dãy ở cùng một tầng gồm các phòng đơn. Phòng nọ kế tiếp phòng kia làm cho tôi nhớ đến các phòng ở ký túc xá. Đây không phải là một khách sạn đúng nghĩa - tôi muốn nói đến khách sạn mà đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn trên cùng một tầng. Khách sạn Amazon này chỉ dành cho phái nữ, phần lớn là những cô gái cùng lứa tuổi tôi, gia cảnh giàu có, mong ước cho con gái mình sống ở một nơi mà bọn đàn ông không thể lui tới và lừa dối được: tất cả bọn họ đều theo học những trường sang trọng chuyên đào tạo thư ký như Katy Gibbs, nơi họ phải mang mũ, tất dài và găng tay đến lớp; hoặc những người vừa tốt nghiệp các trường như Katy Gibbs và trở thành thư ký cho các ủy viên cao cấp, và cứ quanh quẩn ở New York mong tìm được một anh chàng thành đạt nào đó để kết hôn. Với tôi, những cô gái này buồn tẻ một cách khủng khiếp. Tôi thấy họ nằm phơi nắng, vừa ngáp vừa sơn móng tay và cố giữ cho làn da Bermuda rám nắng, nom họ nhạt nhẽo chết đi được. Tôi lân la tán chuyện với một người trong đám, cô nàng cho biết đã chán ngấy những chiếc thuyền buồm, chán ngấy những chuyến du hành bằng máy bay, và cả việc đi trượt tuyết ở Thụy Sĩ vào dịp Giáng sinh lẫn cánh đàn ông ở Brazil nữa. Đám con gái đó làm tôi phát ốm. Họ khiến tôi ghen tỵ nhưng không dám nói thành lời. Mười chín tuổi đầu, tôi chưa từng bước chân ra khỏi New England trừ chuyến đi New York này. Đây là cơ hội lớn đầu tiên của tôi, thế nhưng giờ đây, nó đang như những giọt nước dần dần trôi tuột qua kẽ tay. Tôi nghĩ một trong những phiền nhiễu của tôi chính là Doreen. Tôi chưa từng quen một đứa con gái nào như Doreen. Cô nàng tới từ một trường nữ sinh dành cho giới thượng lưu ở miền Nam. Cô có mái tóc bạch kim bồng bềnh như một cây kẹo bông quanh đầu, cặp mắt xanh như hai viên mã não trong trẻo, cô cứng cỏi, thanh lịch và ương ngạnh, nụ cười giễu cợt luôn nhếch trên môi. Tôi không cho rằng đó là sự cay độc, mà là kiểu giễu nhại, pha chút thần bí, như thể tất cả mọi người xung quanh đều ngốc nghếch và cô ta có thể buông lời bỡn cợt họ bất cứ lúc nào. Doreen để mắt tới tôi ngay lập tức. Cô làm tôi cảm thấy mình sắc sảo hơn mọi người, còn cô lại là con người rất hài hước. Doreen thường ngồi cạnh tôi mỗi lần hội họp và khi những vị khách danh tiếng tới thăm phát biểu, cô ta thì thầm vào tai tôi mấy lời nhận xét châm chọc tếu táo. Cô ta bảo với tôi rằng trường của cô ta rất chú trọng chuyện thời trang. Tất cả nữ sinh phải có túi xách may cùng một loại với quần áo, thành thử mỗi lần thay đồ lại phải đổi túi xách cho phù hợp. Kiểu chi tiết tỉ mỉ này khiến tôi rất ấn tượng. Nó biểu thị một cuộc sống tuyệt diệu, xa hoa mà suy đồi, và thu hút tôi như một thanh nam châm. Lần duy nhất mà Doreen hoạch họe tôi là về chuyện hoàn thành công việc đúng thời hạn. “Cậu đổ mồ hôi cho việc đó làm gì?” Doreen hỏi, cô nàng mặc nguyên bộ đồ bằng tơ màu hồng đào ngả ngốn trên giường tôi, lấy một miếng giấy ráp giũa những móng tay dài vàng khè vì nicotin, trong khi tôi đánh máy lại bài phỏng vấn một tiểu thuyết gia thuộc dạng best-seller. Đó lại là chuyện khác - còn thường thì chúng tôi khoác những bộ quần áo ngủ mùa hè bằng vải bông và áo choàng mặc ở nhà, hoặc có thể là những loại áo dài bằng vải kiểu mặc ngoài bãi biển. Duy có Doreen mới mặc những loại áo cực mỏng hay bằng ren gần như trong suốt, hoặc váy áo màu da, khiến người cô lúc nào cũng lách tách tình điện. Ở cô có một điểm thú vị nữa là luôn phảng phất một mùi mồ hôi hấp dẫn gợi tôi nhớ tới mùi hương khi ta vò nát những chiếc lá dương xỉ hình quạt giữa các ngón tay. “Cậu nên biết mụ Jay Cee sẽ không nổi điên lên nếu cậu gác câu chuyện này đến mai hoặc thứ Hai đâu.” Doreen châm một điếu thuốc và nhả khói chầm chậm qua lỗ mũi, khiến đôi mắt cô trở nên mơ hồ. “Mụ Jay Cee xấu như quỷ,” Doreen lạnh lùng nói tiếp. “Mình dám cá là lão chồng già của mụ phải tắt hết đèn trước khi gần gũi mụ, bằng không lão sẽ phát nôn ngay.” Jay Cee là sếp của tôi, và tôi rất quý bà, bất kể Doreen có nói gì đi nữa. Bà không phải là loại người phù phiếm vẫn thường thấy trên các tạp chí thời trang với hàng lông mi giả và đồ trang sức hào nhoáng. Jay Cee là người có đầu óc, nên vẻ xấu xí của bà xem ra chẳng có gì hệ trọng cả. Bà nói được vài thứ tiếng và biết rõ những tay viết cứng cựa trong nghề. Tôi cố hình dung ra cảnh bà Jay Cee cởi bộ đồng phục cứng nhắc cùng chiếc mũ dự tiệc, lên giường với lão chồng béo ị của bà, nhưng không tài nào hình dung được. Tôi luôn luôn rất khó khăn khi phải tưởng tượng ra cảnh người ta đang ngủ với nhau. Jay Cee luôn muốn dạy dỗ tôi, tất cả những bà lớn tuổi khác mà tôi quen biết đều như vậy, nhưng tôi cho rằng họ chẳng có điều gì để chỉ bảo tôi cả. Tôi đóng nắp máy chữ rồi khóa lại. Doreen cười nhăn nhở: “Thông minh đấy!” Chợt có tiếng gõ cửa. “Ai đấy?” Tôi không buồn đứng dậy. “Betsy đây. Cậu có đi dự tiệc không?” “Chắc có đấy.” Tôi vẫn không ra mở cửa. Betsy được đưa thẳng từ Kansas về đây cùng mái tóc hoe vàng tết kiểu đuôi ngựa và nụ cười kiểu những cô nàng thiện tâm. Tôi nhớ một lần hai đứa chúng tôi được mời tới văn phòng của một đạo diễn truyền hình mặc bộ đồ sọc, để xem thử có góc độ nào nơi chúng tôi khả dĩ phù hợp với một chương trình của ông không. Và Betsy bắt đầu nói về loại ngô đực ngô cái ở Kansas. Cô nàng hào hứng với thứ ngô chết tiệt này đến mức nhà đạo diễn phải rưng rưng mắt lệ, nhưng sau đó ông ta nói rằng lấy làm tiếc bởi chẳng có gì hữu dụng cả. Sau này, người phụ trách thẩm mỹ thuyết phục Betsy cắt tóc và cho cô nàng lên bìa báo, tôi thi thoảng còn thấy khuôn mặt của cô đang tươi cười trên mẫu quảng cáo “Vợ của P.Q mặc đồ nhà B.H. Wragge.” Betsy lúc nào cũng rủ tôi làm việc cùng cô và vài cô nàng khác nữa, cứ như thể đang cố cứu vớt tôi không bằng. Cô chẳng bao giờ rủ Doreen cả. Doreen lén gọi riêng với tôi là con nhỏ cao bồi Pollyanna. “Cậu có muốn đi cùng taxi với bọn tớ không?” Betsy hỏi vọng vào. Doreen lắc đầu. “Được rồi, Betsy.” Tôi nói. “Tớ sẽ đi cùng với Doreen.” “Ừ!” Tôi nghe tiếng Betsy đi xuống đại sảnh. “Tụi mình ghé qua một lát, khi nào oải quá thì về.” Doreen bảo tôi, dụi tắt điếu thuốc lá vào đế cây đèn đọc. “Rồi tụi mình xuống phố. Những buổi tiệc tùng ở đây làm mình nhớ lại những lần khiêu vũ trong phòng thể chất ở trường. Tại sao chúng nó cứ phải bám lấy bọn Yale? Chúng ngốc bỏ xừ!” Mời các bạn đón đọc Quả Chuông Ác Mộng của tác giả  Sylvia Plath & Trần Quế Chi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phanny
Darkwater - tên đó đã được đặt cho ngôi nhà vì màu sắc tối tăm của những vũng nước còn đọng lại từ thế kỷ trước. Chiếc cầu treo đã mất, những hàng ống khói với hình dáng cong queo vẫn còn đó. Chỉ vào mùa hè nơi này mới có vẻ hiền hòa, những hình dáng khắc khổ của những cây dẻ ẩn hiện dưới hàng cây xanh rậm, những bông hoa dại màu vàng đong đưa bên bờ hồ và mặt nước in dấu những đám mây chạy trốn... Nhưng vào mùa đông thì cảnh vật hoàn toàn khác lạ. Những cái cây trong sân vườn trụi lá. Mây và sương mù giăng bay trên mặt đất…Gió xô mạnh vào cửa sổ làm những chiếc mành treo nặng nề căng lên kỳ quái... Bà Arabella với những câu chuyện khó tin mà bà hay kể. Bắt đầu bằng một chuyện cổ tích vô tư, nhưng khi những đứa bé bị hút hồn hoàn toàn, câu chuyện dần trở nên rùng rợn… Nhưng những cảnh sắc nặng nề, ảm đảm và câu chuyện bí ẩn của bà Arabella lại khiến Phanny thấy mê hoặc. Cô lớn lên với sự mạnh mẽ, kiên cường và lòng nhân hậu bao dung, dù cho bị chú thím cô đối xử như một người hầu gái, sự ganh tỵ của cô em và đặc biệt là tình yêu kỳ dị của người anh họ bệnh hoạn... Chuyện gì sẽ xảy đến trong cuộc đời cô? liệu Phanny có thoát được những mối đe dọa bủa vây và tìm thấy cho mình niềm hạnh phúc, sự bình yên và một tình yêu đích thực... *** Đánh giá về tác phẩm: ”Tiểu thuyết mới của Dorothy Eden diễn ra trong khung cảnh một gia đình giàu có, ngôi nhà được bao bọc xung quanh bởi một công viên râm mát một cách đáng lo ngại, một không khí nặng nề ảm đạm, gây cảm giác hồi hộp và bất ngờ đến phút cuối. Với không khí đậm chất Ăng-lê đặc trưng, Dorothy Eden một lần nữa chứng minh với chúng ta rằng bà là người rất thành thạo trong việc thêm thắt những yếu tố bất ngờ và cảm xúc với một quan điểm tâm lý khá cứng rắn và làm cho người đọc phải hồi hộp chờ đợi cho đến biến cố cuối cùng.” - bibliopoche.com ​ *** Dorothy Enid Eden (1912 - 1982) là một tiểu thuyết gia và nhà văn truyện ngắn. Bà sinh 03 Tháng 4 năm 1912 tại Canterbury Plains, New Zealand, nơi bà được học tập và làm việc như một thư ký pháp lý. Bà chuyển đến Anh vào năm 1954 để tập trung phát triển sự nghiệp văn chương của mình. Bà mất vì căn bệnh ung thư tại London vào ngày 4 tháng 3 năm 1982. Dorothy Eden được biết đến với những tác phẩm mang phong cách cổ điển với một giọng văn đầy bí ẩn và lãng mạn, gây cảm giác lo sợ và hoang mang cho người đọc. Ngoài việc viết tiểu thuyết, bà còn tham gia viết bài cho tạp chí, bao gồm Redbook và Good Housekeeping. *** Như vậy, đây là tiếng nói của cha nàng. Phanny đọc lại lá thư nhàu nát đã được giấu lâu ngày trong cái gối ghim kim của bà Arabella. “ Chú Leonard kính mến! Làm sao chứng tỏ sự biết ơn của con khi được chú cho biết sẽ để lại tất cả của cải của chú cho con! Tiếc thay! Con sợ rằng, chỉ được hưởng một thời gian ngắn, vì con sẽ không sống được quá hai năm nữa, có lẽ ! Nhưng chú không thể biết rằng quyết định của chú đã làm con yên tâm. Bây giờ, con có thể yên chí rằng con gái Francecca của con sẽ không thiếu thốn. Nó chỉ là một đứa bé rất giống mẹ nó, nhưng về đầu óc, đúng là một Davenport. Con đã nhờ người em họ Edgar của con, một người thật hoàn toàn, làm giám hộ cho nó… ” Nàng không thể ngủ được. Và giữa đêm, không biết mấy giờ, nàng ra khỏi phòng và rón rén đi về phía phòng bà Arabella. Như nàng đã đoán, đèn còn sáng trong phòng. Nàng gõ cửa và bước nhanh vào phòng. - Thưa bà, con nghĩ rằng bà còn thức… Bà Arabella đang ngồi trên giường, dựa lưng vào chồng gối và đang đọc sách thánh kinh. Bà đóng sách lại, nhưng cẩn thận giữ lại trang bà đang đọc dở bằng ngón tay. - Lẽ tất nhiên là bà không ngủ được. Giấc ngủ chỉ tốt cho những kẻ vô tội. Con muốn gì ? - Bà không thể là kẻ thù của con, bà nhé ? ... Mời các bạn đón đọc Phanny của tác giả Dorothy Eden.
Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng
Thế nào là “người đàn ông Mỹ”? Cuốn sách kỳ lạ, lôi cuốn của Elizabeth Gilbert, tác giả của Ăn, cầu nguyện, yêu, dẫn ta đi sâu tìm lời đáp cho câu hỏi đó. Eustace Conway, “người đàn ông Mỹ”, có niềm tin quyết liệt rằng sứ mệnh của mình là làm mọi cách sao cho người dân Mỹ thấy lẽ ra họ có thể mạnh mẽ và đảm lược như cha ông họ ngày xưa - những người Mỹ thời lập quốc - ra sao, họ đã sa đọa và trở nên kém cỏi đến thế nào vì tiện nghi vật chất của cuộc sống hiện đại. Conway là “thần tượng” với nhiều người bởi ý chí kiên định đi theo con đường mình đã chọn, cho dẫu anh không phải không có những nhược điểm riêng khiến cho công cuộc xây chốn địa đàng theo tâm nguyện của anh thật không dễ dàng. Song cái lớn ở anh là những khiếm khuyết và bất thành đó không làm anh gục ngã; anh luôn luôn là anh, con người xứng đáng với cái danh xưng đẹp mà gây bứt rứt, “Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng”. *** “Conway là một nhân vật đẹp đến nỗi khó tin là thật. Ở Gilbert, có lẽ anh đã tìm được nhà văn hoàn hảo để viết ra câu chuyện của anh… Từ cuộc đời Conway, Gilbert bàn rộng ra về bản chất của nam tính, sự hấp dẫn của các cộng đồng không tưởng chủ nghĩa, lịch sử vùng biên cương và huyền thoại dai dẳng về người đàn ông vùng biên cương. Chủ đề trở nên rộng lớn hơn nhiều so với một đời người. Cuốn sách cho ta thấy sự tiến bộ đã khiến ta đánh mất những gì và ta có thể phục hồi lại những gì.” - The Atlanta Journal-Constitution *** Elizabeth Gilbert thực sự “gây chấn động” giới văn chương với cuốn tự truyện Eat, Pray, Love: One Woman’s Search For Everything Across Italy, India And Indonesia (NXB Viking - 2006). Thành công của Eat, Pray, Love... là tác phẩm này gây ấn tượng với độc giả không phải bằng những thủ pháp thông thường như đánh vào cảm giác mạnh, khêu gợi những bản năng hay thú tính tầm thường. Vấn đề mà nó đặt ra đầy mới mẻ và thời sự... Cố gượng dậy sau vụ ly dị người chồng đầu tiên, Elizabeth Gilbert quyết định dành một năm đi qua Italia, Ấn Độ và Indonesia để tìm kiếm những trải nghiệm mới cho sự nghiệp sáng tác của mình, dù khi đó chị đã 34 tuổi... Ngay sau khi xuất hiện tại các hiệu sách, cuốn tự truyện này lập tức có tên trong danh sách các tác phẩm ăn khách thể loại không hư cấu trên tờ New York Times. Eat, Pray, Love... còn được hãng Paramount Pictures chọn chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh với diễn xuất của “Người đàn bà đẹp” Julia Roberts. Tác phẩm thứ tư này của chị được tạp chí Entertainment Weekly suy tôn là “1 trong 10 tác phẩm không hư cấu hay nhất năm 2006” và đã đến với khoảng 5 triệu độc giả ở 36 quốc gia, đa phần là độc giả nữ. Khi mới 18 tuổi, Elizabeth Gilbert đã bắt đầu gửi đăng các truyện ngắn của mình, với mục đích mà như chị nói là “phải đem đến cho công chúng một cái gì đó trước khi chết”. Nhưng đáp lại, mấy năm sau đó, chị chỉ nhận được những lá thư từ chối. Mãi đến năm 1993, tạp chí Esquire mới chọn đăng truyện ngắn Pilgrims của Elizabeth Gilbert với lời quảng cáo “Sự ra mắt của một nhà văn Mỹ” và ngay lập tức thu hút sự chú ý của công chúng yêu văn chương. Elizabeth Gilbert là nhà văn đầu tiên chưa có tác phẩm xuất bản xuất hiện trên Esquire kể từ sau Norman Mailer (1923 - 2007) hồi năm 1964. Pilgrims được nhà văn, nhà báo nổi tiếng người Mỹ Annie Proulx ca ngợi là “tác phẩm của một tài năng trẻ rực sáng”. Thành công của Pilgrims giúp Elizabeth Gilbert có công việc viết báo khá ổn định cho nhiều tạp chí có uy tín như SPIN, GQ, New York Times Magazine, Allure, Real Simple, Travel + Leisure. Elizabeth Gilbert sinh ngày 18/ 7/1969 trong một gia đình nông dân ở Connecticut (Mỹ). Năm 1991, chị tốt nghiệp ngành Khoa học chính trị tại Đại học Tổng hợp New York. Cho đến nay, Elizabeth Gilbert mới có 4 tác phẩm được xuất bản, nhưng khá đa dạng về thể loại, gồm tập truyện ngắn Pilgrims (1997), tiểu thuyết Stern Men (2000), cuốn tiểu sử The Last American Man (2002) và tác phẩm mới đây nhất là tự truyện Eat, Pray, Love... (2006). Là một người sở hữu cá tính mạnh, trong Elizabeth Gilbert luôn có sự giằng xé giữa ham muốn được tự do với việc phải tuân thủ một cách rập khuôn, đôi khi quá gò bó những nguyên tắc hoặc các ràng buộc xã hội. Elizabeth Gilbert từng sống như một “nhà văn lang thang” - trải nghiệm cuộc đời của một đầu bếp, người phục vụ quán bar, chân sai vặt ở một tạp chí... tại nhiều bang của Mỹ, rồi qua cả châu Âu, châu Phi... để viết về chính những con người, sự việc mà chị gặp thường ngày. Các ghi chép của Elizabeth Gilbert trong những ng ngày rong ruổi đã làm nên tập truyện ngắn đầu tay Pilgrims (NXB Houghton-Mifflin - 1997, đoạt giải văn học Pushcart và vào chung khảo giải PEN/Hemingway). Bài báo “The Muse Of The Coyote Ugly Saloon” của Elizabeth Gilbert trên tạp chí GQ năm 1997, một ký sự về quãng thời gian chị làm người phục vụ quán bar Coyote Ugly Saloon ở East Village (Manhattan, New York), được lấy làm cốt truyện cho phim Coyote Ugly (ra mắt năm 2000 và từng giành được một số giải thưởng điện ảnh). Elizabeth Gilbert sau đó còn chuyển thể bài báo “Eustace Conway Is Not Like Any Man You’ve Ever Met” trên GQ năm 1998 thành cuốn tiểu sử về nhà tự nhiên học đương đại người Mỹ Eustace Conway mang tên The Last American Man (NXB Viking - 2002, tác phẩm này vào chung khảo giải Sách quốc gia Mỹ ở thể loại Tác phẩm không hư cấu và Giải thưởng Hội phê bình Văn học quốc gia Mỹ). Elizabeth Gilbert ở Việt Nam hồi tháng 8/2006. *** Bạn không thể giải quyết nó. Bạn không thể vứt bỏ nó đi. Tôi chẳng biết bạn định làm gì với nó, nhưng tôi biết mình sẽ làm gì với nó. Đơn giản là tôi sẽ bỏ nó ra đi. Có thể một phần nhỏ của nó sẽ chết nếu tôi không ở bên chăm sóc cho nó nữa. - Lew Welch Tiểu sử của Eustace Conway chính là lịch sử phát triển của con người trên lục địa Bắc Mỹ này. Đầu tiên, anh ngủ trên mặt đất và mặc đồ da thú. Anh đánh lửa bằng que củi và ăn những gì có thể săn bắn hái lượm. Khi đói, anh ném đá vào chim chóc và phóng tên vào thỏ và đào rễ củ từ lòng đất, và thế là anh sống sót. Anh đan giỏ từ thân cây cối trong lãnh thổ của mình. Anh là dân du cư; anh chỉ đi bộ. Rồi anh chuyển vào sống trong lều vải và trở thành kẻ bẫy thú tinh vi hơn. Anh đánh lửa bằng đá lửa và thép. Khi thành thạo việc này rồi, anh dùng diêm. Anh bắt đầu mặc đồ len. Anh không ở lều vải nữa mà chuyển vào sống trong nhà gỗ đơn sơ. Anh trở thành nông dân, phát quang đất đai và trồng vườn. Anh kiếm được gia súc. Anh mở lối vào rừng, lối đi ấy trở thành đường mòn rồi thành đường cái. Anh hoàn thiện đường cái bằng những cây cầu. Anh mặc vải bò. Ban đầu anh là thổ dân da đỏ, sau đó trở thành nhà thám hiểm, rồi thành người khai hoang. Anh xây cho mình căn nhà gỗ và trở thành người định cư thực thụ. Là con người mang mộng tưởng về xã hội không tưởng, giờ đây anh duy trì cuộc đời mình với niềm hy vọng rằng những người có cùng chí hướng như anh sẽ mua đất quanh Đảo Rùa và nuôi nấng gia đình mình như anh sẽ nuôi nấng gia đình của chính anh một ngày nào đó. Những người hàng xóm ấy sẽ canh tác trên đất đai của họ với máy móc sử dụng sức kéo gia súc, đến giúp đỡ nhau vào đúng vụ mùa, tham gia bữa tiệc nhảy nhót vui vẻ của nhau, và họ sẽ cưỡi ngựa sang nhà nhau để trao đổi hàng hóa. Chừng nào tất cả điều này xảy ra, Eustace sẽ trở thành một người làng. Đó là điều anh muốn - xây dựng một thị trấn. Và khi tất cả đã đâu ra đó, anh sẽ xây ngôi nhà mơ ước của mình. Anh sẽ rời căn nhà gỗ mà chuyển vào sống trong một ngôi nhà xa hoa rộng thênh thang đầy các phòng thay đồ khổng lồ và trang thiết bị và con cái đề huề và đủ thứ. Và cuối cùng anh sẽ bắt kịp thời đại mình. Tới lúc đó, Eustace Conway sẽ là hình mẫu của một người Mỹ hiện đại. Anh biến đổi liên tục trước mắt chúng ta. Anh cải tiến và mở rộng rồi lại cải tiến và mở rộng bởi vì anh thông minh và tháo vát tới mức không dừng được. Anh không muốn nghỉ ngơi vui thú với những gì anh đã biết rõ cách làm; anh phải không ngừng tiến lên. Anh không dừng lại được. Và chúng ta cũng không dừng lại được. Con người chúng ta trên lục địa này xưa nay vẫn không dừng lại được. Tất cả chúng ta đều tiến lên, như de Tocqueville từng nhận xét, “giống như một dòng lũ người, cứ cuồn cuộn dâng lên không hề suy giảm, và tiến lên phía trước từng ngày dưới bàn tay điều khiển của Thượng đế.” Chúng ta vắt kiệt sức mình và mọi người khác. Chúng ta vắt kiệt nguồn lực - cả tự nhiên lẫn nội tâm - và Eustace chỉ là đại diện rõ ràng nhất cho tình trạng khẩn cấp của chúng ta. Tôi nhớ có một buổi cuối chiều, tôi cùng anh lái xe trở lại Đảo Rùa sau khi tới thăm Trại Sequoyah, đế chế cũ xưa của ông ngoại anh. Chúng tôi sắp về đến nhà, đang đi qua Boone, và dừng lại tại một đường giao. Bỗng nhiên Eustace quay ngoắt đầu lại hỏi, “Hai ngày trước, hôm chúng ta đi Asheville, tòa nhà kia đã ở đó chưa?” Anh chỉ vào khung của một tòa nhà văn phòng nhỏ mới. Chưa, hai ngày trước tôi không thấy nó ở đó. Nhưng trông có vẻ như nó sắp hoàn thiện rồi. Chỉ cần lắp cửa sổ vào nữa thôi. Một tốp thợ xây đang rời khỏi công trường vào cuối ngày. “Không thể thế được,” Eustace nói. “Chẳng lẽ họ xây được một ngôi nhà nhanh đến thế sao?” “Tôi không biết nữa,” tôi nói, thầm nghĩ anh phải biết rõ hơn ai hết. “Tôi nghĩ họ làm được đấy.” Anh thở dài. “Đất nước này…” anh than. Nhưng Eustace Conway là đất nước này. Và, từ thực tế đó, sẽ còn lại cái gì? Sẽ còn lại gì sau tất cả hoạt động này? Đó là câu hỏi Walt Whitman từng đặt ra. Ông nhìn khắp lượt nhịp độ thần tốc của đời sống Mỹ, sự phát triển công nghiệp, sự ồn ào gồng mình trong tham vọng của đồng bào mình, và tự hỏi, “Sau khi ta đã vắt kiệt những gì có trong buôn bán, chính trị, tiệc tùng... - nhận ra rằng rốt cuộc chẳng thứ gì trong số này làm ta thỏa mãn, hay tồn tại lâu bền vĩnh cửu - sẽ còn lại cái gì?” Và như mọi khi, nhà thơ già Walt đáng mến đưa ra cho chúng ta một câu trả lời: “Còn lại tự nhiên.” Đó cũng là thứ còn lại cho Eustace. Tuy nhiên, giống như tất cả chúng ta (và đây là điều trớ trêu nhất của anh), Eustace không có nhiều thời gian như anh ao ước để tụng ca thế giới Đúng như anh nói với tôi qua điện thoại vào một đêm đông, “Tuần này trên Đảo Rùa chúng tôi có một cơn bão tuyết. Một người bạn lên thăm có bảo, ‘Này Eustace, cậu đã làm việc vất vả quá đấy. Cậu nên nghỉ tay ra ngoài nặn người tuyết. Đã bao giờ nghĩ đến điều đó chưa?’ Ôi trời ơi, tất nhiên là tôi đã từng nghĩ đến điều đó chứ. Buổi sáng hôm ấy chỉ cần bước một bước chân ra khỏi cửa là tôi đã có thể thấy lớp tuyết tuyệt vời để làm người tuyết. Tôi đã tưởng tượng sẵn người tuyết mà tôi sẽ đắp, nếu thật sự phải đắp. Tôi nhanh chóng phân tích độ đặc của tuyết và quyết định chính xác chỗ đặt người tuyết để trưng bày đẹp nhất, chính xác nó to cỡ nào, và tôi có thể tìm mẩu than làm đôi mắt ở đâu trong xưởng rèn của mình. Tôi tưởng tượng ra mọi chi tiết của người tuyết đến tận cái mũi làm bằng củ cà rốt, với cái mũi này tôi phải nghĩ trong một giây: Bọn mình có còn đủ cà rốt dự trữ để mình có thể thửa một củ cho người tuyết này không? Sau khi thôi chơi người tuyết mình có thể lấy lại củ cà rốt để cho vào món hầm kẻo phí phạm không? Hay là một con thú nào đó sẽ chén mất củ cà rốt trước rồi? Tôi suy nghĩ lướt qua tất cả điều này trong khoảng năm giây, ước tính xem mình phải bỏ ra bao nhiêu thì giờ trong một ngày bận rộn để đắp người tuyết ấy, tôi cân nhắc thấy thời lượng đó tỉ lệ nghịch với mức độ niềm vui mà việc đắp người tuyết sẽ mang đến cho tôi - và quyết định không làm.” Thật quá đáng buồn, bởi vì anh thực sự thích được ở bên ngoài kia và biết đâu anh đã có được nhiều niềm vui từ người tuyết hơn bản thân anh có thể ước lượng một cách logic. Bởi vì anh thực sự yêu thiên nhiên, bất chấp mọi cam kết và nghĩa vụ của anh. Anh yêu mọi thứ thuộc về thiên nhiên - cái bao la của rừng; đốm nắng xuyên xuống qua một tấm mái thiên nhiên tươi tốt; vẻ đẹp của các từ bồ kết, bu lô, hoàng dương... Hơn cả tình yêu, anh cần thiên nhiên. Như ông ngoại của Eustace từng viết, “Khi trí óc mệt mỏi hay tâm thần bất an, chúng ta hãy đi vào rừng để hít vào đầy ắp phổi làn không khí được tắm gội trong mưa và thanh lọc trong nắng, để đong đầy trái tim ta vẻ đẹp của cây cối, hoa lá, pha lê, đá quý.” Người đàn ông tốt nhất mà Eustace có thể làm là người đàn ông mà anh trở thành khi một mình trong rừng thẳm. Đó là lý do tại sao lần nào lên Đảo Rùa tôi cũng lôi anh ra khỏi phòng làm việc và bắt anh đưa đi dạo. Mặc dù nói chung anh không có thời gian cho việc này, tôi buộc anh phải làm, bởi vì chưa đi được mười bước vào rừng là anh đã thao thao, “Đây là hương phong thảo. Cô có thể dùng cái thân rỗng của nó làm ống hút để uống nước ẩn nơi những viên đá cuội nằm trong lòng suối cạn quá nên có thể ta không dùng miệng uống được.” Hoặc, “Đây là hoa huệ đốm tím, loài hoa này rất giống hoa huệ đốm da cam, chỉ có điều trông lạ mắt hơn. Nó cực hiếm đấy. Tôi ngờ là chỉ có năm cây hoa này trên toàn bộ một nghìn mẫu đất Đảo Rùa.” Mời các bạn đón đọc Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng của tác giả Elizabeth Gilbert.
Ngày Thứ Tám Trong Tuần
Ngày Thứ Tám Trong Tuần là tiểu thuyết đầu tay của Marek Hlasko (1934-1969) — “nhà văn nổi loạn” nổi tiếng nhất của Ba Lan vào thời hậu-Stalin. Xuất bản lần đầu tại Ba Lan cách đây đúng 50 năm, tác phẩm một thời vang bóng này nói lên cuộc sống đương thời ngột ngạt, quá khứ nặng nề và tương lai mờ mịt của đông đảo những người trẻ tuổi bị gạt bên lề xã hội. *** "Không được. Bây giờ không được," Agnieszka nói, nàng đẩy mạnh tay của chàng thanh niên và khép chặt lại chiếc váy của mình. "Em muốn sao cũng được," người con trai đáp. Chàng nằm cạnh nàng trên bãi cỏ, nhìn qua bên kia bờ dòng Vistula. Giữa sông, một chiếc tàu kéo cục mịch đang mệt nhọc kéo ba chiếc xà lan, đầu máy hổn hển như nhịp tim của người già. Đêm đang xuống dần. Khí lạnh đông lại như sữa. Cây cối chung quanh sẫm lại. Chàng nằm yên cho đến khi cảm thấy bàn tay của Agnieszka đặt trên đầu của mình. Cô gái nói nhỏ: "Pietrek, em không muốn chuyện tầm thường. Nếu không yêu anh, có lẽ em không bận tâm đâu. Nhỡ có ai đến thì sao. Em không muốn người ta chà đạp lên những gì mà em xem là quan trọng. Anh phải hiểu như thế. Nếu mình phải giữ gìn một điều gì, thì đó chính là điều này." ... Mời các bạn đón đọc Ngày Thứ Tám Trong Tuần của tác giả Marek Hlasko.
Một Kiếp Lênh Đênh
Bối cảnh truyện là Sài Gòn những năm trước giải phóng, đầy hoa lệ mà cũng cực kỳ phóng túng. Ở đó, sau những ánh đèn chớp nháy đầy xa hoa là bao mảnh đời, số phận vật vã, nổi trôi. Liên là một trong số đó, số kiếp cô lênh đênh hết biến cố này lại sóng gió khác. Từ một cô bé ngây thơ như bao cô gái khác, chỉ vì cảnh nhà túng bấn, bố mất sớm mẹ đi bước nữa. Đến năm mười bốn tuổi, sự thô bạo và dâm tục của bố dượng đã buộc Liên bước chân ra lề đường, chấp nhận kiếp sống bụi đời. Như thứ nọc độc, nó chiếm lĩnh cô dần dần bằng những nét phù hoa giả dối, những ảo mộng cuộc sống trong tiện nghi vật chất với lối sống an nhàn, vương giả. Qua bà mẹ nuôi và cô chị kết nghĩa, từ lúc nào Liên đã thành thạo với cách kiếm tiền từ kinh doanh thân xác con người. Và rồi, chính lối sống ấy đã buộc cô phải trả giá bằng sự trinh trắng của mình. Từ đó, phần vì kế sinh nhai, phần để trả thù đời, Liên đã điên cuồng lao vào các cuộc tình đỏ đen. Cứ vậy, Liên ngụp lặn trong dòng đời ngầu đục, bất kể những biến thiên thời cuộc… Tiểu thuyết Một Kiếp Lênh Đênh đã đề cập phần lớn về góc khuất trong xã hội tạp nham đương thời. Đồng thời cuốn sách này cũng sẽ chạm tới trái tim bạn đọc để kiếm tìm sự đồng cảm với những số phận nghiệt ngã, đắng cay. *** Lối đi quen thuộc chứa chấp nhiều mạo hiểm... NGUYỄN KHẮC PHỤC Đọc “Một kiếp lênh đênh” của Thu Trang, tôi bỗng miên man nghĩ ngợi. Và gợi ra khá nhiều điều về nghề tiểu thuyết. Mà cụ Tố Như bảo “nghề chơi cũng lắm công phu”, huống hồ cái nghề khó nhằn trên... Nghĩ cho cùng, văn chương, mà ráo riết nhất là tiểu thuyết, chỉ chăm bẵm vào việc mô tả, đào bới các khía cạnh của kiếp người. Vâng, cái kiếp người với tất cả những thăng trầm, biến cải, ái, ố, hỉ, nộ... chính là cốt liệu làm nên tác phẩm; chính là chất men gây hứng khởi (và cả buồn, vui, bi phẫn cùng hi vọng...) cho văn sĩ; chính là chỗ quy chiếu để ta xem nhà văn nhìn đời, nhìn người, nhìn thế sự xoay vần ra sao, yêu cái gì, ghét cái gì, muốn cái gì phải chết, phải bị diệt vọng, cái gì phải còn lại, phải phát triển và đơm hoa kết trái... Tóm lại, dù “tiểu thuyết là cỗ máy tri giác thực tại” (theo định nghĩa của nhà văn Pháp Lu-i A-ra-gông), hay là “tấm gương đặt trên một cỗ xe, kéo lê trên đường cái, phản chiếu mọi sinh hoạt của đời sống” (theo cách nghĩ của Phốc-nơ, tiểu thuyết gia Hoa Kỳ)..., hay tiểu thuyết là gì gì đi nữa, “kiếp người” vẫn cứ là lý do đầu tiên và mục đích cuối cùng, khiến các nhà văn cầm bút, canh cánh bên lòng trước những cảnh ngộ éo le, bi thiết, niềm vui sống, tình yêu, lòng căm hận, bài ca bất tận của lao động sáng tạo, tinh thần hướng thiện, lòng sùng bái Mẹ Thiên Nhiên và cuộc vật lộn mưu sinh, những xô xát, tranh chấp giữa tốt-xấu, hay-dở, đúng-sai..., hăm hở tạo dựng lại một “thế giới ảo” mang dấu ấn cá nhân của nhà văn, trên trang giấy, từ những mảnh vụn tưởng chừng rời rạc, ngẫu nhiên của hiện thực. Cái thế giới ảo ấy vừa bắt rễ, nảy mầm từ mảnh đất đời sống, vừa vươn cành lá xum xuê đón nhận ánh sáng mặt trời, tổng hợp nên chất “diệp lục tố” - cái chất huyền diệu biến “sự bịa đặt” (hư cấu) thành tác phẩm văn chương, “thật” hơn cả cái “thật” xuất phát điểm của nó... Trong cuốn sách của mình, Thu Trang quả là đã bắt ta theo dõi một “kiếp” lênh đênh trong tiểu thuyết thật hơn “kiếp lênh đênh” mà ta từng thấy trong đời. Mà lại lênh đênh trong trận cuồng phong những năm nửa sau thế kỷ 20 trên đất Nam Việt Nam. Liên, nhân vật chính, người đàn bà trong trại giam, sống lại trong hồi tưởng quá vãng, với bao ngậm ngùi, tủi hổ, trách móc và cũng không ít những lời biện hộ trắng trợn, đổ vấy cho “hoàn cảnh”... Ta hiểu, lắng nghe mà vẫn có thể cảm thông, thương xót và hy vọng một cái kết khả dĩ hơn, sẽ đến với con người có cái “kiếp lênh đênh” ấy. Mọi chuyện bắt đầu từ chuyến tàu thuỷ chạy ven biển, chở những người miền Bắc di cư vào Nam, sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954... Trong đó có gia đình của cô bé Liên. Rồi bố chết, mẹ đi bước nữa, gặp phải ông bố dượng chẳng ra gì, cô bé từ tổ ấm bước vào một cô nhi viện Công giáo và từ đó, bước thẳng vào giang hồ. Những gì xảy ra như một hậu quả lô-gich, Liên trở thành vũ nữ trong vũ trường, thành một thứ “gái bao” cho những ông Tây, ông Mẽo và khách làng chơi. Cứ thế trượt mãi xuống dưới đáy xã hội. Sau 1975, Liên cố gượng lại nhưng “hoàn cảnh xô đẩy” và cuối cùng, “nàng kiều nữ - sản phẩm kiêm nạn nhân của chủ nghĩa thực dân kiểu mới” tạm dừng chân trong một trại giam, trò chuyện, thổ lộ với tác giả về “cái kiếp lênh đênh” của mình... Giọng văn (qua lối tự thuật của nhân vật chính) giản dị, chân thật, gợi cảm u sầu, tiết tấu nhanh và ít khi bận tâm chẻ sợi tóc làm tư (gần gũi với lối ta thường bắt gặp ở một số cây bút di cư sau 1954). Nhưng có điều đáng ái ngại: chính trên những lối đi quen thuộc, nhà văn rất dễ gặp nhiều mạo hiểm khi độc giả dường như đã đoán biết trước những gì mà các nhân vật chính sẽ phải nếm trải và nhận lãnh... Nhưng Thu Trang đã không bắt đồng nghiệp và độc giả của mình phải thót tim lâu. Chị đã vượt qua những mạo hiểm trên một cách bản lĩnh mà vẫn hồn nhiên, tươi tắn chứ không đến nỗi phải gồng mình... Phường Quan Hoa - Cầu Giấy Một đêm chủ nhật N.K.P. Mời các bạn đón đọc Một Kiếp Lênh Đênh của tác giả Thu Trang.