Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hội Chợ Phù Hoa (William Makepeace Thackeray)

William Makepeace Thackeray sinh ngày 18 tháng 7 năm 1811 tại Calcutta, Ấn Độ. Ông là con một viên chức của Công ty Ấn Độ, lãnh chức vụ tài phán ủy viên. Năm Thackeray lên 4 tuổi, cha ông từ trần, mẹ ông tái giá. Ông theo mẹ về nước Anh, được gửi theo học trong một trường tư thục ở Chiswich HamSơ. Lối giáo dục nghiệt ngã trong trường này khiến ông không chịu nổi, đã có lần ông phải bỏ trốn. Ta còn thấy dấu vết trường học này trong chương đầu cuốn Hội chợ phù hoa (Vanity Fair). Năm 18 tuổi, ông theo học luật khoa tại Đại học đường Cambridge, nhưng không tốt nghiệp. Ông tỏ ra có khuynh hướng châm biếm ngay từ hồi còn ít tuổi. Trong thời gian theo học tại trường đại học Cambridge, ông dành nhiều thì giờ cộng tác với những tờ báo trào phúng, thí dụ tờ Timbutoo, tờ Người học làm sang (The Snob) hơn là để trau dồi những kiến thức mà ông thấy vô ích.

Rời nhà trường, ông chính thức bước vào làng văn với những bài báo và những truyện ngắn có tính chất châm biếm. Nhờ gia sản của cha để lại, được hưởng một món lợi tức đồng niên khá dồi dào, ông có điều kiện du lịch nhiều nơi tại Âu châu. Ông có sống tại Weima (Đức) một thời gian để tìm hiểu phong tục địa phương và nghiên cứu về thi hào Goethe. Rải rác trong tác phẩm của ông, ta còn thấy một số chi tiết miêu tả sinh hoạt của giới quý tộc Đức, thí dụ đoạn tả tiểu triều đình Pumpernickel trong Hội Chợ Phù Hoa. Ông cũng đã sống tại Paris một thời gian khá lâu để theo học nghề hội họa. Trong lĩnh vực văn học cũng như trong lĩnh vực mỹ thuật, sở trường của ông rất thống nhất: ông có biệt tài về loại tranh biếm họa, đã một thời sinh nhai về nghề này tại Paris. Cũng tự tay ông đã vẽ những “vi-nhét” và những tranh minh họa in kèm tác phẩm Hội chợ phù hoa lần xuất bản thứ nhất. Kết quả của những cuộc du lịch ấy là những tập ký sự có tính chất châm biếm như Tập ký họa thành Paris (The Paris Sketch Book, 1840), Tập ký họa xứ Ai len (The Irish Sketch Book, 1843)v.v…

Hồi còn thanh niên, Thackeray sống một cuộc đời phong lưu, có dịp tiếp xúc nhiều với những người thuộc tầng lớp tư sản và quý tộc, nhân đó ông đã thu lượm được những tài liệu thực tế rất phong phú về cuộc sống vật chất và tinh thần của những hạng người này để đưa vào tác phẩm của mình. Người ta còn nói rằng vì vợ ông mắc bệnh loạn trí nên ông sinh ra chán đời, việc ấy có thể phần nào cũng ảnh hưởng tới cái nhìn bi quan của ông đối với cuộc sống, và khiến cho ngòi bút châm biếm của ông thêm chua chát, tàn nhẫn; tuy nhiên đó không phải là nguyên nhân chủ yếu. Thackeray sang Mỹ hai lần để diễn thuyết về văn học, đặc biệt là về vấn đề Những nhà văn trào phúng nước Anh thế kỷ thứ 18. Trở về nước, ông ứng cử vào Hạ Nghị viện, nhưng thất bại. Từ 1859 ông làm chủ bút một tờ báo lớn, tờ Tuần báo Cornhin (The Cornhill Magazine) được vài năm. Do làm việc quá nhiều, sức khỏe suy giảm, ông mất năm 1863 vì bệnh xung huyết não thọ 52 tuổi.

Văn nghiệp của Thackeray có tính chất khá thuần nhất. Ông viết nhiều loại truyện, cả truyện nhi đồng và truyện lịch sử, nhưng hầu hết văn phẩm của ông đều có tính chất châm biếm, nhằm đả kích xã hội tư sản quý tộc Anh đương thời. Trong số ấy, nổi tiếng nhất là những tác phẩm Cuốn sách của các ông học làm sang (The Book of Snob); Hội Chợ Phù Hoa; Truyện Penđennix (Pendennis)… Những tác phẩm này đã gây ra một dư luận sôi nổi - người tán thưởng nhiều mà kẻ ghen ghét dĩ nhiên cũng lắm - và nâng ông lên hàng những tiểu thuyết gia hiện thực ưu tú nhất trên văn đàn nước Anh. Đó là những tác phẩm bộc lộ đầy đủ nhất bản sắc tư tưởng của tác giả. Tác phẩm đầu tiên rọi ánh sáng vinh quang vào cuộc đời sáng tác của ông là cuốn Truyện các ông học làm sang nước Anh do một người trong bọn kể lại (The Snobs of England by One of themselves) in năm 1846; tác phẩm này gồm những bài tiểu luận có tính chất luân lý và chính trị, nội dung nhằm đả kích một cách cay độc những cái rởm đời và thối nát trong xã hội và chính giới nước Anh đương thời. Năm sau, ông cho xuất bản cuốn Hội Chợ Phù Hoa. Năm 1848 ông lại cho in cuốn Pendennis. Ngay từ cuốn Truyện các ông học làm sang nước Anh do một người trong bọn kể lại… nhiều người đã tỏ ý bất bình vì những nét đen thẫm trên những bức tranh biếm họa của ông; tới khi cuốn Pendennis ra đời, thì sự khó chịu biến thành sự thù ghét, vì rất nhiều người thuộc các tầng lớp trên cảm thấy hình như tác giả muốn ám chỉ chính họ. Thackeray gặp khá nhiều khó khăn trong việc ấn hành những tác phẩm này.

Hội Chợ Phù Hoa được coi là một kiệt tác của chủ nghĩa hiện thực trong văn học Anh thế kỷ 19; đó là một trong năm tác phẩm nổi tiếng nhất của văn học Anh-cát-lợi. Mới đầu cuốn truyện được mang tên là Những bức ký họa về xã hội nước Anh (Sketches of English Society) về sau tác giả đổi là Hội Chợ Phù Hoa; cái tên có tính chất tượng trưng này thích hợp với nội dung hơn vì bao hàm cả thái độ phủ định của Thackeray đối với xã hội đương thời. Lần ấn hành thứ nhất, ngoài bìa có ghi câu “Một cuốn truyện không có nhân vật tiêu biểu cho một hạng người, một thói xấu, hoặc một tầng lớp xã hội; toàn bộ tác phẩm là một bức tranh toàn cảnh miêu tả xã hội nước Anh đương thời, do đó các nhân vật có địa vị quan trọng như nhau, không phân biệt chính phụ”. Thật ra cuốn tiểu thuyết vẫn có những nhân vật chính, và một nhân vật trung tâm là Rebecca Sharp. Tìm mua: Hội Chợ Phù Hoa TiKi Lazada Shopee

Nội dung chủ yếu của Hội Chợ Phù Hoa xoay quanh việc “làm nên” của Rebecca, một thiếu nữ “con nhà hà tiện”, cha là một họa sĩ trác táng, mẹ là một vũ nữ người Pháp. Thiếu giáo dục từ nhỏ, nhưng nhờ có sắc đẹp, lại thông minh và tài hoa, từ chỗ bơ vơ côi cút, bị khinh rẻ, cô ta trở thành con dâu của gia đình Crawley, một gia đình quý tộc thôn quê. Dựa vào địa vị nhà chồng, và nhờ những mánh khóe xảo quyệt riêng, dần dần Rebecca len lỏi được vào giới thượng lưu quý tộc nước Anh và nước Pháp, trở thành một bậc mệnh phụ, danh vọng lẫy lừng, được triều kiến cả hoàng đế George đệ tứ. Song chính những thủ đoạn đê tiện Rebecca dùng để mưu danh lợi về sau đã làm hại cô ta; Rebecca ngoại tình với một hầu tước để lợi dụng y; việc vỡ lở; cô ta bị quẳng ra khỏi xã hội thượng lưu một cách tàn nhẫn. Cô gái sớm hư hỏng ấy trở lại cuộc đời tăm tối cũ; bị cái giới thượng lưu thanh cao một cách giả dối kia ruồng bỏ, càng ngày cô càng chìm sâu xuống vũng bùn trụy lạc. Khi đã luống tuổi, chán cảnh lăn lộn vô ích, Rebecca đành sống cuộc đời tầm thường như mọi người; và nhờ số tiền kiếm được một cách bất chính, Rebecca cũng được thiên hạ kính trọng như một người có đạo đức. Xen vào câu chuyện lên voi xuống chó của Rebecca là những mẩu phim linh hoạt trình bày cuộc sống và tâm lý của nhiều hạng người khác nhau thuộc giai cấp quý tộc, giai cấp tư sản, tầng lớp trung lưu trong xã hội nước Anh đương thời: gia đình ông Sedley, một người làm nghề buôn cổ phiếu, bị cuộc chiến tranh Napoléon làm cho phá sản, lâm vào cảnh khốn cùng, nhưng vẫn luyến tiếc thời kỳ còn ôm giấc mộng làm giàu, gia đình lão Osborne, nhà tư sản buôn sáp, với một nền luân lý đặc biệt của khu City thành Luân Đôn, lấy đồng tiền làm tiêu chuẩn, gia đình Crawley, một gia đình quý tộc lâu đời ở thôn quê với đủ những cái thối tha lục đục trong nội bộ, gia đình Gôn mà người cầm đầu là hầu tước Xtên, với mâu thuẫn trắng trợn giữa cái bề ngoài đầy uy thế của một nhà đại quý tộc và thực chất bất nhân phi nghĩa của một tên lưu manh… tất cả lồng vào câu chuyện tình vừa lãng mạn vừa tức cười của bộ ba Amelia, George Osborne, và Dobbin.

Thế kỷ thứ 19, chế độ tư bản nước Anh đang trong giai đoạn phát triển cực thịnh; năm 1875, tính ra bốn phần năm dân số Anh sống về công nghiệp. Lợi nhuận bóc lột được của công nhân trong nước và vơ vét được tại các thuộc địa tạo điều kiện cho giai cấp tư sản và giai cấp quý tộc tư sản hóa sinh hoạt hết sức xa xỉ. Bề ngoài xã hội Anh đương thời có một bộ mặt phồn vinh; việc kinh doanh dễ đem lại những món lợi lớn; địa vị của giai cấp tư sản trong xã hội được nâng cao; sự cấu kết giữa giai cấp phong kiến và giai cấp tư sản càng chặt chẽ hơn. Giai cấp quý tộc đi vào con đường kinh doanh tư bản để thu lợi nhuận, hoặc liên kết với giai cấp tư sản để lấy tiền mạ vàng lại huy hiệu của dòng họ; ngược lại, giai cấp tư sản cũng muốn quý tộc hóa đồng tiền của mình bằng cách kết liên với giai cấp phong kiến, đồng thời đó cũng là một cách nhờ hơi hướng địa vị của giai cấp này nhằm bước vào lĩnh vực hoạt động chính trị dễ dàng hơn. Trong ngai vàng ngư trị xã hội, có hai thế lực cùng ngồi song song, là đồng tiền và danh vọng. Đó là hai thế lực có tác dụng nhào nặn tâm lý con người đúc theo một cái khuôn chung, và biến cuộc đời thành một cái chợ trong đó mọi thứ quan hệ đều có tính chất “tiền trao cháo múc”. Cuộc chạy đua theo đồng tiền và danh vọng lôi cuốn tất cả các tầng lớp từ bậc trung lưu trở lên. Tôn giáo bị giảm bớt hiệu lực, vì một nền luân lý mới có tính chất thực tiễn hơn đã hình thành: hạnh phúc tối cao của cuộc đời là có địa vị sang trọng và có thật nhiều tiền, vì thiên hạ đang xô nhau vào mà quỳ lụy, bợ đỡ, sợ hãi kính phục kẻ có của và có địa vị. Đạo đức và tài năng trở thành những thứ đồ cổ bị gạt ra bên lề cuộc sống, bởi lẽ trong một xã hội thương mại chỉ có hai thần tượng được người ta phụng thờ là đồng tiền và uy thế của dòng họ; kẻ có tài nhưng nghèo túng và xuất thân tăm tối của mình. Văn hào Stendhal[3] đã có một nhận xét lý thú: “Trí thông minh và thiên tài đặt chân lên nước Anh là mất ngay hai mươi lăm phần trăm giá trị”; ông muốn nói tới cái “Tinh thần chiết khấu” đặc biệt thương mại thấm nhuần trong mọi quan hệ của xã hội Anh.

Một mặt khác, đời sống của quần chúng lao động rất cực khổ. Sau chiến tranh chống Napoleon (kết thúc năm 1815), nông thôn tiêu điều xơ xác vì giá lúa mì sụt kinh khủng đến nỗi nhiều nông dân đốt cả cối xay bột; đạo luật khoanh đất cướp ruộng vẫn tiếp tục thi hành; tầng lớp trung gian ở nông thôn giảm đi trông thấy; họ lũ lượt kéo ra thành thị và bị vô sản hóa, hoặc biến thành tá điền làm thuê cho địa chủ. Công nghiệp không dùng hết người, vì kỹ thuật phát triển đòi hỏi tương đối ít nhân công; lại thêm số binh lính quá đông không cần thiết trong thời bình trở thành một gánh nặng cho ngân sách; chính phủ quyết định thải hồi tất cả dân vệ. Do đó thành thị đầy dẫy những đoàn người thất nghiệp; nạn bần cùng lan tràn khắp nơi. Những mâu thuẫn xã hội trầm trọng đến mức sắp nổ ra những vụ bạo động lớn (thí dụ ngày 23-2-1820 sở mật vụ khám phá ra một cuộc âm mưu giết toàn bộ chính phủ, do Thistlewood cầm đầu, tức là: Vụ án phố Ca- tô Chính mâu thuẫn xã hội này giải thích sự phát triển đặc biệt của phong trào “Nghiệp đoàn” (Trade-Unions) và sự ra đời của tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng do Owen đề xướng (1833); về mặt văn học, nó là động lực thúc đẩy sự phát triển của khuynh hướng hiện thực manh nha từ thế kỷ 18, trở thành xu hướng văn học chủ yếu dưới triều đại Victôria thế kỷ 19. Hai đại diện ưu tú của văn học hiện thực thời kỳ này là Thackeray và Đickenx. Tuy cùng chung một thái độ phủ định đối với xã hội đương thời, nhưng đối tượng miêu tả của hai người khác nhau.

Thackeray khác Dickens ở điểm ít quan tâm nêu những mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội đối kháng, cũng như ít chú ý đến vào việc đả kích các tầng lớp thống trị, và có con mắt quan sát tâm lý thấu đáo hơn.

Khuynh hướng trào phúng nảy nở trong văn học Anh từ giữa thế kỷ 18. Những người đại diện của khuynh hướng đó là Smolett và Jonathan Swift[4]. Đó là tiếng nói phản kháng lại những sự bất công trong xã hội; khuynh hướng ấy được kết tinh ở Thackeray. Ông đại diện cho tài năng chân chính bị miệt thị; trong tiếng cười cay độc của ông có phần nào sự phẫn nộ của quần chúng. Chủ nghĩa hiện thực ở Thackeray mang mầu sắc luân lý rõ rệt; ông muốn đứng trên quan điểm đạo đức mà soi mói cuộc đời và rút ra những bài học về cách xử thế.

Chủ đề của Hội chợ phù hoa - như tên cuốn truyện cũng cho ta rõ một phần - là sự vô nghĩa, sự phù phiếm của cuộc đời, một tấn hài kịch lớn, trong đó mỗi con người sắm một vai trò mà không tự biết, hoặc một cảnh hội chợ hỗn tạp, trong đó chỉ toàn là những sự phô trương mua bán, và mọi thứ đều là những món hàng. Tác giả tự coi vừa là một anh hề sắm vai trò để mua vui cho thiên hạ, vừa là nhà đạo diễn cô lại hình ảnh của cuộc sống trong một màn kịch múa rối. Khuynh hướng vạch những nét “mặt trái đời” toát ra trong toàn bộ tác phẩm từ chương đầu đến chương cuối. Tác giả muốn rút ra một bài học luân lý; tác phẩm có tính chất như một bài ngụ ngôn dài. Tất cả những cái gì gọi là cao quý, tốt đẹp, mà thiên hạ hằng khao khát và thiết tha gắn bó, thực ra chỉ là những chuyện hết sức vô nghĩa, thí dụ như danh vọng, tiền tài, những cái vẫn gọi là những đức tính, và ngay cả những tình cảm thiêng liêng như tình cha con, tình bè bạn, tình vợ chồng… nhiều khi cũng chỉ là câu chuyện khôi hài.

Dưới mắt tác giả, đạo đức vẫn khoác tấm áo thêu kim tuyến lộng lẫy như cũ, nhưng lật lên chỉ thấy những tình cảm đê tiện trần truồng: sự tính toán vị kỷ, lòng vụ lợi, thói giả nhân giả nghĩa, tính phô trương rởm đời, sự lường gạt kèn cựa. Mỗi nhân vật trong tác phẩm tiêu biểu cho một thói xấu, một giai cấp; mỗi người mỗi vẻ, nhưng tất cả đều mang trên mình con dấu chính của thời đại, tức là hình ảnh dục vọng hung hãn đè nén và tiêu diệt thiên lương; do đó con người ta ở đời không nên phí sức mà tranh danh đoạt lợi, hãy nên biết tiết chế dục vọng của mình.

Nhà luân lý Thackeray đã nhìn xã hội nước Anh - đúng hơn là xã hội thượng lưu trưởng giả nước Anh - với con mắt rất bi quan, hoài nghi, nhưng không thờ ơ, trái lại hết sức soi mói; do đó những chi tiết nêu lên trong tác phẩm có một giá trị hiện thực lớn.

Mũi nhọn đả kích của tác giả chĩa thẳng vào những tầng lớp đang chễm chệ ngồi trên cổ quần chúng lao động.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hội Chợ Phù Hoa PDF của tác giả William Makepeace Thackeray nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Con Voi (Slawomir Mrozek)
“Con voi” là tập truyện ngắn của nhà văn trào phúng số một của Ba Lan từ trên nửa thế ký nay: Slawomir Mrozek. Những tác phẩm châm biếm giàu tính bi hài của ông thường nêu lên vấn đề quan hệ giữa cá nhân với tập thể, phê phán thói hư tật xấu, tư duy thấp kém, nghịch lý đời thường và phương pháp giáo dục thô thiển. Có những truyện người ta phải đọc đi đọc lại mới cảm thụ hết chiều sâu của tác phẩm và càng đọc càng thấy hay. Có những chuyện từ Ba Lan xa xôi, nhưng độc giả Việt Nam hẳn cũng thấy bóng dáng mình đâu đó. Hãy thử đọc tác phẩm “Cuộc sống mới”, một truyện ngắn trong tập truyện này: “Tôi quyết định bắt đầu một cuộc sống mới. Kiên quyết và dứt khoát! Chỉ còn một câu hỏi phải trả lời: từ khi nào? Và câu trả lời không chút do dự là: từ ngày mai.Hôm sau, khi ngủ dậy, tôi nhận thấy lại đang là hôm nay, y hệt ngày hôm qua. Bởi lẽ, tôi phải bắt đầu cuộc sống mới từ ngày mai, cho nên hôm nay không thể bắt đầu thực hiện điều này.“Chẳng sao cả! - tôi nghĩ bụng - Ngày mai sẽ là ngày mai thôi”.Và tôi yên tâm sống ngày này theo kiểu cũ. Lương tâm tôi không hề bị cắn rứt, toàn những ý nghĩ tốt đẹp và tràn đầy hy vọng.Có điều, hôm sau lại là hôm nay, như hôm qua và hôm kia.“Đó đâu phải tại mình, - tôi thầm nghĩ - cái đồ quỷ sứ nào đó liên tục biến ngày mai thành hôm nay. Quyết định của mình không thể bị chê trách và không thể đảo ngược. Hãy thử một lần nữa xem sao, có thể tên quỷ sứ này sẽ mệt mỏi và ngày mai rồi sẽ được là ngày mai”.Tiếc thay, không phải như vậy, vẫn cứ chỉ hôm nay và hôm nay. Cuối cùng tôi mất hy vọng. “Có lẽ cái ngày mai kia sẽ không bao giờ có - tôi nghĩ bụng - nếu đã vậy, liệu mình bắt đầu cuộc sống mới không phải từ ngày mai, mà từ hôm nay có được không?”.Nhưng rồi ngay sau đó tôi nhận ra cái phi lý của ý nghĩ này. Bởi vì, nếu hôm nay lặp đi lặp lại không ngừng đã từ xa xưa thì nó là rất cũ và theo đó, mỗi cuộc sống hôm nay cũng phải cũ. Cuộc sống mới là cuộc sống mới, nó chỉ có thể bắt đầu từ mới, tức ngày mai, nếu nó muốn là mới thật sự.Và tôi lên giường đi ngủ với quyết định dứt khoát, kể từ ngày mai, tôi bắt đầu cuộc sống mới. Vì dù gì đi chăng nữa, lúc nào cũng có một ngày mai” Trong truyện “Sứ mạng bí mật”, tác giả nhạo báng kẻ dốt nát đã không từ một thủ đoạn vô liêm sỉ nào để dấu dốt, giữ thể diện, ra oai với thiên hạ. Hoặc phê phán bệnh quan liêu qua “Kẻ lỗ mãng”. Người khách chỉ vào trú mưa nhờ thôi mà cả cơ quan lo sốt vó, cứ ngỡ là khách của mình. Tìm mua: Con Voi TiKi Lazada Shopee Là nhà văn đương đại rất ăn khách tại Ba Lan, các tác phẩm của Slawomir Mrozek đã được dịch ra hàng chục thức tiếng khác nhau trên thế giới. Qua ngòi bút của dịch giả Lê Bá Thự, người đọc sẽ thấy được một Ba Lan gần gũi hơn, thú vị và nhiều cảm xúc hơn.***Con voi (cũng là tiêu đề của tập truyện) là một truyện ngắn nổi tiếng của Mrozek, được đưa vào sách giáo khoa của Ba Lan từ nhiều năm nay. Giám đốc vườn bách thú nọ, một cán bộ hãnh tiến, vì cái lợi trước mắt đã gây nên hậu quả khôn lường. Con voi làm bằng cao su theo “sáng kiến” của ông là kết quả của bệnh sính thành tích, dối trên lừa dưới, đã làm hại công việc giảng dạy của nhà trường, làm hỏng giờ học ngoại khóa môn sinh vật, khiến học sinh nghi ngờ bài giảng của thầy giáo, thậm chí không tin là có voi. Tượng thi hào, Vườn bách thú cũng là những truyện châm biếm và phê phán bệnh dối trên lừa dưới như vậy. Tiền để xây tượng thi hào thì người ta lại tùy tiện đem làm việc khác, đến nỗi phải thuê người thật đóng tượng giả. Hoặc, việc chiếm đoạt thức ăn dành nuôi khỉ trong vườn bách thú đã khiến con khỉ lăn đùng ra chết, phải dùng người đóng giả khỉ để rồi gây nên hậu quả nực cười, khách xem tưởng rằng “con khỉ vườn bách thú nói được tiếng người”. Trong truyện Sứ mạng bí mật, tác giả nhạo báng kẻ dốt nát đã không từ một thủ đoạn vô liêm sỉ nào để giấu dốt, giữ thể diện, ra oai với thiên hạ. Mũi tên trào phúng của Mrozek cũng nhằm phê phán bệnh quan liêu mà truyện Tên lỗ mãng là một thí dụ. Người khách chỉ vào trú mưa nhờ thôi mà cả cơ quan lo sốt vó, cứ ngỡ đó là khách của mình. Bệnh quan liêu ở bệnh viện lại càng tai hại, bệnh nọ xọ bệnh kia, phẫu thuật nhầm, đến nỗi biến đàn ông thành đàn bà! Mrozek cũng chọc cười chúng ta, khi ông cho thấy những điều tưởng chừng phi lý nhưng lại hoàn toàn có lý. Hai anh em sinh đôi trong truyện Sự đời chính là hai nhân vật chứng tỏ cái phi lý có lý này. Rốt cuộc, nhân vật trong truyện phải thốt lên: “Sự đời thật giản đơn, chỉ có óc tưởng tượng của tôi cứ làm cho nó rối rắm không cần thiết”. Trong Chuyến tàu tốc hành đêm, Mrozek giễu nhại kẻ nhạy cảm, tự chuốc khổ vào thân rất tội nghiệp và khôi hài. Trong truyện Mất ngủ vì logic tác giả nhắc nhở chúng ta, không phải logic lúc nào cũng logic, chỉ vì logic mà ông khách nọ đã mất ngủ cả đêm vì một con chuột và ông ta đã rút ra bài học: “Từ đó trở đi tôi không suy luận theo kiểu logic nữa. Một con chuột ngu mạnh hơn tất thảy mọi logic, còn logic chỉ tổ làm mất ngủ mà thôi”. Trong truyện Người bạn nhỏ, kẻ cho mình vô tội, vì mọi tội lỗi của hắn đã có con mèo gánh chịu, càng ngày càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi, khiến con mèo gánh tội thay hắn càng ngày càng trở nên tiều tụy, thân tàn ma dại. Hắn lại còn tưởng bở, nghĩ cách nhân giống con mèo, để được tha hồ mắc tội. Nhưng hắn đã bị cụt hứng, vì con mèo không chịu nhân giống... Rốt cuộc hắn đã ngộ sát ông già, đương nhiên con mèo cũng chết vì phải gánh tội tày đình của hắn và cả hắn nữa cũng bị trừng phạt. Một tấn bi kịch theo kiểu “quýt làm cam chịu”. Slawomir Mrozek là nhà văn đương đại rất ăn khách ở Ba Lan hiện nay. Các tác phẩm của nhà văn đa tài này đã được dịch ra hàng chục thứ tiếng khác nhau trên thế giới. 85 truyện dịch trong cuốn sách này là do chúng tôi chọn lựa từ tuyển tập truyện ngắn của ông, ấn hành năm 1999, gồm ba tập, tổng cộng gần bốn trăm truyện ngắn và cực ngắn.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Voi PDF của tác giả Slawomir Mrozek nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Con Trâu (Trần Tiêu)
Từ rằm tháng hai sang đầu tháng ba, lại suốt tháng ba sang tháng tư, không một giọt mưa. Cây cối xơ xác như sau một trận giông tố. Chỉ trừ một vài thứ cây chịu khô, chịu nắng như cây si, cây đa, cây tre là giữ được màu xanh tươi. Bao nhiêu ruộng đồng cao đều nẻ toác. Những cây lúa cằn cỗi đâm tua tủa lên trời những lá cứng, vàng úa, ngọn cháy xém. Không còn kiếm đâu ra nước mà tát. Các ao chuôm cạn khô để phơi đáy bùn phần nhiều phủ cỏ và những cây cúc dại, hoa vàng chóe. Tìm mua: Con Trâu TiKi Lazada Shopee Chỉ mười hôm không mưa nữa là đi đời cả một cánh đồng hàng nghìn mẫu. Nếu được cái lạch con ăn thông với cái đầm ở đồng cửa (ruộng triều) thì cũng chưa đến nỗi hoàn toàn thất vọng. Khốn nỗi các cụ không dám cho đào, sợ đứt long mạch, động đến làng, đến mồ mả nhà các cụ. Ngày năm ngoái, hôm làng họp về việc cấp điền, ông Rao bàn đến vấn đề đào ngòi xây cống liên tiếp đồng nọ sang đồng kia để phòng đại hạn đã bị các cụ nhiếc móc thậm tệ. Các cụ cho ông là một người thiển cận, chỉ biết việc sờ sờ trước mắt, không nhìn xa đến tương lai, đến dòng dõi con cháu. Rồi các cụ kết luận: - Thầy không am hiểu lý số có khác. Người ta không sợ nguy khi nào người ta không biết cái nguy. Thầy vào hạng người ấy đấy, thầy giáo ạ. Chúng tôi nói thầy đừng giận. *** Trần Tiêu (1900 - 1954) là một nhà văn Việt Nam. Ông là em ruột của Khái Hưng và là "cộng tác viên thân tín" của Tự Lực văn đoàn. Trần Tiêu sinh tại xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sau khi đậu bằng thành chung,[Ghi chú 1] ông mở trường dạy tư. Trần Tiêu không có ý định viết văn nhưng được sự khuyến khích của Khái Hưng nên cũng bước vào nghề văn khi đã 36 tuổi, và có một vài tiểu thuyết như Con trâu, Chồng con. Sau cách mạng tháng Tám, Trần Tiêu viết tiểu thuyết Làng Cầm đổi mới phản ánh sự thay đổi của làng Cổ Am. Khác với Khái Hưng, Trần Tiêu đi theo cách mạng, làm Ủy viên Hội đồng nhân dân xã Cổ Am và tham gia kháng chiến chống Pháp một thời gian. Sau vì ốm nặng Trần Tiêu trở về Hải Phòng chữa bệnh rồi dạy học tư ở trường trung học Bạch Đằng. Ông mất ở Hà Nội năm 1954, có tài liệu ghi ông mất tại Hải Phòng. Ông là cha của giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Bảng và ông nội của diễn viên, đạo diễn Trần Lực.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Trâu PDF của tác giả Trần Tiêu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Con Trâu (Trần Tiêu)
Từ rằm tháng hai sang đầu tháng ba, lại suốt tháng ba sang tháng tư, không một giọt mưa. Cây cối xơ xác như sau một trận giông tố. Chỉ trừ một vài thứ cây chịu khô, chịu nắng như cây si, cây đa, cây tre là giữ được màu xanh tươi. Bao nhiêu ruộng đồng cao đều nẻ toác. Những cây lúa cằn cỗi đâm tua tủa lên trời những lá cứng, vàng úa, ngọn cháy xém. Không còn kiếm đâu ra nước mà tát. Các ao chuôm cạn khô để phơi đáy bùn phần nhiều phủ cỏ và những cây cúc dại, hoa vàng chóe. Tìm mua: Con Trâu TiKi Lazada Shopee Chỉ mười hôm không mưa nữa là đi đời cả một cánh đồng hàng nghìn mẫu. Nếu được cái lạch con ăn thông với cái đầm ở đồng cửa (ruộng triều) thì cũng chưa đến nỗi hoàn toàn thất vọng. Khốn nỗi các cụ không dám cho đào, sợ đứt long mạch, động đến làng, đến mồ mả nhà các cụ. Ngày năm ngoái, hôm làng họp về việc cấp điền, ông Rao bàn đến vấn đề đào ngòi xây cống liên tiếp đồng nọ sang đồng kia để phòng đại hạn đã bị các cụ nhiếc móc thậm tệ. Các cụ cho ông là một người thiển cận, chỉ biết việc sờ sờ trước mắt, không nhìn xa đến tương lai, đến dòng dõi con cháu. Rồi các cụ kết luận: - Thầy không am hiểu lý số có khác. Người ta không sợ nguy khi nào người ta không biết cái nguy. Thầy vào hạng người ấy đấy, thầy giáo ạ. Chúng tôi nói thầy đừng giận. *** Trần Tiêu (1900 - 1954) là một nhà văn Việt Nam. Ông là em ruột của Khái Hưng và là "cộng tác viên thân tín" của Tự Lực văn đoàn. Trần Tiêu sinh tại xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Sau khi đậu bằng thành chung,[Ghi chú 1] ông mở trường dạy tư. Trần Tiêu không có ý định viết văn nhưng được sự khuyến khích của Khái Hưng nên cũng bước vào nghề văn khi đã 36 tuổi, và có một vài tiểu thuyết như Con trâu, Chồng con. Sau cách mạng tháng Tám, Trần Tiêu viết tiểu thuyết Làng Cầm đổi mới phản ánh sự thay đổi của làng Cổ Am. Khác với Khái Hưng, Trần Tiêu đi theo cách mạng, làm Ủy viên Hội đồng nhân dân xã Cổ Am và tham gia kháng chiến chống Pháp một thời gian. Sau vì ốm nặng Trần Tiêu trở về Hải Phòng chữa bệnh rồi dạy học tư ở trường trung học Bạch Đằng. Ông mất ở Hà Nội năm 1954, có tài liệu ghi ông mất tại Hải Phòng. Ông là cha của giáo sư, Nghệ sĩ Nhân dân Trần Bảng và ông nội của diễn viên, đạo diễn Trần Lực.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Trâu PDF của tác giả Trần Tiêu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Con Tàu Trắng (Chyngyz Torekulovich Aytmatov)
CON TÀU TRẮNG của Chyngyz Torekulovich Aytmatov là một câu chuyện buồn kể về một cậu bé có những ước mơ không ai hiểu được. Bố mẹ chia tay, cậu ở với ông ngoại Mômun già nua ở một trạm gác rừng hẻo lánh. Cậu bé sống bằng những món ăn đơn giản và tâm hồn chất chứa những những huyền thoại và truyền thuyết đẹp đẽ mà ông Mô-mun kể. Trong đó có câu chuyện về Mẹ Hươu Sừng.Theo truyền thuyết, Hươu sừng Maran đã cứu bộ lạc Kirghidi khỏi bị diệt vong và được coi là tổ mẫu của người Kirghidi. Đây là huyền thoại từ ông Mômun. Còn cậu bé cũng có một huyền thoại của riêng mình- Con tàu trắng".Những khi trèo lên núi tìm bóng con tàu trắng, nó cứ mơ cái ngày nó bước xuống sông, biến thành cá và bơi ra biển, bơi thẳng ra chỗ con tàu trắng để gặp người bố làm thuỷ thủ của nó và bảo: Bố ơi, con là con của bố đây!" Nhưng cậu bé mơ mộng phải đối mặt với một thế giới không huyền thoại và đầy bạo lực. Ông ngoại bị ép phải bắn con hươu Maran mà cậu tin là Mẹ Hươu Sừng...Kẻ ép ông cậu bắn hươu tàn nhẫn hơn, đem cho cậu phần thịt xẻ từ con hươu Maran đã chết... Bi kịch đầu tiên xảy ra với ông già Mô mun.Vì cháu trai của ông "không hề ngờ rằng ông nó nằm đây để đền nợ về câu chuyện hoang đường của mình về Mẹ Hươu Sừng, rằng do bị cưỡng ép, ông đã giết chết những gì mà chính ông đã gieo vào tâm hồn thằng bé khiến nó suốt đời không quên - ông đã xúc phạm đến lòng tôn kính tổ tiên, đến lương tâm và những lời dạy bảo của chính ông, nó có biết chăng rằng ông làm việc đó là vì người con gái khốn khổ của ông, là vì nó, đứa cháu trai của ông…Và bây giờ, ngã gục vì đau xót và nhục nhã, ông già nằm như người bị giết, mặt úp sấp, không đáp lời thằng bé." Bi kịch thứ hai xảy ra nặng nề hơn với cậu bé."Không ai nhận thấy thằng bé từ trên giường tụt xuống và ra khỏi nhà. Nó vừa kịp rẽ vào góc nhà là ói mửa liền. Thằng bé vịn vào tường, rên rỉ, khóc qua làn nước mắt, nó nức nở nghẹn ngào, lẩm bẩm: Không, thà làm cá còn hơn. Ta sẽ bơi đi nơi khác. Thà ta làm cá còn hơn." Cậu bé muốn đi tìm Con tàu trắng... Tìm mua: Con Tàu Trắng TiKi Lazada Shopee Con tàu trắng như là một bài thơ dài.Sự băn khoăn, tiếc nuối và nỗi đau ẩn trong từng trang sách. Ngay cả ở nơi sơn cùng thủy tận ta cũng không còn chốn nương thân. Khi đối diện với cô đơn, cùng lúc có thể ta phải đối diện với sự hiển hiện của các ác làm tan vỡ mọi giấc mộng đẹp nhất. Dường như khi đau đớn và tổn thương hiện hữu, chỉ có sự tỉnh táo mới cứu nổi ta.***Nó có hai huyền thoại. Một của riêng nó, không ai biết. Chuyện kia do ông kể. Rồi chẳng còn huyền thoại nào cả. Ở đây xin thuật lại câu chuyện đó. Năm đó nó vừa tròn bảy tuổi, mới lên tuổi thứ tám.. Mở đầu, nó được mua một chiếc cặp, chiếc cặp giả da mầu đen, có chốt kim loại bật tanh tách luồn qua móc gài. Có túi ngoài để đựng các thứ lặt vặt. Tóm lại là một chiếc cặp học trò hết sức bình thường mà lại rất lạ kỳ. Có lẽ mọi chuyện đều bắt đầu từ đó. Ông nó mua cái cặp ở ô tô bán hàng lưu động khi chiếc ô tô đó đến đây. Chiếc ô tô đó đưa hàng đến bán cho những người chăn gia súc trong núi, dôi khi cũng tạt vào trạm gác rừng của ông cháu nó ở hẻm Xan-Tasơ. Từ trạm gác này, khu rừng cấm qua các khe hẻn và các sườn dốc leo lên tận thượng nguồn. Ở xóm trạm gác chỉ có ba gia đình. Tuy vậy, ô tô bán hàng đôi khi vẫn ghé thăm những người coi rừng.Là một thằng bé duy nhất trong cả ba hộ, bao giờ nó cũng là người trước tiên trông thấy chiếc ô tô bán hàng.-Xe đang đến đấy, - Nó vừa gào ầm lên vừa chạy tới các cửa lớn và cửa sổ.- Ô tô bán hàng đến đấy.Con đường cho xe chạy tới đây khởi đầu từ ven hồ Ix xưc-Kun, luôn luôn qua các khe núi và bờ sông, toàn đá và ổ gà. Cho xe chạy trên con đường như thế không phải là dễ dàng gì. Đến núi Karaun, đường từ đáy lũng hẹp lên trên cao, rồi lại đổ xuống theo sườn núi dựng đứng trơ trụi, chạy dài mãi đếnn sân nhà những người gác rừng. Núi Karaun ở ngay cạnh xóm, mùa hè ngày nào thằng bé cũng chạy lên núi chiếu ống nhòm nhìn ra hồ. Ở đấy, bao giờ cũng nhìn thấy hết mọi thứ trên đường cái, rõ như trên lòng bàn tay: cả người đi bộ, cả người cưỡi ngựa, cà cố nhiên cả ô tô.Lần ấy vào một ngày hè nóng bức, thằng bé tắm trong cái đập nước của mình và từ đấy nó nhìn thấy chiếc ô tô tung bụi trên sườn dốc. Cái đập ở ria bãi sông, trên đá sỏi. Ông nó chất đá đắp nên cái đập ấy. Nếu như không có cái đập thì chưa biết chừng thằng bé đã mất mạng từ lâu. Thì có lẽ như bà nó nói, nước sông đã rửa trắng xương nó từ lâu và cuốn trôi tuột ra hồ Ix xưc-Kun, cá và các loài thủy tộc tha hồ mà ngắm nghía. Sẽ chẳng ai tìm kiếm và đau buồn xót thương nó. Bởi vì ai bảo đi nhảy xuống nước làm gì, vả chăng người ta cũng chẳng thiết gì nó lắm. Hiện thời chuyện đó chưa xảy ra. Chứ nếu xảy ra chuyện chẳng lành thì không chừng bà sẽ chẳng nhảy xuống cứu nó đâu, thật thế đấy. Nếu nó là máu mủ ruột thịt thì chẳng nói đằng này bà lại bảo nó là người dưng. Mà người dưng thì dù có nuôi nấng chăm sóc thế nào đi chăng nữa cũng vẫn cứ là người dưng. Người dưng nước lã…Ừ, nhưng nếu nó không muốn là người dưng thì sao? Tại sao chỉ có nó bị coi là người dưng? Có thể không phải nó, mà chính bà mới là người dưng thì sao? Nhưng chuyện ấy sau này sẽ nói, cả chuyện đập nước cũng để sau…Vậy là nó nhìn thấy chiếc ô tô bán hàng từ xa, chiếc xe đang xuống núi, bụi cuốn bốc lên đường theo sau xe. Thằng bé mừng quýnh lên, như thể là nó biết chắc là nó sẽ được mua chiếc cặp. Nó lập tức lên cạn, xỏ đôi chân gầy guộc vào ống quần, và người còn ướt nước, tái ngắt ( nước sông vẫn lạnh), nó chạy trên con đường mòn về sân, để là người đầu tiên báo tin người bán hàng đang tới. Thằng bé chạy nhanh, nhảy qua những bụi cây và chạy vòng qua những khối đá tảng nếu không đủ sức chạy qua, không dừng lại lấy một giây ở bất cứ chỗ nào: dù là bên những đám cỏ cao hay bên những khối đá, mặc dù nó biết đấy hoàn toàn không phải là những vật thông thường. Chúng có thể bực tức và ngáng chân cho ngã, “ô tô bán hàng đã đến rồi. Tớ sẽ trở lại sau.”- nó vừa chạy vừa nói với” Lạc đà nằm” (đấy là tên nó đặt cho khối đá hoa cương có bướu lún sâu dưới đất đến ngang ngực.). Bình thường, không bao giờ nó đi qua mà không vỗ vào bướu con “Lạc đà” của mình. Nó vỗ về con lạc đà như chủ vỗ về con vật, như ông nó vỗ về con ngựa thiến cộc đuôi của ông, nhân đi qua thì tiện tay làm thế thôi, như có ý bảo: mày đợi đây nhé, tao đi có việc một lúc. Nó có khối đá ’Yên ngựa": khối đá nửa trắng nửa đen, đốm khoang, lưng oằn xuống có thể ngồi lên như cưỡi ngựa. Còn có khối đá “Chó sói”, rất giống con chó sói lông màu nâu đốm bạc, ót rất khoẻ, gồ trán nặng nề. Thằng bé thường len lén bò tới gần và nhắm bắn. Nhưng khối đá nó thích nhất là “chiếc xe tăng”- khối đá kiên cố vô cùng, ở ngay cạnh sông, chỗ bờ bị xói mòn. Nom cứ như “Chiếc xe tăng” sắp từ trên bờ lao xuống nước, bò đi và sông sẽ sủi réo, tung lên những đợt sóng nhào trắng xoá. Trên màn ảnh, xe tăng cũng từ trên bờ lao xuống nước và bò đi…Thằng bé ít được xem phim, nên nó nhớ như in tất cả những gì đã được xem khi ông đèo cháu đến xem phim ở trại quốc doanh nuôi vật giống, trại này thuộc địa khu lân cận, phía bên kia núi. Chính bởi thế trên bờ sông mới xuất hiện “Chiếc xe tăng” sẵn sàng lao xuống nước, vựơt qua sông. Ngoài ra còn có những khối đá khác, “có hại” hoặc “hiền từ”, thậm chí “ranh mãnh” hay “đần độn”.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Con Tàu Trắng PDF của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.