Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nữ Phi Công

Kristin Hannah là một gương mặt tiêu biểu ở đề tài viết về người phụ nữ và gia đình. Với văn phong giản dị, sâu lắng và cảm động, bà đã có những 20 tác phẩm thuộc top bán chạy theo bình chọn của tạp chí uy tín New York Times. Cuốn tiểu thuyết tình cảm "Nữ Phi Công" được nữ tác giả đầu tư rất nhiều tâm huyết để khắc họa chân thực cuộc hơn nhân đang trên bờ vực của sự tan vỡ thời chiến tranh của Michael và Jolene Zarkades. Họ đã bên nhau suốt 12 năm, những áp lực trong cuộc sống cứ thế đè nặng lên đôi vai của đôi vợ chồng khiến họ dần nảy sinh nhiều hơn những mâu thuẫn, mối đe dọa rạn nứt ngày càng hiện rõ. Câu chuyện tiến triển khi Jonene nhận được lệnh đi tập trung chiến đấu bởi cô vốn là một nữ quân nhân. Anh chồng luật sư Michael phải học cách xoay xở với cảnh gà trống nuôi con. Liệu chiến tranh và sự xa cách có trở thành một tác động xấu hơn cho cuộc hôn nhân này? Jolene và Michael sẽ hành xử như thế nào, cứu vãn hay buông xuôi? *** Đây là tác phẩm thứ hai của nhà văn Mỹ Kristin Hannah mà tôi đọc, và một lần nữa, cái nhìn thấu suốt của một tác giả viết về phụ nữ, gia đình cùng văn phong giản dị, sâu lắng và cảm động của bà đã chinh phục tôi hoàn toàn. “Nữ phi công” (tựa gốc là “Home Front”) không có cái kinh hoàng và ám ảnh của một thời kỳ chiến tranh loạn lạc như Sơn ca vẫn hót, thế nhưng nó vẫn đủ sức lay động tâm hồn bất kỳ ai bởi cái cách mà nó đi sâu vào bóc tách những diễn biến tình cảm và tâm lý của những con người bị tác động bởi chiến tranh ngay giữa thời hiện đại này, cùng những giá trị làm nên một gia đình toàn vẹn. Cuốn sách là bản hòa ca mang nhiều cung bậc cảm xúc, dành tặng cho những nam và nữ quân nhân Mỹ - những người anh hùng thực sự - đã dành trọn cuộc đời và tính mạng của mình để bảo vệ và giữ gìn cuộc sống cho người dân. Nhân vật chính của “Nữ phi công” là Jolene, một người lính lái máy bay của quân đội Hoa Kỳ, vợ của luật sư Michael và là mẹ của hai cô con gái: Betsy 12 tuổi và Lulu 4 tuổi. Mở đầu câu chuyện, tác giả Kristin Hannah đã vẽ nên một bức tranh chân thực đến nhói lòng về thực tại của một cuộc hôn nhân đang trên bờ vực đổ vỡ, và những khủng hoảng mà Jolene phải đối mặt trong việc làm vợ, làm mẹ của một cô con gái đang ở lứa tuổi nổi loạn. Lớn lên giữa một gia đình lộn xộn, với một người cha nghiện rượu và một người mẹ yếu đuối, luôn đi theo van xin tình yêu của chồng, Jolene từ thuở bé đã rèn luyện cho mình một tính cách vững vàng, can đảm, không ngại khó khăn và vô cùng mạnh mẽ. Tính cách ấy chính là điều đã cuốn hút Michael về phía chị, nhưng giờ đây nó lại là một trong những nguyên nhân khiến chị và anh cách xa nhau. Không biết làm gì với cuộc đời mình, và với niềm đam mê mong mỏi muốn được bay, Jolene đã gia nhập quân đội, trở thành nữ phi công, tự hào với chính những gì mình đã đạt được với cương vị là một người lính. Nhưng niềm đam mê ấy, những câu chuyện của đời quân nhân, chị đã không thể nào chia sẻ được với Michael. Anh là một luật sư, một con người ngồi phòng máy lạnh, mặc áo sơ mi là phẳng phiu đi làm, là người thuộc “giới tinh hoa” của xã hội. Anh ở trong cái thế giới được bảo bọc của mình và không có chút xíu hiểu biết thực sự nào về sự nghiệp của vợ mình cùng niềm tự hào của chị về cái thế giới của những chuẩn úy và đại đội. Cái chết của cha anh - người cha đã gắn bó với sự nghiệp làm luật sư của anh suốt bao năm - là giọt nước làm tràn ly khiến cuộc hôn nhân của Michael và Jolene càng ngày càng đến bờ vực đổ vỡ. Chị quá mạnh mẽ, quá can đảm, quá tự tin, với một sức sống và sự kiên cường rạng ngời, và chị lại ở bên cạnh anh, một người đàn ông đang đau khổ vì mất mát của mình, chán ngấy những lời khuyên nhủ “mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi” của vợ. Đơn giản, Michael cảm thấy quá yếu đuối và ngộp thở khi sống cùng với người phụ nữ không cần phải dựa dẫm vào anh, một người có thể tự đứng trên đôi chân của mình và khiến anh không còn được cần đến. Cho đến cái ngày Mỹ tuyên chiến với Iraq sau sự kiện 11/9 kinh hoàng, và Jolene nhận lệnh điều động ra chiến trường lái máy may Black Hawk. Sự yên bình giả tạo của một cuộc hôn nhân đang gặp khủng hoảng bỗng chốc nứt toác, để lại một gia đình với những thành viên tức giận trước quyết định thực hiện lời hứa với quân đội của Jolene. Chị sẽ ra đi, đến Iraq, chiến đấu cho cuộc chiến mà nhiều người Mỹ cho là phi nghĩa và chẳng khác hành động giết người. Và trên tất cả, chị lại còn là một người lính nữ, người đã dũng cảm và mạnh mẽ đặt sứ mệnh mình được giao phó với tổ quốc, với nhân dân Mỹ lên hàng đầu, lên trên cả hạnh phúc gia đình mình, trách nhiệm làm mẹ và một cuộc hôn nhân đang rất cần được sửa chữa. Trường đoạn khi Jolene chuẩn bị ra trận, trải qua những ngày cuối cùng ở bên gia đình trước khi tham chiến là một trong những trường đoạn gây xúc động nhất của toàn bộ câu chuyện, khi độc giả có thể thấy được sự hy sinh cao cả và những gì Jolene chấp nhận bỏ lại ở quê nhà và bỏ lỡ trong cuộc đời hai con gái của mình để lên đường làm nhiệm vụ. Chị là một người phụ nữ phi thường, người đã tôn vinh và sống đúng với những giá trị làm nên một người lính Mỹ chân chính, dù điều đó có nghĩa là chị sẽ không được thấy nụ cười của bé Lulu trong suốt một năm ròng, sẽ không được cùng Betsy trải qua lần đầu tiên cô bé hành kinh, sẽ không được nấu đồ ăn sáng cho con, được đưa con đến trường. Và còn đó Michael, người chồng mà chị yêu đến đau đớn, đến rúng động tâm hồn, yêu từ thuở ban đầu khi họ mới gặp nhau, khi chị còn là cô bé 17 tuổi, xơ xác sau cái chết bất ngờ của cha mẹ và không một xu dính túi, đến gặp anh ở văn phòng hỗ trợ trẻ vị thành niên khi anh còn là sinh viên năm nhất đang đi thực tập. Giờ đây, tình yêu đó hình như đã chết trong lòng Michael, hóa thành thứ trái đắng khiến những ngày cuối cùng trước khi chị đi chiến đấu trở thành địa ngục với cả anh và chị. Michael là một người chồng ích kỷ, anh chưa lần nào thể hiện lòng tự hào của mình dành cho vợ và công việc mà chị làm; giờ đây, anh lại còn chì chiết chị, buộc tội chị là một người mẹ không tốt khi đành đoạn bỏ lại con và chồng mình - người chồng suốt ngày ngập ngụa trong công việc và hiếm khi nào dành thời gian cho các con - để tham gia chiến tranh như thể đây là một hành động tự sát. Và trên hết, chắc hẳn anh đã rất sợ, sợ cái trách nhiệm vừa phải làm cha, vừa phải làm mẹ mà sắp tới anh phải lãnh nhận thay vợ mình. Nhưng nỗi sợ lớn nhất, nỗi sợ mà phải tới cái buổi lễ chia tay gia đình để các quân nhân đi tòng quân, anh mới nhận ra, là nỗi sợ sẽ mất chị, được hình thành từ cái nhận thức muộn màng nhưng đáng sợ về chiến tranh, về cái thứ rồi đây Jolene sẽ phải đối mặt. Chiến tranh, dù ở thời đại nào, đều là một thứ chứa rủi ro và cái chết. Và đó là thứ Jolene sẽ phải dấn thân vào, sẽ phải chạm đến hằng ngày, hằng giờ ở Iraq: bom rơi, đạn lạc, thiết bị gây nổ bất ngờ, những mảnh thịt người không còn rõ hình dạng văng tứ tung sau một vụ nổ bom, đồng đội ngã xuống, máu, mùi thuốc súng, nỗi hoang mang không biết mình sẽ còn sống được bao ngày nữa, liệu mình có còn toàn mạng và toàn vẹn thân thể để trở về với gia đình, với những người thân yêu. Chiến tranh là thế đấy, nó khắc nghiệt, xấu xí và đau đớn vô cùng, nhưng nó là viễn cảnh mà Jolene đã chọn, sự lựa chọn đã thay đổi không chỉ chị mà còn Michael. Kristin Hannah một lần nữa đã thể hiện cái nhìn sâu sắc và thấu suốt của mình về những vấn đề của gia đình, đặc biệt là những gì mà các gia đình quân nhân phải trải qua khi một thành viên của họ phải đi làm nhiệm vụ, thông qua cái cách bà miêu tả tình cảnh “gà trống nuôi con” của Michael, quá trình chật vật thích ứng với trách nhiệm chăm sóc con cái - điều mà anh luôn lãng quên trong suốt bao năm. Và nếu như Jolene đang đối mặt với cuộc chiến tranh khốc liệt ở ngoài phương xa, không biết liệu có thể trở về, thì Michael cũng có một trận chiến của riêng mình để chiến đấu: trận chiến để đảm bảo các con mình vẫn duy trì một cuộc sống bình thường với sự giúp đỡ hết sức mình của mẹ anh - bà Mila - một người phụ nữ vô cùng tâm lý, và là người duy nhất từng thấu hiểu, ủng hộ quyết định ra trận của Jolene. Trận chiến ấy song hành cùng việc anh theo đuổi vụ xét xử một anh chàng cựu quân nhân bị khép tội giết vợ, giúp Michael nhận ra một sự thực mà anh đã quá ngu ngốc, quá ích kỷ để mà nhìn thấy trước đây: anh yêu Jolene, anh vẫn còn yêu chị, làm sao mà anh có thể hết yêu chị, người phụ nữ can đảm vô cùng, xinh đẹp vô cùng, người đã cùng anh xây dựng gia đình trong suốt 12 năm qua. Ấy vậy mà anh lại để chị ra trận với cái lời nói “Anh không còn yêu em nữa” in dấu trong đầu chị, đẩy chị đi xa khỏi anh, làm tổn thương chị, phí hoài những ngày quý giá trước khi chị đi chiến đấu cho nước Mỹ với muôn vàn khó khăn và nguy hiểm trong nỗ lực vô vọng để hàn gắn mối quan hệ vợ chồng của Jolene, trong nỗi khổ đau không nói thành lời của một người vợ luôn yêu anh nhưng anh thì lại luôn lạnh nhạt. Để rồi cái điều Michael sợ hãi cuối cùng cũng đến, khi anh hay tin vợ mình bị thương nặng sau khi máy bay của chị bị bắn rơi và phát nổ. Cảm xúc của câu chuyện dâng cao với sự kiện ấy, khi trận chiến tiếp theo mà Michael phải đối mặt chính là trận chiến của ý chí và tình yêu, của một người chồng muốn sửa sai và hàn gắn lại mối quan hệ tưởng chừng đã nát tan của hai người, một trận chiến đi vào cốt lõi của gia đình mà họ đã xây dựng, cùng nền móng tình yêu đã giúp họ xây dựng nên gia đình mình. Và trận chiến ấy hoàn toàn không hề dễ dàng để chiến thắng, khi mà Jolene không còn là người phụ nữ trước khi chị ra trận: chị vụn vỡ thành trăm mảnh bởi những gì chị đã trải qua ngoài chiến trường, bởi cái chết của những đồng đội, bởi vụ rơi máy bay kinh hoàng, bởi khói, máu và mất mát. Chị mang theo về nhà một cơ thể không còn toàn vẹn và một tâm hồn còn nứt toác, vụn vỡ hơn. Đó là một trận chiến với đầy những nước mắt, đớn đau, sự sợ hãi đến từ hai cô con gái của Jolene, khi chúng không biết chuyện gì đã xảy ra với tính tình và tâm lý của mẹ chúng, khi chúng chỉ biết rằng mẹ không còn như trước kia, luôn nóng tính, la mắng chúng và dường như không còn yêu chúng nữa. Và Michael, anh bền bỉ với tình yêu dành cho Jolene, cho người vợ luôn xinh đẹp và can đảm trong mắt anh, mặc dù giờ đây chị không còn là người phụ nữ như trước đây anh đã biết. Những nỗ lực để hàn gắn, để Jolene trở lại là mình, là cô chuẩn úy mạnh mẽ, tràn đầy tự tin đã khiến tôi khóc không biết bao nhiêu lần. Tôi khóc cho cái số phận và những gì Jolene đã trải qua, cho những mất mát mà chị đã phải gánh chịu, cho nỗi sợ cùng sự tức giận mà chị cảm thấy về những gì chị tưởng là lòng thương hại dành cho người vợ tật nguyền của Michael, cho những gì chị tưởng là ý thức trách nhiệm của một người chồng khi Michael không rời bỏ chị mà lại quyết định ở bên chị, luôn luôn, cầu xin chị tha thứ cho anh và muốn câu chuyện của họ bắt đầu lại từ đầu. Tôi khóc khi Jolene, với nỗi thương cảm dành cho chính bản thân mình cùng sự mạnh mẽ, không muốn dựa dẫm và ai luôn sẵn có trong con người chị - người phụ nữ làm bằng thép và được trui rèn trong lửa - đã gạt phăng những nỗ lực của Michael nhằm hàn gắn vết thương lòng anh đã gây ra cho chị và cuộc hôn nhân của họ. Để rồi sau đó, chị đã mất rất nhiều thời gian để lại có thể tin tưởng anh và mở lòng với anh. Và tôi đã khóc khi chứng kiến Jolene chiến đấu trong cuộc chiến của riêng chị, cuộc chiến với PTSD (viết tắt của Post Traumatic Stress Disorder, là chứng trầm cảm sau sang chấn, rất phổ biến ở các cựu chiến binh), với mặc cảm tội lỗi về vụ rơi máy bay khi chị đã không thể bảo toàn tính mạng cho các đồng đội, với việc chấp nhận tình trạng cơ thể không toàn vẹn hiện tại của mình, với những khó khăn mà chị phải trải qua trong quá trình làm quen với cơ thể mới và hòa nhập với cuộc sống sau chiến tranh, với tương lai được bay trở lại vô cùng mờ mịt, với việc xác nhận lại định nghĩa về bản thân chị: chị còn là chuẩn úy Zarkades nữa hay không, hay chỉ là một khối thịt vô dụng và tật nguyền; chị có còn là mẹ của lũ trẻ hay không, hay là một mụ phù thủy luôn khiến chúng sợ hãi mỗi khi tiếp xúc với chị. Tương lai mờ mịt nhưng không phải là không có hy vọng, và hy vọng ấy được thắp lên bởi chính Michael, người chồng đã hoàn toàn lột xác khỏi cái mác ích kỷ để trở lại là người đàn ông Jolene luôn yêu và mãi yêu, người chồng giờ đây vô cùng tự hào về chị, về những gì chị đã trải qua vì tổ quốc và nhân dân Mỹ. Jolene, cùng với cô bạn thân Tami, người cũng là phi công lái máy bay và cùng chị tham chiến ở Iraq, là đại diện cho những người nam nữ quân dân anh dũng và đáng được tôn vinh của Hoa Kỳ, những con người đã sống cuộc đời mình để hoàn thành trọn vẹn lời hứa với quân đội, với đất nước, cho dù điều đó có nghĩa là họ đang đặt bản thân mình, cơ thể mình, tính mạng của mình vào vòng hiểm nguy. Đã có những hy sinh quá lớn, những mất mát đớn đau phải cần thật nhiều thời gian mới có thể nguôi ngoai, những gia đình mất đi một thành viên, những đứa trẻ phải lớn lên mà không có cha hay mẹ. Nhưng cuối cùng thì, sứ mệnh giữ gìn bình yên cho tổ quốc, cho nhân dân vẫn là một sứ mệnh cao cả và phải luôn được đặt lên hàng đầu. Chính điều đó đã biến những người quân nhân trở thành những người anh hùng của đời thực, những người cũng như chúng ta, cũng dễ bị tổn thương, cũng có những phút giây yếu đuối, những lo lắng, hãi sợ và bất ổn trong tâm hồn. Cái họ cần là sự quan tâm, là gia đình ngập tràn tình yêu, là những sự giúp đỡ về vật chất và tâm lý, để họ có thể tiếp tục tỏa sáng và đóng góp cho xã hội, cho bình yên của đất nước và cuộc sống của người dân. *** #Review #Nữ_phi_công “Có những điều bạn học được tốt nhất trong bình yên. Có những điều chỉ học được trong dông bão ...” Thật sự không hiểu sao một quyển sách hay, nhiều cảm xúc như thế lại ít được nhắc tới. Nếu không tình cờ biết Nữ Phi Công được viết bởi tác giả của Sơn Ca Vẫn Hót thì Boog đã bỏ qua nó. Thật mừng vì Boog đã đọc và không bỏ lỡ một tác phẩm hay. Bằng những câu chữ đầy cảm xúc, tác giả đưa bạn tới cuộc sống hôn nhân đầy dông bão, những mất mát đau thương của chiến tranh mà Boog đọc thấy có một sự đồng cảm ghê gớm. Jolene Larsen là một quân nhân, một phi công trong quân ngũ. Mà phụ nữ trong quân ngũ thường ít, ít nhiều có khó khăn hơn nam giới. Thật sự Boog có chút ngưỡng mộ đối với những phụ nữ trong quân đội mà lại là phi công ( rất ngầu đấy chứ). Tuổi thơ của cô chịu tổn thương vì chứng kiến những cuộc cãi vã, đập phá khi say rượu của ba mẹ. Họ cũng sớm ra đi do tai nạn trong một lần say rượu. Những tưởng cuộc hôn nhân của cô với Michael - một luật sư tài năng sẽ phần nào bù đắp cho tuổi thơ không trọn vẹn của cô. Nhưng, sau 12 năm chung sống, nảy sinh những vấn đề mâu thuẫn, những bất đồng quan điểm, sự không hiểu nhau trong gia đình. Những vấn đề phát sinh trong việc chăm một cô bé 4 tuổi ngây thơ, có chút nhõng nhẽo, một cô bé 12 tuổi đang bước vào ngưỡng cửa trưởng thành, gặp nhiều vấn đề rắc rối trong các mối quan hệ trong trường trung học đã dẫn tới hôn nhân của họ có nguy cơ bị đổ vỡ. Trước thềm hôn nhân đổ vỡ, là một quân nhân, Jolene nhận được lệnh điều động tới vùng chiến sự Iraq. Đối mặt với nguy hiểm, chứng kiến sự ra đi của những người đồng đội, những người bạn, bản thân bị thương, bỏ lại một phần thân thể nơi chiến trường cô bị tổn thương ghê gớm. Làm sao có thể có một cuộc sống bình thường khi đã trải qua những mất mát, tổn thương đau đớn ấy. Không chỉ mất mát về thân thể, sự ám ảnh của cuộc chiến trong mỗi giấc mơ, trong mỗi đau đớn hàng ngày còn khủng khiếp hơn. Nữ Phi Công miêu tả khắc hoạ rất sâu sắc, rất hay về những đấu tranh nội tâm, những đau đớn, tâm lý các nhân vật. Bên cạnh những mối quan hệ về hôn nhân, gia đình, con cái, cha mẹ, tình đồng chí, đồng đội Boog rất thích tình bạn giữ Jolene và Tami. Tình bạn có thể nói là tri âm tri kỷ, chia sẻ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, hiểu nhau tới từng chân tơ kẽ tóc. Nữ Phi Công là một bài ca về nghị lực, về tình thương yêu xoa dịu nỗi đau. Mất mát, đau thương và hàn gắn, đừng để khi mất đi mới hiểu được giá trị của tình yêu, tình cảm gia đình quý giá. Hãy nói yêu thương, đừng nói yêu thương quá muộn. Mời các bạn đón đọc Nữ Phi Công của tác giả Kristin Hannah & Đinh Thanh Vân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Manon Lescaut - Abbe Prevost
Đời văn của linh mục Prévost thật khác thường: người đương thời từng say mê chuyền tay nhau đọc những pho tiểu thuyết bề thế của Prévost, chăm chú lắng nghe những bài diễn giảng của ông. Nhưng đến đầu thế kỷ XIX, ánh hào quang của những áng văn đó đã lu mờ đi, những bài diễn giảng kia không còn hợp với khẩu vị của công chúng thời nay nữa. Và bản thân tên tuổi của Prévost chắc hẳn rồi cũng sẽ mai một, nếu ông không để lại tập Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô. Thiên truyện tuy chiếm một chỗ đứng hết sức nhỏ nhoi trong toàn bộ cái di sản văn chương khá đồ sộ của nhà văn, nhưng nó đã mang lại cho Prévost một vinh quang thực sự bất tử và đưa ông lên hàng những đại biểu lớn nhất của văn chương thế giới. Antoine Francois Prévost sinh ngày mồng 1 tháng Tư năm 1697 tại thành Eđen (tỉnh Arthur) trong một gia đình tư sản rất được trọng vọng. Hồi bé, cậu học tại quê nhà, trong một trường sơ học của dòng Jésuistes. Bước sang tuổi thiếu niên, Prévost đã được bố mẹ thu xếp để cậu con sẵn sàng dấn thân vào con đường phụng sự Chúa. Vừa chớm đến tuổi trưởng thành, năm 16 tuổi, ông đã là sinh đồ của một chủng viện dòng Jésuistes ở Paris. Tại đây, người ta đã nhanh chóng nhận ra những khả năng xuất sắc của chàng trai, nên chỉ hai năm sau (1715), Prévost đã được gửi tới thị trấn La Flèche, theo học tại một trong những cơ sở đào tạo lớn nhất thời bấy giờ – trường Henri IV. Theo chương trình học thì tại đây, Prévost sẽ phải nghiền ngẫm giáo lý, triết học và các khoa học nhân văn khác. Nhưng mới học chưa đầy một năm, chẳng rõ vì lý do gì, ông đã từ giã La Flèche, ra đi. Từ đó, Prévost bắt đầu dấn thân vào không biết cơ man nào là những cuộc phiêu lưu, để cho miệng thế đã không ngớt lời dèm pha, thêu dệt nên đủ mọi thứ chuyện trong suốt nhiều năm sau đó. Các nhà văn học sử đã phải tốn khá nhiều giấy mực mới đẩy lùi được những lời đơm đặt nhảm nhí, bôi lọ tiểu sử của Prévost. Nhưng chỉ cần tính riêng những điều không thể chối cãi được trong đời tư của nhà văn, ta cũng đủ thấy ông đã phải sống một cuộc đời hết sức phức tạp, đầy sóng gió và mâu thuẫn, nhất là trong những năm còn đang độ trẻ trung. Rời La Flèche, Prévost sung ngay vào quân đội, làm một anh lính thường. Tòng ngũ chưa đầy hai năm, ông lại muốn về lại với cuộc sống tu hành (năm 1719), nhưng đã bị cự tuyệt. Prévost tức tốc sang ngay La Mã, hy vọng rằng sẽ cạy cục được các đấng bề trên của dòng Jésuistes cho mình được quyền tái nhập, để tiếp tục học hành. Nhưng giữa đường, chẳng may ông thọ bệnh. Một viên sĩ quan đã đứng ra giúp đỡ Prévost, đưa ông vào nhà thương và lo liệu cơm nước, thuốc thang. Nhưng chẳng bao lâu sau ông mới vỡ nhẽ ra rằng viên sĩ quan nọ chẳng phải chỉ vì nhân từ mà cưu mang ông; trong thâm tâm, gã còn nuôi một ý định khác: dụ dỗ chàng trai quay lại với cuộc đời binh nghiệp. Các khoản chi phí ông ta bỏ ra cho Prévost, chẳng qua chỉ như là món tiền ứng trước để ít nữa sẽ khấu vào đồng lương chú lính trẻ. Bởi thế, gã buộc Prévost phải tiếp tục tòng ngũ như trước. Để khỏi tái đăng bất đắc đĩ, Prévost bỏ sang Hà Lan. Được ít lâu, ông lại quay về quê, sống với gia đình. Có lẽ đây chính là thời kỳ nhà văn phải nếm trải cuộc phiêu lưu, tương tự như cuộc phiêu lưu tả trong thiên truyện nổi tiếng sau này. Cũng giống như nhân vật chính cuốn truyện, Prévost đã nhất quyết đi theo người tình mình yêu say đắm, đang bị cảnh sát bắt giữ, nhưng giữa đường thì lăn ra ốm, không còn kịp theo chân đám tù nhân kia, và từ đó mãi mãi mất hút tăm tích người yêu. Đau khổ và tuyệt vọng, Prévost bèn tìm cách lánh đời, và ông lại quay về với kinh bổn, nhưng lần này không phải trong dòng tu cũ, mà của dòng Bénédictin, vốn nổi danh với những trước tác khoa học, nhất là sử học nói riêng, Sau một năm thụ huấn, Prévost làm lễ tuyên thệ (1721). Nhưng ông không sao kham nổi nếp sống câu thúc giữa bốn bức tường âm u, và lòng vẫn không nguôi nhớ nhung cảnh sống phóng khoáng ngày nào. Quan hệ giữa ông với các vị chức sắc cai quản dòng tu cứ trở nên ngày một rắc rối dần. Bởi thế, chỉ trong vòng bảy năm thôi (1721-1728), Prévost đã phải tám lần thay đổi nơi tu luyện. Đó chính là thời kỳ Prévost bắt đầu lao vào sáng tác. Tại các trai phòng của tu viện Blanc-Manto và Saint-Germain des Prés, ông đã hoàn thành bốn tập đầu bộ Ký sự của một trang quý tộc lánh đời, thiên tiểu thuyết đã được coi là tác phẩm đã làm rạng danh cho tác giả. Hai tập đầu thiên truyện ra mắt công chúng vào đầu năm 1728. Sự xuất hiện của hai tập tiếp theo, tập III và tập IV, trùng với thời kỳ xảy ra một bước ngoặt ghê gớm trong đời nhà văn: ông bí mật trốn khỏi tu viện, lên đường về Paris. Dòng tu Bénédictin mưu toan ỉm đi vụ xì-căng-đan đó, thuyết phục ông quay về, nhưng vô hiệu. Bởi thế, họ đã phải nhờ đến viên cục trưởng cảnh sát kinh thành can thiệp, yêu cầu bắt giữ vị tu sĩ bỏ trốn. Ngày 6 tháng Một năm 1728, cảnh sát kinh thành ký lệnh bắt giam. Nhưng đáng nực cười là trong đơn kiện, dòng tu Bénédictin đã ghi rõ ràng kẻ bị truy nã là tác giả bộ Ký sự của một trang quý tộc - thiên truyện đang làm xôn xao dư luận Paris lác bấy giờ. Chỉ mươi hôm sau, ngày 19 tháng Một, kiểm duyệt cũng đã ký lệnh cho phép in tập III và tập IV Ký sự của một trang quý tộc. Hay tin cửa ngục đang mở rộng để chờ mình, Prévost hối hả rời quê nhà, sang Anh. Từ đó lại bắt đầu một chặng đường luân lạc mới là đồng thời cũng là giai đoạn hoạt động sáng tác sôi nổi nhất của nhà văn. Prévost tha hương từ năm 1729 đến hết năm 1734. Có thời, ông đã phải làm gia sư cho một quý tộc Anh, nhưng phần lớn thời giờ và tâm huyết lại dành cho viết lách. Năm 1751, Prévost bỏ sang Hà Lan. Trong chuyến đi này, chắc hẳn nhà văn đã mang sẵn trong hành trang Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, và định đưa cho các nhà in ở Amsterđam xuất bản, Tuy nhiên, ngây ngất với những thành công tuyệt đỉnh của bộ Ký sự, các nhà kinh doanh sách Hà Lan chỉ muốn nhận từ tay ông những tập tiếp theo của bộ tiểu thuyết đó. Vì túng bấn, Prévost phải bắt tay viết tiếp hai tập nữa, mặc dù Ký sự hoàn toàn chẳng cần phụ thêm một dòng tục biên nào. Do nhu cầu thương mại, bộ tiểu thuyết đã được gắn thêm hai tập mới trong đó có một tập là Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, mặc dù chính tác giả cũng đã phải thú thực trong Lời tựa ở đầu sách rằng câu chuyện tả ở đây chẳng hề liên quan gì với những biến cố đã thuật lại trong Ký sự. Như thế là, thiên truyện nhỏ khiến cho danh tiếng của linh mục Prévost trở nên bất tử đã ra mắt độc giả lần đầu ngay từ năm 1751, với tư cách là phụ lục của bộ Ký sự của một trang quý tộc mà ngày nay đã hoàn toàn bị lãng quên. Các sáng tác của Prévost sở dĩ được nhiều người hâm mộ trước hết là do tính hấp dẫn của chúng. Các tác phẩm của ông hầu như trang nào cũng vẽ lên một biến cố rất đỗi lôi cuốn – khi thì cảnh bắt cóc hoặc giết người, khi thì một cuộc truy nã, và đâu đâu cũng đầy rẫy những sự trùng khớp hết sức tình cờ, hành động tả ở đây phần nhiều đều diễn ra tại những căn nhà ẩm thấp, những lâu đài âm u, những cánh rừng hoang vắng hoặc những xứ sở xa lạ. Trong các nhân vật chính, bao giờ cũng phải có mặt một con “quỷ dữ”, tâm địa hắc ám, hành tích đầy bí ẩn, hiện thân cho cái ác. Người đọc còn bị lôi cuốn bởi những nét mới lạ mà Prévost lồng vào tính cách các nhân vật: tiểu thuyết nào của ông cũng khắc họa những con người tâm can bị thiêu đốt bởi những khát vọng mãnh liệt, có thể nuốt chửng hết thảy mọi thứ trên đời và lí trí không sao cưỡng nổi. Và niềm khát vọng giữ vai trò chủ chốt ở đây phần nhiều đều là những mối tình say đắm. Tình yêu trong các sáng tác của linh mục Prévost là thứ khát vọng tiền định, bản năng, không sức nào kiềm chế nổi, và phần nhiều đều bi thảm – dẫn người ta đến cho tuyệt vọng, chỉ còn biết quyên sinh, lắm khi còn đẩy người ta đến chỗ lao đầu vào những tội ác rùng rợn. Đồng thời, các nhân vật của Prévost trước sau vẫn coi tình yêu là một thứ hạnh phúc cao cả, mà chỉ những ai có diễm phúc lớn may ra mới được nếm trải; và chính vì diễm phúc đó, người ta dám sẵn sàng vứt bỏ hết thảy mọi thứ. Với tư cách là nhà tâm lý học, Prévost vốn chịu ảnh hưởng của những kịch tác gia phái cổ điển là Corneille và Racine, tác giả của những vở bi kịch mà cái giữ vai trò chủ đạo bao giờ cũng là những khát vọng không sao kìm chế nổi. Nhưng nếu những tình cảm được khắc họa trong các tác phẩm đó đều là những tình cảm trừu tượng và là số phận của những đấng anh hùng huyền thoại hoặc những nhân vật lịch sử phi phàm (các bậc vua chúa, các vị tướng soái), thì trong các thiên tiểu thuyết của Prévost, những khát vọng kia đều bùng cháy lên trong tâm can những kẻ địa vị xã hội khiêm nhường hơn; và chính nhờ vậy mà phẩm giá của họ đều vượt lên trên cái mức bình thường. Bởi thế, khát vọng nào của các nhân vật do Prévost tạo dựng cũng đều xung khắc gay gắt với những nhân tố thông thường trong cuộc sống của người đời – điều kiện vật chất, nếp nghĩ và nếp sống của gia đình, những định kiến của thế tục, v.v… Năm 1734, Prévost mới được quyền về lại quê hương: Giáo hoàng gia ân cho nhà văn được tiếp tục thử thách đức tin tại các tu viện như trước. Năm 1736, một đại quý tộc có quyền hành nhất nước Pháp thời kỳ ấy là hoàng thân Conti đã mời Prévost sung vào đoàn tùy tùng của ông ta, giữ chức linh mục trong hoàng cung, Prévost nhận lời ngay, vì đây là một chức hữu danh vô thực – không phải gánh vác một trọng trách nào, mà cũng chẳng được hưởng một thứ bổng lộc nào – nhưng lại cho phép ông được sống ở bên ngoài tu viện, danh tiếng lừng lẫy của nhà văn lớn nhất đương thời đã khiến giới thượng lưu và các xa lông văn chương mở rộng cửa đón ông, Prévost lại có thêm nhiều bạn mới là nhiều người hâm mộ mới. Tuy nhiên, cũng chính vào thời kỳ đó, Prévost đã lại phải lìa bỏ quê nhà lần nữa. Số là vào những năm đó, giới thượng lưu Pháp vốn sính một hình thức thông tin lạ đời: xuất bản các tạp chí viết tay, loan truyền đủ mọi thứ tin tức, kể cả những tin đồn thất thiệt, lẫn những chuyện đơm đặt hồ độ, chẳng đếm xỉa gì đến sự thật, của các vương tôn, công tử nhàn nhã. Đám thư lại có hoa tay phụ họa vào, ngồi nắn nót chép những trang tạp chí nọ để gửi đến đám khách hàng đặt mua. Prévost đã quá khinh suất, bằng lòng giúp đỡ việc biên tập về văn phong cho một trong những tạp chí loại đó. Một vị quý tộc có thân thế bất đồ đã bị tờ tạp chí này vu khống, ông ta bèn ra lệnh bắt giam chủ bút. Các nhà chức trách bắt đầu mở cuộc điều tra. Đến khi đó biết được rằng Prévost có nhúng tay vào việc biên tập, thì viên cục trưởng cảnh sát liền yêu cầu ông phải rời ngay nước Pháp. Prévost lại phải lưu lạc ở chốn đất khách quê người một năm rưỡi nữa, lúc ở Bỉ, lúc ở Frankfurt. Mãi đến lúc về lại Pháp, ông mới bắt đầu được hưởng một cuộc sống yên hàn, và danh tiếng ông mới đạt đến đỉnh cao chói lọi. Từ đó, Prévost mới được biết thế nào là sự thư thái tâm hồn và sự no đủ về vật chất. Prévost vẫn không rời bỏ sự nghiệp sáng tác cho đến tận giây phút trút hơi thở cuối cùng. Ông mất ngày 25 tháng Một năm 1763 vì vỡ tim trong một lần dạo chơi quanh điện Chanteille, ở ngoại ô Paris. *** Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô, như đã nói, ra mắt lần đầu vào năm 1731 ở Hà Lan với tư cách là phụ lục của tập VII bộ Ký sự của một trang quý tộc. Ở Pháp, kiệt tác này không được đánh giá cao ngay từ đầu, thành ra mãi đến năm 1733 mới được ấn hành. Tờ “Báo của cung đình và kinh thành Paris”, số ra ngày 21 tháng sáu năm 1733, đã đăng một mẩu tin như sau: “Mới đây, tập VII bộ Ký sự của một trang quý tộc đã ra mắt công chúng. Thiên truyện được viết tài tình và lôi cuốn đến mức ngay cả những kẻ bình thường cũng phải mủi lòng cho thân phận của một gã bịp bợm và một ả buôn phấn bán hương”. Nhưng chỉ ít lâu sau, các nhà chức trách kinh đô đã phải ký lệnh thu hồi và thiêu hủy quyển sách. Trong hồ sơ lưu trữ hiện còn giữ được biên bản tịch thu năm bản truyện của một chủ hiệu sách ở kinh thành và hai bản nữa của một chủ hiệu khác. Việc tịch thu sách trên thị trường dĩ nhiên không hề làm lu mờ danh tiếng của thiên truyện, và người đương thời vẫn háo hức chuyền tay nhau các ấn bản do nhiều nhà kinh doanh sách Hà Lan in ra, đang ồ ạt tràn vào đất Pháp tác bấy giờ. Việc cấm lưu hành Truyện hiệp sĩ đơ Griơ, coi đây là tác phẩm vô đạo đức, giữa lúc phong hóa suy đồi chưa từng thấy, giờ đây xem chừng rất khó hiểu. Nhưng có lẽ chính sự băng hoại đạo đức đó là nguyên nhân dẫn đến tình trạng không đánh giá đúng và không hiểu hết tư tưởng chính mà tác giả gửi gắm vào tác phẩm: người đương thời chỉ nhìn thấy ở đây câu chuyện về những cuộc phiêu lưu suồng sã, rẻ tiền của đôi trai gái hư thân mất nết. Đây là cách lý giải về nguyên nhân khiến người đương thời không đánh giá đúng thiên truyện của Prévost do chính A.I. Gertxen đưa ra. Sự cấm đoán đó đã thôi thúc Prévost đứng lên bảo vệ tác phẩm của chính ông trong tờ tạp chí “Đồng tình và phản đối” do bản thân nhà văn sáng lập và xuất bản từ năm 1735 – 1740. Prévost đã cố xoa dịu cái ấn tượng mạnh mẽ do tác phẩm gây ra và cải chính những lời quở trách mình là đã sáng tác ra một quyển sách “vô đạo đức”. “Công chúng đã đọc một cách say sưa tập cuối bộ Ký sự của một trang quý tộc, có in câu chuyện về cuộc phiêu lưu của hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô. Chúng tôi coi đây là một chàng trai có những thiên bẩm rực rỡ và sức lôi cuốn bất tận, say mê đến mức rồ dại một cô gái trẻ, vừa rất yêu chàng, nhưng vừa thích sống một cuộc đời phù hoa, trăng gió, hơn là đeo đuổi những hạnh phúc cao cả, có thể giúp cho người yêu bộc lộ hết những tài năng trời cho và làm rạng danh cho dòng dõi cao quý của chính chàng. Trước mắt chúng ta là một kẻ nô lệ bất hạnh của tình yêu; tuy nhìn thấy trước được mọi nỗi khốn đốn đang chờ mình, nhưng chàng trai không còn đủ sức để lẩn trốn chúng, đẩy lùi chúng; chàng đã hiên ngang đứng ra hứng chịu mọi nỗi khốn đốn ấy, mặc cho chúng giày vò mình, hoàn toàn chẳng đếm xỉa gì đến những phương sách khả dĩ giúp mình giành được một chỗ đứng dễ chịu hơn; tóm tại, đó là trang nam nhi vừa hư hỏng, vừa đạo đức, luôn đeo đuổi những ý định tốt lành, nhưng lại hành động một cách xấu xa, nếp cảm nghĩ thì rất đáng quyến rũ, nhưng hành vi thì đáng phỉ báng. Chẳng qua là một tính cách độc đáo. Tính cách của nàng Manông Lexcô lại càng độc đáo hơn. Nàng biết rõ thế nào là phải trái, thậm chí còn rất mực coi trọng lẽ phải, nhưng toàn làm những việc đáng chê trách. Nàng yêu tha thiết hiệp sĩ đơ Griơ, nhưng nỗi thèm khát cảnh giàu sang và hoa lệ đã khiến nàng phản lại những tình cảm của chính mình đối với chàng trai, chạy theo một gã tài chính lắm tiền. Phải làm chủ được một nghệ thuật thế nào mới có thể thu hút nơi cảm tình của độc giả, gợi lên nơi họ sự thông cảm đối với những bất hạnh mà cô gái hư thân mất nết này phải hứng chịu! Tuy cả hai đều là những kẻ hư hỏng, nhưng người ta vẫn thấy thương họ, vì thấy rằng sự hư hỏng ấy chung quy chỉ là hậu quả của sự yếu lòng và si mê; hơn nữa, ta cũng thấy rõ rằng trong thâm tâm, cả hai đều lên án gay gắt hành vi của chính mình và đều thừa nhận rằng cách cư xử như vậy là rất đáng chê trách. Xem thế đủ biết tuy miêu tả cái xấu, nhưng tác giả tuyệt nhiên không đem nó ra mà truyền giảng. Tác giả chỉ vẽ lên ở đây ảnh hưởng của những dục vọng cuồng si, đã khiến cho lý trí trở nên bất lực, khi mà con người bị cầm tù bởi nỗi bất hạnh là đem phó mặc lý trí của bản thân cho dục vọng thao túng…” Thiên truyện bị cấm lưu hành suốt hai chục năm dài đằng đẵng. Mãi đến năm 1735 mới lại được in ra, lần này thành hai tập mỏng, kèm theo không biết bao nhiêu sửa chữa, thậm chí còn đưa vào một tình tiết mới, tuy không hề làm thay đổi nội dung chính của câu chuyện. Từ đấy trở đi, Manông Lexcô mới giành được một chỗ đứng vững chãi trong các sáng tác xuất sắc nhất của văn chương thế giới xưa nay. *** Đề tài được Prévost luận giải trong Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô là thứ tình yêu tiền định, đủ sức nhấn chìm hết thảy mọi thứ ở đời. Đây là đề tài, như đã nói, vốn chiếm vị trí chủ chốt trong sáng tác của nhà văn. Nhưng khác với những bộ tiểu thuyết trường thiên của Prévost, cốt truyện vốn hết sức phức tạp và lắt léo, Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông là một áng văn bố cục cân đối và hài hóa khác thường. Nét đặc sắc ấy sở dĩ có được chắc hẳn, chính là do tính chất tự thuật của nó: cái bi kịch làm chất liệu của thiên truyện cũng chính là tấn bi kịch đầy xúc động mà tác giả đã nếm trải với tất cả tâm hồn mình một cách đủ sâu sắc, đến mức chẳng cần phải thêm thắt bất cứ một suy tưởng hay một biến cố hư cấu nào. Prévost đã dựng lên được một hình tượng về một “cô gái sa đọa”, có sức lôi cuốn mãnh liệt đến mức gần như lấn át hết hình ảnh của chàng hiệp sĩ chung tình của chính mình trong cảm thức của người đọc. Một chứng cứ, thoạt nhìn rất nhỏ nhặt, nhưng đầy sức thuyết phục, là: ngay từ đầu thế kỷ trước, các nhà kinh doanh sách đã tùy tiện “đổi” lại nhan đề tập sách từ Truyện chàng hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô thành Truyện nàng Manông Lexcô và hiệp sĩ đơ Griơ; ít lâu sau, nữ nhân vật đã lấn át hẳn tên tuổi của chàng hiệp sĩ ở bìa sách: tên truyện, bây giờ chỉ còn vẻn vẹn ba chữ: Nàng Manông Lexcô. Mãi gần đây, các nhà xuất bản ở Pháp mới trở lại với cái tên cũ, do chính tác giả đặt cho quyển truyện, việc đảo ngược họ tên hai nhân vật tưởng chừng rất nhỏ nhặt, nhưng thực ra đã động chạm đến một vấn đề lớn: ai là nhân vật chính và tấn bi kịch, mà nhà văn muốn thuật lại với chúng ta trong tác phẩm, là bi kịch của người nào, và dĩ nhiên chẳng phải vô cớ mà Prévost đã để tên hiệp sĩ đơ Griơ lên ở đầu; chính chàng, hiệp sĩ đơ Griơ, chứ không phải Manông Lexcô, mới là nhân vật chính của tấn bi kịch trong truyện. Hơn nữa, mối xung đột được Prévost lồng vào các biến cố là ở đây tại chính là sự xung khắc gay gắt giữa hai tính cách: hiệp sĩ đơ Griơ và người con gái mà chàng say đắm yêu. Ví thử đơ Griơ cũng vô đạo đức như Manông thì cuộc hội ngộ giữa hai người chắc chắn sẽ chẳng kéo theo một tấn bi kịch nào: vì gắn bó số phận mình với Manông, chàng sẽ hóa thành một gã ma-cô tốt số; và với cái vẻ ngoài đầy quyến rũ của Manông, cuộc sống của họ rồi đây chắc hẳn sẽ trôi qua một cách êm ả trong no đủ, chẳng còn phải bận bịu, lo toan gì nữa… Vả chăng, cả người anh của Manông, lẫn bản thân nàng đều đã nhắc nhở hiệp sĩ nên đi theo chính con đường ấy. Nhưng toàn bộ sự tình chính là ở chỗ đơ Griơ và Manông là hai tính cách khác hẳn nhau; cả bản chất đạo đức, lẫn diện mạo tinh thần của cả hai đều rất ít có những nét chung. Bi kịch của đơ Griơ chính là ở chỗ chàng không thể chia sẻ với Manông một lý tưởng về tình yêu cao thượng, mà chỉ có nó mới đáp ứng được lòng mong mỏi của chàng; trong khi đó thì toàn bộ tấn bi kịch của Manông chung quy chỉ là sự thiếu thốn những điều kiện sinh hoạt vật chất. Nghe theo sự mách bảo của ý nguyện chính mình, Prévost đã thuật lại câu chuyện qua lời hiệp sĩ. Hình thức tự truyện cho phép nhà văn bộc lộ một cách hết sức sâu sắc và chân thực toàn bộ thế giới bên trong của nhân vật. Tấm lòng cao thượng bẩm sinh và nếp nghĩ quá thiên về lý tưởng đã không cho phép đơ Griơ nhận ra con người thực của Manông, chỉ họa hoằn lắm, và thường là vào lúc vắng bóng người yêu, đần óc chàng mới đủ sáng suốt để cảm nhận sự độc hại về đạo đức của chính mình, và càng nhận rõ được sự suy đốn đó sâu sắc bao nhiêu, chàng càng tin chắc thêm bấy nhiêu sự ươn hèn của bản thân và càng thấy rõ sẽ không còn biết lấy đâu ra sức lực nữa để mà chống trả, vì nghị lực chàng đã tiêu ma đi hết bởi lẽ vướng vào mối tình bất hạnh này. Trung thành với những lý tưởng cao cả của chính mình về tình yêu, hiệp sĩ đã cư xử với Manông như một hiện thân thuần khiết nhất của nữ tính, cần nhớ rằng trong suốt cuốn truyện, đơ Griơ đã không hề đã động lấy một lời về con người thể chất của Manông, về nét mặt của nàng. Đối với chàng, Manông là một thực thể tuyệt đối, hao hàm trong bản thân nó hết thảy mọi sự hoàn thiện. Và với tư cách một hiệp sĩ chân chính, đơ Griơ đã hiến thân cho thần tượng mình ngưỡng mộ hết thảy mọi thứ đang có – tên tuổi, địa vị xã hội, gia đình, bước đường công danh, cuộc sống sung túc; và nếu cần, sẵn sàng hiến luôn cả mạng sống của chính mình. Hình tượng của Manông, xét về các phẩm chất nghệ thuật, là một trong những hình tượng hoàn mỹ nhất của văn chương thế giới. Ở đây, nhà văn đã kết hợp được thành một thể thống nhất hai khía cạnh tương phản gay gắt – vẻ ngoài đầy sức quyến rũ và sự hạn hẹp về thế giới nội tâm của nữ nhân vật – bằng một tài nghệ phi thường đến mức người đọc luôn luôn bị quyền lực của hai tình cảm đối lập nhau chi phối: vừa thán phục và vừa căm giận. Tuy nhiên, cũng đừng quên rằng hình tượng Manông mà chúng ta cảm nhận ở đây là qua lời kể của đơ Griơ – một người thuật chuyện nhiệt thành đến mức khó có ai theo kịp. Đơ Griơ lúc nào cũng không tiếc lời biện hộ cho nàng và chỉ hãn hữu lắm mới cảm nhận được ít nhiều rõ nét những thói hư tật xấu của cô gái, Manông là một phụ nữ mất hết mọi nền nếp đạo lý, là một con người trí lực kém cỏi và tầm nhìn cực kỳ thiển cận, chật hẹp, cho nên sẽ rất lầm lạc, nếu khẳng định rằng cái ngự trị trong thiên truyện là ý niệm “tính người tối đa” (chelovecheskij maksimum). Không cần tuyên bố công khai rằng chủ nghĩa khoái lạc nhất thiết phải là bạn đồng hành cố hữu của thói xem thường các quy phạm đạo đức vẫn được xã hội chấp nhận, ta vẫn có quyền coi việc đánh đồng hình tượng Manông với ý niệm “tính người tối đa” là việc làm quá ư ngây thơ: tính người đâu phải chỉ thu gọn ở những bộ trang phục lộng lẫy, ở những bữa dạ tiệc thịnh soạn, ở những chiếc vé xem hát đắt tiền và những trò tiêu khiển miên man. Cội nguồn tạo dựng, ngay cả khi xét trong phạm vi của nữ giới đơn thuần đi nữa, cũng xa lạ đối với Manông. Ta không tài nào hình dung nổi nàng trong cương vị của một người mẹ, một người vợ, tảo tần nuôi con dạy cái và thu vén việc cửa nhà. Hơn nữa, Manông còn mang sẵn trong con người mình bản năng tàn phá – hễ tiếp cận với nàng, mọi thứ đều lập tức trở nên đồi bại. Ngay cả đám tôi tớ của Manông, do chứng kiến cảnh sống chung của nàng với đơ Griơ, cũng đã tiêm nhiễm phải những thói xấu của chủ: họ cũng lấy cắp tiền nong, tư trang của chủ, y hệt như nàng đã lấy cắp của đám khách làng chơi đến giải buồn. Manông không đủ sức mang lại hạnh phúc cho người nàng yêu: ngay cả khi đã đứng vững chân trên một mảnh đất chắc chắn như mối tình rất mực thủy chung của đơ Griơ đi nữa, nàng vẫn không sao xây dựng được một hạnh phúc lứa đôi bền chặt. Đến như tình cảm máu mủ, ruột rà, nàng cũng hoàn toàn xa lạ, Không như đơ Griơ, lúc nào cũng ngóng chờ được trở về sum họp với cha già, với người em, với người bạn thời thơ ấu, Manông không bao giờ tưởng đến gia đình và đả động đến gia đình. Ngay cả bạn gái, nàng cũng không có. Trong khi đơ Griơ bao giờ cũng canh cánh bên lòng hình ảnh người bạn Tibecgiơ, thậm chí cả khi hai người xa cách, thì Manông hoàn toàn chẳng có một ai để mà kết thân. Nàng không hề dành sẵn đất cho tình bằng hữu. Cần nhận thấy rằng trong thiên truyện của Prévost, từ phía đơ Griơ đã xuất hiện toàn những nhân vật chính diện (cha chàng, em chàng, Tibecgiơ, ông đơ T… – và thậm chí cả viên cai ngục ở nhà tù Priut nữa), thì từ phía Manông chỉ xuất hiệu toàn những nhân vật phản diện (anh nàng, đám khách làng chơi liên tục thế chân nhau). Manông tựa hồ như một thứ ma lực, chỉ lôi cuốn về phía mình toàn những cái xấu, cái ác, cũng rất đáng chú ý là hết thảy những kẻ “ngưỡng mộ” Manông, được nhà văn dựng lại trong truyện, đều chỉ đến với nàng không từ một động cơ nào khác, ngoài những dục vọng đê cấp; họ không hề ngờ vực mảy may nào sự thành công của chính họ, vì ai cũng thừa biết rằng nàng không phải là “món khó gần”. Không hề thấy một gã nào trong số họ đến với nàng là do những tình cảm chân thành thôi thúc. Nói cho công bằng, thì khi sang đến Mỹ, hành vi của Manông có phần ít đáng chê trách hơn lúc còn ở quê nhà. Nhưng vị tất đã có thể xem đây là kết quả của sự ăn năn hay sự cải hóa tự nhiên của tâm tính. Sang đất Mỹ thời ấy là cả một cuộc hành trình dài dằng dặc – hàng trăm cây số rong xé trên đất Pháp, thêm hai tháng trường lênh đênh trên thuyền buồm giữa đại đương, rồi điều kiện sống khắc nghiệt ở Tân thế giới, thân phận hèn kém của kẻ bị lưu đày, và những thiếu thốn, thua thiệt đủ mọi đường – tất cả những cái đó không thể không làm tổn hại đến sức mạnh tinh thần và thể chất của Manông. Sang đến Mỹ, nàng đã hóa thành một con người khác – đau khổ, kiệt sức, tuyệt vọng, từ bỏ hẳn lối sống buông thả và nông nổi ngày nào. Nét nổi bật của thiên truyện là Prévost đã miêu tả một cách tỉ mỉ lạ thường những đặc điểm về sinh hoạt của thời đại. Hành động tả trong truyện diễn ra đúng vào thời kỳ Trùng Hưng (1715 – 1723), khi mà xã hội Pháp say sưa lao vào một lối sống buông thả hoàn toàn, vào những năm chót cùng của triều đại Louis XIV dài lê thê. Cái ngự trị trong chốn cung đình là sự hà khắc và thói đạo đức giả. Không khí đó đã ảnh hưởng rất sâu đậm đến toàn bộ nếp sinh hoạt bên ngoài xã hội, sau ngày Louis XIV chết đi, ngôi báu đã lọt vào tay người chắt là Louis XV (vì cả con, lẫn cháu vua đều đã về chầu Chúa trước tổ phụ), bấy giờ mới chỉ là một cậu bé con thơ dại. Bởi thế, mọi quyền bính trong nước, trên thực tế, đều nằm trong tay quan nhiếp chính Philippe Orléans ham vui và nông nổi. Thần dân trong nước tức thì phản ứng ngay lại với bầu không khí tẻ nhạt, giả dối, từng chiếm địa vị thống trị dưới thời đức vua già lụ khụ ngày xưa, xã hội Pháp tức thì trút một hơi thở phào nhẹ nhõm và lao ngay vào cuộc sống ăn chơi, phè phỡn, cho bõ những ngày dài câu thúc, kiêng khem mới đây. Linh mục Prévost quả đã làm sống lại trong truyện một cách chính xác phi thường nhiều đặc điểm của nếp sống thời ấy. Các sử gia thời Trùng Hưng đều nhất trí thừa nhận rằng những tình tiết nhỏ nhặt, như thể thức lưu đày sang Mỹ những tù nhân bị khép tội phát vãng, địa điểm các sòng bạc và lề thói sát phạt của đám dân máu mê, những thể chế tồn tại trong các sở cẩm, các trại giam, cũng như các tửu điếm, v.v..., nhất nhất đều xác thực. Tác giả không tự cho phép mình bỏ qua bất cứ chi tiết nào từng được chứng kiến tận mắt. Bức tranh do nhà văn vẽ lại về cuộc sống thời bấy giờ quả chân xác đến mức khó lòng quở trách. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những xung đột được Prévost khắc họa ở đây đều chỉ tiêu biểu cho cái thời đại lịch sử ấy, bởi lẽ những trở lực ngăn cản đơ Griơ và Manông vươn đến hạnh phúc không chỉ đơn thuần là ở các thể chế xã hội thời Trùng Hưng, mà chính là ở tính cách của Manông. Nền văn chương thế kỷ XVIII vốn không thiếu gì những sáng tác miêu tả những trở lực do các thiên kiến của giai cấp quý tộc vô tư sản dựng lên trên bước đường đi đến hạnh phúc của các đôi nam thanh nữ tú, chỉ cần đơn cử ra đây một dẫn chứng: trong Nàng Héloise mới, hạnh phúc của Julie và Xanh Pré cũng đã sụp đổ, chung quy chỉ vì Xanh Pré xuất thân từ tầng lớp bình dân. Tấn bi kịch của đơ Griơ có một ngọn nguồn hoàn toàn khác, và không thể đã hết trách nhiệm lên đầu hoàn cảnh xung quanh, nói riêng là người cha già của hiệp sĩ. Ông thân của đơ Griơ chống lại cuộc hôn nhân giữa con mình với Manông không phải vì nàng xuất thân từ tầng lớp dân thường, mà chính vì nàng là một nhân cách suy đốn về đạo đức, không thể mang lại hạnh phúc cho con trai của chính mình, cha của đơ Griơ là một người từng trải, và hiểu được thế nào là nhân tình thế thái. Câu chuyện trốn nhà ra đi của Manông với con trai ông, người nàng mới quen biết qua loa, rồi hoàn cảnh diễn ra cuộc hội ngộ đó, và chắc hẳn chính số phản phúc của Manông, đã tố giác người tình khi vừa hay biết được rằng chàng không lấy đâu ra tiền để chu cấp cho mình – tất cả những sự kiện ấy đã giúp ông thấu hiểu được chân tướng của Manông và có đầy đủ mọi lý lẽ để chống lại cuộc hôn nhân. Không một ông cha hay bà mẹ nào, chẳng riêng gì ở thời Trùng Hưng, mà ở bất cứ thời đại nào khác, lại có thể tán thành với dự tính của một anh con trai mười bảy, do chính mình đứt ruột đẻ ra, đem gắn bó số phận với một cô gái giang hồ, chuyên ăn cắp vặt và toàn ngấm ngâm mưu mô những chuyện làm ăn gian lận. Tìm cách biện hộ cho Manông, xuê xoa hay nhắm mắt làm ngơ với những căn nguyên sâu xa của cái nhân cách tồi tệ đó có nghĩa là hạn chế bớt mức độ gay gắt, tính độc đáo và tầm bao quát của hình tượng ấy, do đó, không đánh giá hết chiều sâu tâm lý và tài nghệ của nhà văn. Người bạn hơn tuổi của đơ Griơ, chàng Tibecgiơ, được tác giả khắc họa như một người bạn mẫu mực, trung thành. Từ lâu rồi, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy: các nhân vật chính diện, nhất là trong văn chương thế kỷ XVIII, bao giờ cũng là những nhân cách kém sắc sảo, “nghèo nàn” hơn các nhân vật phản diện, Nhưng ở Tibecgiơ, đức khôn ngoan và lòng chung thủy trong hành vi tuyệt nhiên không làm hình tượng chàng trở nên mờ nhạt và vô vị. Tibecgiơ tuy kiên định trong đức tin, nhưng vẫn tỏ ra rất mực khoan dung đối với đơ Griơ; chàng rất nghiêm khắc, nhưng đồng thời vẫn rất người, ví thử Tibecgiơ chỉ là một anh chàng cố chấp, ti tiện và thông thái rởm, chỉ biết truyền giảng những bài học luân lý tẻ nhạt đơn thuần, thì không đời nào đơ Griơ lại quý trọng chàng đến thế, Tibecgiơ là người bạn chân tình, ngay thẳng, đầy lòng bao dung, nhưng không bao giờ tha thứ cho bạn về những việc làm nông nổi. Sự trung thành, tận tụy của chàng đã đạt đến đỉnh cao của đức xả thân: để cứu bạn, chàng sẵn sàng hy sinh hết thảy, theo chân bạn sang tận đến Mỹ, mặc đã chuyến đi ấy vào thời Prévost phải kéo đài hàng mấy tháng trường và phải trải qua bao nhọc nhằn, vất vả, thậm chí có khi phải mạo hiểm đến cả tính mạng nữa. Đơ Griơ đánh giá rất cao tình bạn giữa chàng và Tibecgiơ, chàng tin chắc rằng không một thử thách nào có thể bẻ gãy được mối quan hệ thân thiết đó. Tibecgiơ là người độc nhất mà đơ Griơ có thể cởi mở hết tấm lòng, và chính nhờ những cuộc tranh cãi tay đôi với Tibécgiơ, chàng đã lần gỡ được thực chất của mối tình say đắm mình đang đeo đuổi và tìm thấy lời giải đáp cho những câu hỏi đang dằn vặt tâm can. Trong những cuộc tranh cãi ấy, quan điểm của hai người hoàn toàn khác nhau, nhưng điều đó không hề cản trở họ hiểu nhau (nhất là Tibecgiơ đối với tâm tư của đơ Griơ). Lý lẽ do Tibecgiơ đưa ra, đơ Griơ hoàn toàn không thể chấp nhận được, vì những lý lẽ ấy chẳng những bao hàm cả sự kết án cách hành động của chàng, mà còn công khai bác bỏ hoàn toàn cái ảo tưởng của chàng về cuộc sống hạnh phúc với Manông. Dẫu sao, chàng hiệp sĩ bất hạnh cũng chẳng còn ai khác nữa để mà tâm sự: chàng biết rõ rằng người bạn ấy sẽ đem đến cho mình chẳng phải chỉ có những lời chỉ trích, mà còn có cả sự cảm thông, sự nâng đỡ và sự thấu hiểu. Nhân tiện cần ghi nhận rằng chưa bao giờ đơ Griơ đã thử cố trò chuyện với Manông về những đề tài thường xuyên được đề cập đến trong những cuộc tranh luận với Tibecgiơ. Trước ngày gặp Manông, đơ Griơ chắc hẳn vẫn luôn luôn chia sẻ các quan niệm của Tibecgiơ. Sự giống nhau đó chính là nền tảng của tình bạn giữa hai người, là cội rễ của sự kính trọng lẫn nhau giữa họ. Sự bất đồng quan điểm giữa đơ Griơ và Tibecgiơ chỉ là một chuyện nhất thời, và rất có thể sự bất đồng đó, nếu không hoàn toàn mất đi, thì ít ra cũng sẽ đỡ gay gắt hơn, một khi những thế lực chia rẽ họ mất tác dụng. Theo nhận định rất sắc sảo của nhà nghiên cứu văn học Arsen Usse, Tibecgiơ là lương tâm của hiệp sĩ đơ Griơ. Tài nghệ mà nhà văn đem ra để sáng tác nên Truyện hiệp sĩ đơ Griơ và nàng Manông Lexcô đã đưa thiên truyện không bao lăm trang này vào hàng những kiệt tác vĩ đại nhất chẳng những của văn chương Pháp, mà cả của văn chương thế giới. Thiên truyện được viết bằng một bút Pháp giản dị và hài hòa lạ thường; lời văn chuẩn xác, trong sáng và đầy âm hưởng, không nhường bước trước bất cứ một áng vấn mẫu mực ưu tú nào trong văn chương Pháp thời cổ điển và thời Khai sáng. Câu chuyện của đơ Griơ về những nỗi bất hạnh và đau khổ của chính chàng được thuật lại một cách chân thật, không chút khoa trương, không chút tô vẽ cốt gây ấn tượng; nhưng đằng sau cái vẻ ngoài kìm giữ đó, người đọc vẫn luôn cầm thấy một nỗi say mê sôi sục. Cả về phương điện bố cục nữa, thiên truyện cũng thật hoàn mỹ: ngay từ mấy trang đầu, tác giả đã đưa chúng ta đi thẳng vào diễn biến câu chuyện, và hứng thú của chúng ta vẫn không hề giảm sút mảy may cho đến lúc đọc dòng chót cùng tác phẩm. Nhưng công lao chủ yếu của linh mục Prévost dĩ nhiên là ở chỗ ông đã tạo dựng được hai hình tượng văn học thực sự bất hủ. Hiệp sĩ đơ Griơ là mẫu mực của một tình yêu rất mực thủy chung, của đức hy sinh và của lòng vị tha vô bờ hến. Nhà văn đã vẽ lên trước mắt chúng ta những tâm tư đau khổ và phức tạp của chàng trai một cách đầy thuyết phục đến mức ta sẵn lòng tha thứ hết cho chàng mọi lỗi lầm chàng đã phạm phải và luôn vững tin vào sự cao thượng và sự trong sạch về đạo đức của chàng. Còn hình tượng Manông thì thật khó tìm một điển hình văn học nào sánh ngang về sự hoàn mỹ trong văn chương thế giới xưa nay. Nhà văn đã ký thác nơi cô gái đầu óc trống rỗng, tâm hồn chai sạn, tầm mắt hạn hẹp và đạo đức đốn mạt ấy một vẻ quyến rũ mãnh liệt đến mức khiến ta suýt quên đi những thói hư tật xấu của nàng và sẵn sàng hâm mộ nàng cũng chẳng kém gì đích thân hiệp sĩ đơ Griơ. Arsen Usse đã nhận xét rất đúng rằng dù nhân tình của Manông có đông đến bao nhiêu đi chăng nữa, con số đó vẫn chẳng thấm tháp vào đâu so với đám người ngưỡng mộ cô nữ nhân vật mà linh mục Prévost đã dắt đến bên chân nàng. Thật vậy, đã hai thế kỷ trôi qua, nhưng Manông vẫn đầy sức quyến rũ. Từ các trang sách của nhà văn, tiếng cười say nồng của nàng vẫn vang vọng mãi không thôi và ánh mắt huyền bí, ranh mãnh của nàng vẫn lôi cuốn chúng ta như ngày nàng mới ra mắt. E. GUNST[1] Đức Dương dịch Mời các bạn đón đọc Manon Lescaut của tác giả Abbe Prevost.
Fulro Tập Đoàn Tội Phạm - Ngôn Vĩnh
Khối thống nhất dân tộc là sức mạnh quyết định sự sống còn của một quốc gia, nên chia rẽ dân tộc luôn là chính sách lớn của bọn xâm lược.   Tám mươi năm đô hộ của thực dân Pháp cũng là tám mươi năm dân tộc Việt Nam chống lại mọi âm mưu chia rẽ thâm độc: Đất nước phân thành ba kỳ; chế độ cai trị phức tạp (thuộc địa ở Nam, bảo hộ có vua ở Trung, bảo hộ không vua ở Bắc, “Hoàng triều cương thổ” ở Tây Nguyên, nhượng địa ở Đà Nẵng, quân quản ở Hà Giang…); chưa kể hàng loạt chính sách khác nhằm tạo ra hố ngăn cách sâu sắc giữa người Kinh với người Thượng, người Thượng với người Thượng, lương với giáo, tỉnh này với tỉnh kia, làng này với làng khác.    Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cách mạng giành lấy chính quyền và bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Chưa bao giờ khối thống nhất dân tộc được củng cố thành sức mạnh vô định và được toàn dân ý thức rõ ràng, khoa học như từ sau Cách mạng tháng Tám, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Vì vậy mà cũng chưa bao giờ bọn xâm lược phải chộp lấy “lá cờ dân tộc” vùng lên hùng hổ và loạn xạ như lúc này. Trong 8 năm chống Pháp đã diễn ra một loạt thủ đoạn chia rẽ xảo quyệt, rối rắm, thậm chí có khi liều lĩnh, bất chấp mọi lô - gich: xứ  Nam Kỳ tự trị, xứ Tây Nguyên tự trị, Liên bang Đại Thái, xứ Nùng tự trị, xứ Mường tự trị, v.v...    Đế quốc Mỹ thay chân đế quốc Pháp vào lúc mà những thủ đoạn thực dân lỗi thời và bọn việt gian nhẵn mặt không còn lừa bịp được ai. Cũng là lúc mà tinh thần dân tộc ăn sâu thành niềm tin vào lòng dân vì đã tỏ rõ sức mạnh vĩ đại của nó qua thử thách của cuộc kháng chiến thắng lợi.  Bắt buộc Mỹ phải phất lên “lá cờ dân tộc” dưới một hình thức mới: Trao nó vào những tay cầm cờ khác – và tung ra xung quanh một màn khói mù làm bằng trăm thứ thủ đoạn chính trị, kinh tế, văn hóa rắc rối.   Tây Nguyên, vùng sắc tộc phong phú và tập trung nhất của miền Nam, địa bàn chiến lược có lịch sử chống ngoại xâm kiên cường và bền bỉ, tất nhiên trở thành khu vực trọng yếu buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải dồn sức thống trị bằng được.   Cái gọi là FULRO –  Mặt trận thống nhất tranh đấu của các dân tộc bị áp bức – là lá cờ bịp mà đế quốc Mỹ và tay sai đã phất lên trước các sắc tộc Tây Nguyên suốt 20 năm chiếm đóng; và hiện nay không phải là không còn những thây ma thoi thóp mượn tiếng nó, cố phe phẩy những mảnh vụn tả tơi của nó, để tiếp tục phỉnh phờ những người chưa hiểu, mong kéo dài thêm cơn hấp hối nhau, bắt tay nhau, rồi trở mặt dìm nhau trong bể máu, tiếp tục thanh toán nhau đến đuổi kỳ được một bên ra khỏi Tây Nguyên màu mỡ…Họ như con rối mà đầu mối dây nằm trong tay những thế lực không bao giờ nhất trí về quyền lợi riêng: Mỹ, Pháp, ngụy quyền Sài Gòn và những kẻ theo đóm ăn tàn như Xi-ha-núc hay lớp chính khách cùng nhóm máu tương tự.    Những cuộc phiêu lưu mà chỉ có họ mới hiểu nguồn gốc sâu xa, còn người dân Thượng nghèo nàn lạc hậu chỉ cần tròng vào “lá cờ dân tộc” đã được đế quốc Hoa Kỳ quét lên một lớp vàng chói lóa, giúp họ dù quay quắt hướng nào cũng dễ tìm ra lời biện hộ đầy sự thật mê hoặc.    Duy chỉ có sự thật họ không lần nào dám nói lên là: Họ chưa tiến hành một trận đánh nhỏ nào để đem lại hạnh phúc thực sự cho người dân Thượng, Chàm. Họ chưa có giây phút nào hết căm thù cách mạng để cộng tác chân thành với Mặt trận giải phóng. Đó lại là sự thật rõ nhất về họ, cũng là sự thật cơ bản của đế quốc Mỹ.    FULRO, chung quy chỉ là một trò bịp lớn. Những âm mưu thâm độc và những hoạt động cơ hội “kiểu áp phe Hoa Kỳ”, những xâu xé trong nội bộ tầng lớp trên cầm đầu, những mâu thuẫn toàn cuộc và cục bộ đã phủ lên nó một vẻ bề ngoài chỉ dễ nhìn đối với những ai đứng xa, ngoài cuộc. Nhưng đối với chúng ta, chỉ cần có thì giờ và hoàn cảnh đi vào thực chất những kẻ cầm đầu và lần lại đường dây những biến động lớn đã xảy ra trên núi rừng Tây Nguyên trong 18 năm gây rối, thì sẽ không khó khăn gì mà không nhận ra bộ mặt thật của cái gọi là FULRO.   Cuốn sách này mong cung cấp cho bạn đọc một số tài liệu bước đầu sưu tập được để giúp bạn đọc tự mình nhận ra điều đó. Mời các bạn đón đọc Fulro Tập Đoàn Tội Phạm của tác giả Ngôn Vĩnh.
Biển Gọi - Hồ Phương
“Biển gọi” là câu chuyện kể về đoàn tàu không số, về một chiến sĩ có tên là Vũ và đồng đội của anh - những chiến sĩ hải quân, những thủy thủ trên những con tàu nhỏ nhoi, đơn độc, len lách tìm tòi, khai mở những con đường mới trên biển cả mênh mông, lạ lẫm và đầy sóng gió, giông bão, giữa sự vây bủa trùng điệp của quân thù. *** Hồ Phương là nhà văn quân đội, là “nhà văn của những dòng ngợi ca” như người ta vẫn thường nói. Tuy nhiên, khi viết “Biển gọi”, ông không chỉ ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, không chỉ phác thảo gương mặt của những người anh hùng, miêu tả những hành động anh hùng mà ông còn có những trang viết bi tráng nói về sự hy sinh mất mát lớn lao của người lính. Tác phẩm tiêu biểu Vệ út (truyện) (1955) Vài mẩu chuyện về Điện Biên Phủ (truyện) (1956) Lá cờ chuẩn đỏ thắm (truyện) (1957) Thư nhà (truyện ngắn) (1948) Cỏ non (truyện ngắn) (1960) Trên biển lớn (truyện ngắn) (1964) Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng (ghi chép) (1964) Nhằm thẳng quân thù mà bắn (truyện) (1965) Chúng tôi ở Cồn Cỏ (ký sự) (1966) Kan Lịch (tiểu thuyết) (1967) Số phận lữ dù 3 ngụy Sài Gòn (ký) (1971) Khi có một mặt trời (truyện) (1972) Những tầm cao (tiểu thuyết - 2 tập) (1975) Phía tây mặt trận (truyện ngắn, ký) (1978) Biển gọi (tiểu thuyết) (1980) Cầm Sa (truyện ngắn) (1980) Bình minh (tiểu thuyết) (1981) Núi rừng yên tĩnh (truyện, ký in chung) (1981) Mặt trời ấm sáng (tiểu thuyết) (1985) Cỏ non (tuyển truyện ngắn) (1989) Đại đoàn đồng bằng (ký sự in chung) (1989) Anh là ai (tiểu thuyết) (1992) Ông trùm (truyện ngắn) (1992) Cánh đồng phía Tây (tiểu thuyết) (1994) Chân trời xa (tiểu thuyết) (1985) Huế trở lại mùa xuân (truyện ngắn) Yêu tinh (tiểu thuyết) (2001) Ngàn dâu (tiểu thuyết) (2002) Những cánh rừng lá đỏ (tiểu thuyết) (2005) Cha và con (tiểu thuyết) (2007) Mời các bạn đón đọc Biển Gọi của tác giả Hồ Phương.
Bất Khuất - Nguyễn Đức Thuận
Theo dõi bước chân Nguyễn Đức Thuận trên từng trang, từng trang "Bất Khuất", người đọc nhiều lúc nín thở, hồi hộp, xúc động đến trào nước mắt, trái tim căng lên, sôi sục máu căm thù. Tác giả dẫn chúng ta đi theo anh trên con đường đầy đau thương, khổ ải, trong hơn ba ngàn ngày, trải qua những lò giết người cực kỳ man rợ, man rợ hơn cả bọn đao phủ thời Trung cổ, hơn cả bọn phát xít Hítle. Qua gần ba nghìn cửa ải, từ Pêcarăngđơ, nhà lao Gia Định, trung tâm Thủ Đức, Tổng pha đến Côn Đảo, sa vào những chuồng cọp, địa ngục trần gian đầy rẫy ác ôn quỷ dữ là tập đoàn đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai mổ bụng ăn gan, uống máu người không biết tanh, Nguyễn Đức Thuận cũng với biết bao chiến sĩ cộng sản kiên cường, biết bao người Việt Nam yêu nước, đã đối mặt với quân thù, chống chào cờ ba que, chống học tập "tố cộng", chống "ly khai" tới cùng. Tám năm trời đằng đẵng, ba ngàn ngày mà mỗi phút, mỗi giây, mạng người bị treo bằng một sợi tóc mong manh, chơi vơi trên một vực thẳm kinh hồn. Hơn một ngàn đồng bào đồng chí chúng ta đã hy sinh. Nhưng Nguyễn Đức Thuận và những con người kiên cường như anh vẫn đứng vững trong chồng cọp, đánh bại lũ diêm vương quỷ sứ, đẩy lùi bàn tay thần chết, bắt lũ chúng phải quỳ lạy dưới chân mình. Mỗi trang "Bất khuất"  là một trang thấm máu và nước mắt, tràn đầy một sức sống mãnh liệt, vang lên tiếng hát yêu đời, yêu cuộc sống, yêu con người, vang lên bài ca chiến thắng không bao giờ tắt. Với trên bốn trăm trang hồi ký, Nguyễn Đức Thuận đã phản ánh sâu sắc cuộc sống anh hùng với tinh thần cách mạng tiến công của những con người có thực, vạch trần hiện thực đen tối trong những địa ngục của xã hội miền Nam dưới gót sắt của một lũ sói lang mặt người dạ thú. "Bất Khuất" toả ra một niềm tin bất diệt vào sự nghiệp cách mạng, vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa giải phóng con người, nêu cao phẩm giá của những con người nhận thức được quy luật và chân giá trị cuộc sống, biết sống và biết chết xứng đáng là Người. *** Nguyễn Đức Thuận (1916 – 1985) là nhà cách mạng Việt Nam, nguyên là Phó Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Ông là tác giả cuốn Bất khuất, một cuốn tự truyện từng gây tiếng vang ở miền Bắc về "sức chịu đựng kỳ diệu của một người chiến sĩ", suốt 8 năm bị tra tấn dã man vẫn không khuất phục..."). Nguyễn Đức Thuận có một cuốn tự truyện duy nhất và khá nổi tiếng tại miền Bắc lúc in lần đầu là cuốn Bất khuất. Cuốn sách này thuật lại toàn bộ thời gian ông bị bắt và chịu tù đày của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, và sách cũng từng gây chấn động miền Bắc và quốc tế về sức chịu đựng khó tin của một người chiến sĩ. Sách được xuất bản lần đầu vào tháng 4 năm 1967 với 210.000 bản in tại miền Bắc. Những năm sau đó, Nhà xuất bản Ngoại văn Việt Nam đã dịch tác phẩm Bất khuất ra 5 ngôn ngữ khác (Anh, Hoa, Nga, Pháp và quốc tế ngữ), in với số lượng lớn phát hành ra nước ngoài, nhằm gây chú ý của dư luận thế giới. Cuốn sách này có nhiều ý kiến tranh cãi về độ xác thực của một số chi tiết trong đó song vẫn được xem là một tác phẩm có giá trị nên đã được tái bản một số lần[ Tuy nhiên trong cuốn hồi ký Đèn cù, Trần Đĩnh cho rằng mình là người chấp bút tác phẩm này. Mời các bạn đón đọc Bất Khuất của tác giả Nguyễn Đức Thuận.