Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Viên Ngọc Trai - John Steinbeck

Viên Ngọc Trai, có bản dịch khác với tựa Viên Trân Châu, là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng của John Steinbeck. Vì bài học có giá trị nhân văn của nó, nó đã được dùng để giảng dạy trong trường trung học cơ sở ở một số nơi trong Hoa Kỳ. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, “Viên ngọc trai” cũng đề cập đến hai vấn đề muôn thuở: Thiện và ác – Bóng tối và ánh sáng. Phàm đã mang kiếp con người, có lẽ ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Ranh giới giữa thiện và ác rất mong manh, nó nằm trong bản chất nội tại của con người, lệch 1 chút về phía ánh sáng sẽ là “người”, nghiêng nhiều về phía bóng tối sẽ trở thành “con”. Từ đó, con người nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại theo quan niệm chung của nhân loài. Và hiển nhiên là không có điều gì có thể thay đổi được định luật này cả. “Viên ngọc trai” – một câu chuyện ngụ ngôn đầy ý nghĩa, tuy có phần trừu tượng nhưng John Steinbeck đã xây dựng một tiểu thuyết với kỹ năng đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu, không chỉ hoàn thiện về ý nghĩa biểu tượng mà còn sắc bén với những chi tiết rõ nét, như được quay qua một ống kính máy ảnh. Viên Ngọc Trai có một bài học đạo đức cao bao gồm một cuộc sống của một người nông dân bình thường đã có một chút lòng tham đã đem lại điều đau khổ, thậm chí còn nghèo khổ và mất mát nhiều hơn trước khi anh có Viên Ngọc Trai. Cuốn tiểu thuyết đã cho chúng ta cái nhìn qua nhân vật thầy tu, đã tham gia vô sự đàn áp dân chúng. Cuốn truyện con nhắn cho chúng ta về sự ác bức và sự phân biệt chủng tộc qua đời sống của một thường dân. Viên Ngọc Trai, chỉ là một thứ nằm trong lòng bàn tay đã có thể mang tới cái chết và hủy diệt của một gia đình hiền hòa được mọi người yêu mến. Kino chỉ nhìn thấy một tương lai giàu có mà Viên Ngọc Trai sẽ mang lại, tuy nó mang lại sự thịnh vượng có hạn nhưng nhiều người tin rằng nó có năng lực tột cùng. *** John Ernst Steinbeck, Jr. (1902 – 1968) là một tiểu thuyết gia người Mỹ được biết đến như là ngòi bút đã miêu tả sự đấu tranh không ngừng nghỉ của những người phải bám trên mảnh đất của mình để sinh tồn. Tác phẩm đầu tiên gây tiếng vang của John Steinbeck là cuốn Của Chuột Và Người (Of Mice and Men) (1937), dựng nên một câu chuyện bi thảm về hai nông dân ít học thức hằng mong mỏi một mảnh đất cho riêng mình để canh tác. Tác phẩm được đánh giá cao nhất là Chùm Nho Phẫn Nộ (The Grapes of Wrath) (1939; đoạt giải Pulitzer năm 1940), dựng nên câu chuyện của gia đình Joad, bị nghèo khó ở vùng hoang hóa Dust Bowl của tiểu bang Oklahoma, phải chuyển đến California trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930. Quyển tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi, được xem không những là truyện hư cấu nhưng có tính hiện thực mà còn là lời phản kháng xã hội đầy cảm động, đã trở nên một tác phẩm kinh điển trong nền văn học Mỹ. Là một trong những "tượng đài" văn học từ thập kỷ 1930, Steinbeck lấy chủ đề trung tâm là phẩm giá trầm lặng của những người cùng khổ, những người bị áp bức. Dù những nhân vật của ông thường bị vây bọc trong thế giới thiếu công bằng, họ vẫn giữ mình như là những con người đầy cảm thông và có anh hùng tính, tuy có thể bị khuất phục. John Steinbeck nhận Giải Nobel Văn học năm 1962. Tiểu thuyết của John Steinbeck đã được dịch ra tiếng Việt gồm có: Của chuột và người (Of Mice and Men, 1937) Chùm nho nổi giận, còn được dịch Chùm nho phẫn nộ hay "Chùm nho uất hận", (The Grapes of Wrath, 1939) Đoạt Giải Pulitzer năm 1940 Phía đông vườn địa đàng (East of Eden, 1952) Đồng cỏ nhà trời (The Pastures of Heaven, 1932) Tôi, Charley và hành trình nước Mĩ (Travels with Charley in search of America, 1961) *** Trong thị trấn ấy người ta vẫn kể lại câu chuyện về một viên ngọc trai thật quái đản - về xuất sứ như thế nào nó được tìm thấy cũng như lý do tại sao nó lại bị mất đi. Người ta kể về Kino, một người đàn ông sống bằng nghề thuyền chài, cùng với vợ của anh là chị Juanna. Đứa con nhỏ bé của họ là Coyotio. Câu chuyện được kể đi kể lại nhiều lần, cuối cùng đã bén rễ, ăn sâu vào tâm trí của những con người sinh sống nơi đây. Giống như bao nhiêu câu chuyện được lưu truyền lại từ ký ức của con người khác, câu chuyện này nhắc đến hai điều: Thiện và Ác. Bóng đêm và ánh sáng. Cái tốt và sự Quỷ quyệt. Phàm đã mang kiếp con người, ai cũng sẽ thuộc về một trong hai thái cực ấy. Khó mà có chuyện anh bạn sẽ là người ba phải. Anh bạn nhất định sẽ là con người tốt hoặc phải là một kẻ vô lại. Tất nhiên là không có điều gì thay đổi được định luật này cả. Nếu câu chuyện về viên ngọc trai sắp đuợc kể ra dưới đây, như là một chứng tích hay là một câu truyện ngụ ngôn, hy vọng bạn có thể sẽ sẽ rút ra được cho mình một bài học ý nghĩa riêng biệt. Bạn sẽ thấy mình là một nhân vật của câu chuyện. Tóm lại như thế này, trong một làng chài bình dị ấy, người ta kể rằng... Mời các bạn đón đọc Viên Ngọc Trai của tác giả John Steinbeck.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp - Andrew Lang
Tên ebook: Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp (full prc, pdf, epub) Tác giả : Andrew Lang Thể loại: Cổ đại, Sách hay, Tiểu thuyết, Thần thoại, Văn học phương Tây Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa thông tin Xuất bản năm:  2008 Khổ: 13 x 20.5 cm Số trang : 556 Thực hiện ebook : hoi_ls Nguồn: thuvien-ebook.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp - Andrew Lang Giới thiệu: Thành Troy có thực sự tồn tại hay không? Cuộc chiến và con ngựa khổng lồ thành Troy là huyền thoại hay là một thực tế lịch sử? Theo sử thi Iliad của Hy Lạp, hoàng tử Paris thành Troy đã "nẫng" mất nàng Helen xinh đẹp tuyệt trần từ tay vua Hy Lạp Menelaus chồng nàng. Vì hành động này mà hai nước vốn giao hảo với nhau bỗng nổi can qua, và cuối cùng người anh hùng Achilles đã dẫn đoàn quân Hy Lạp sang vây hãm thành Troy để "rửa mối quốc nhục". Theo truyền thuyết, nhà thơ Homer viết thiên sử thi này vào khoảng thế kỷ VIII - IX trước CN, sau cuộc chiến tranh khoảng vài trăm năm. Phần lớn tác phẩm, từ nhân vật cho đến diễn biến, đều mang nặng màu sắc huyền thoại. Hơn nữa, không có một bằng chứng nào về sự tồn tại của cả Achilles lẫn Helen. Tác giả Andrew Lang: Nhà văn Andrew Lang             Andrew Lang sinh ngày 31 tháng 5 năm 1844 tại Selkirk, Scotland, mất ngày 20 tháng 7 năm 1912. Mọi người thường gọi ông là anh bạn Scots của những lá thư bởi trong suốt cuộc đời mình ông đã viết rất nhiều thư. Ông là một nhà thơ, một nhà tiểu thuyết, một nhà phê bình văn học và là người có nhiều đóng góp cho ngành Nhân loại học. Hiện tại, ông được mọi người biết đến nhiều nhất với tư cách là nhà sưu tầm những câu chuyện dân gian và thần thoại. Tại trường đại học St Andrews, các bài học được đặt tên theo tên của ông.             Ông học tại Học viện Edinburge, Đại học St. Andrews và đại học Balliol, Oxford. Năm 1868, sau khi học xong năm cuối, ông trở thành nghiên cứu sinh và sau này là Hội viên danh dự của Trường cao đẳng Merton. Sau khi tốt nghiệp, ông vừa viết báo, vừa làm thơ, vừa là nhà phê bình và nhà lịch sử, chính vì vậy ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng với tư cách là một trong những nhà văn có tài và có năng lực nhất vào thời bấy giờ. Nhưng chuyên ngành ông dành nhiều thời gian và tâm huyết là Chuyện dân gian và Nhân loại học.             Ngày nay, Lang được biết đến nhờ những cuốn sách về chuyện dân gian, những câu chuyện thần thoại và tôn giáo. Tác phẩm xuất bản đầu tay của ông là Phong tục và thần thoại, Nghi lễ và Tôn giáo (1887), trong hai tác phẩm này ông giải thích những nhân tố "phi lý" của thần thoại chính là những gì còn sót lại của những hình thức nguyên thuỷ. Cuốn Đi theo Tôn giáo của ông chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng Người nguyên thuỷ quý tộc vào thế kỷ XVIII. Trong tác phẩm này, ông đề cập đến sự tồn tại của những ý tưởng tinh thần siêu nhiên giữa những bộ tộc được gọi là "hoang dã", nó tồn tại song song với những mối quan tâm hiện đại vào thời bấy giờ về những sự kiện huyền bí ở nước Anh.   Truyền thuyết thành Troy và Hi Lạp được xuất bản lần đầu tiên năm 1902 bao gồm những câu chuyện mang màu sắc thần thoại, huyền bí, hấp dẫn. Sau đó cuốn sách được tái bản nhiều lần và được in bằng nhiều thứ tiếng trên thế giới. Nó lôi cuốn bao thế hệ trẻ em và cả người lớ cho đến tận bây giờ. Tiếp theo là một loạt các tuyển tập chuyện thần thoại khác của ông được xuất bản, tạo thành Những cuốn sách thần thoại của Andrew Lang. Mời các bạn đón đọc Truyền thuyết thành Troy và Hy Lạp của tác giả Andrew Lang.
Buồn Nôn - Jean Paul Sartre
BUỒN NÔN   Thông Tin     Tên truyện: Buồn Nôn Tác giả: Jean Paul Sartre Dịch: Phùng Thăng Thể loại: Tiểu thuyết, Triết học, Nhật ký, Văn học phương tây. Tạo ebook © Romance Book, 2013 Thực hiện: Summer Scent, Nguyet Anh, Vũ Vũ, Nini Quynh Cảm ơn Russie, thành viên diễn đàn TVE đã scan sách để nhóm thực hiện ebook này. Edit ebook lần 2: Kayako Saeki Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com   Giới Thiệu   Với phương pháp mô tả theo hiện tượng học, nền văn nghệ thời mới đã thực hiện được cuộc hôn phối toàn bích với khoa triết lý. Trong số những triết gia ở trên đỉnh cao của thời hiện đại, Sartre là hình ảnh biểu trưng toàn vẹn cho lời quả quyết trên, nhờ vào thiên tài văn nghệ và sức sáng tác phong phú của ông. Dòng máu văn nghệ luân lưu trong huyết quản Sartre đã chuyên chở đến cho quần chúng độc giả những chất liệu cần thiết để đi vào tư tưởng Sartre, và còn gây nhiều ảnh hưởng quan trọng hơn là những bộ tiết luận vĩ đại của ông. Tác phẩm Buồn Nôn (La Nausée, 1938) là một trong số những tác phẩm giá trị nhất của nền văn học thế kỷ thứ XX, đồng thời cũng là tác phẩm thuộc vào loại khó đọc, vì ngoài giá trị về phương diện thẩm mỹ, tác giả còn muốn đưa ta chạm mặt thực sự với một trực giác nguyên uỷ, làm trung tâm điểm cho nền hiện sinh vô thần của ông: trực giác về hiện hữu của sự vật. Tất cả cố gắng của Roquentin – nhân vật chính và cũng là tác giả tập Nhật ký này - nhằm xoáy sâu cái nhìn, xuyên thủng qua những lần vỏ ngoài bao bọc, đề đạt đến tri kiến đích thực về bản chất của thực tại. Tri kiến ấy là tri kiến của hiện tính (existence) của vạn vật. Sự vật hiện hữu. Sự hiện hữu ấy mang tính chất lầm lì, dày đặc, bất khả giải ngộ và ngẫu nhiên. Chính cái tính cách bất tất (contingence) của sự vật là chất men gợi dậy cơn Buồn Nôn. Người ta bị đẩy vào trong cõi bao la đồng nhất của hiện hữu, một hiện hữu thoát vượt ra ngoài mọi tương quan để chỉ còn giữ lại mối tương quan duy nhất là tính chất “dư thừa” của những sự vật với nhau. Tất cả dư thừa nên tất cả đều là phi lý. Mọi sự đều phi lý: đây không phải là tiếng kêu phẫn hận với cuộc đời mà là một nỗi cay đắng âm thầm phát sinh từ trực giác về hiện hữu của sự vật. Ông cho tận cùng nỗi cay đắng ấy, con nguời lại tìm thấy sinh lộ giải phóng trực giác về hiện hữu dẫn đến sự khước từ Thượng đế và tự do trong trách nhiệm để tự thể hiện lý vận mệnh của mình. Người ta đã có lý khi xem Buồn Nôn là khai từ thơ mộng cho thiên triết luận hữu thể và vô thể, hồng tâm của tư tưởng Sartre. Giờ đây, chỉ còn buông mình theo lời kể và dần dà đánh thức dậy anh chàng Roquentin đang ngủ im trong mỗi người chúng ta.
eBook Lối Mòn Rêu Phủ - Nguyễn Thị Phi Oanh full prc, pdf, epub [Tình cảm]
      Thông Tin   Tên truyện: Lối mòn Rêu Phủ Tác giả: Nguyễn Thị Phi Oanh Thể loại:  T truyện teen, Tình cảm, Văn học việt nam, Văn học phương đông Edit ebook: Kayako Saeki Nguồn: diendanlequydon.com Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com     Giới Thiệu   Mộng Nghi, Đình Nghi, Dung Nghi, ba người con, ba tính cách khác nhau, nhưng họ chính là sức sống cho cả gia đình, khiến người ta thấy được những mảng màu đa sắc của cuộc sống, trẻ trung lại sâu sắc trong suy nghĩ.   Mộng Nghi thích ngồi một mình bên hồ nước vào những chiều để nhìn cá lượn, mây bay khi bóng hoàng hôn buông mình trên lối cỏ . Chị yêu thơ thích nhạc, chị quý màu sắc trang nhã trên lớp quần áo không kiểu cọ của mình   Dung Nghi thích hợp với vai người tình trên đường phố, một người yêu trên piste lúc về đêm dưới ánh đèn mờ của vũ trường rực rỡ, hoặc phu nhân của nhà doanh nghiệp trong những cuộc tiếp tân nhộn nhịp hơn là người vợ đơn thuần.
Quán Trọ Hoa Diên Vỹ - Yoko Ogawa
Một phụ nữ lao ra khỏi phòng quán trọ Hoa Diên Vỹ chửi rủa. Tiếp theo sau là một người đàn ông với tiếng quát lạnh lùng: “Câm mồm đi, con đĩ!”. Tiếng quát đó đã mê hoặc Mari, cô con gái bà chủ đang trực quầy lễ tân. Rồi cô đi theo người đàn ông, để trái tim cùng cơ thể mình lạc lối trong một mối quan hệ nảy sinh từ tình cảm chân thực, nhưng cũng từ những ham muốn và rung động thầm kín nhất, đáng xấu hổ, nơi nền tảng là sự thống trị và phục tùng mỏng manh, yếu đuối, Mari cố gắng tìm hiểu điều gì ở người đàn ông đã hấp dẫn cô: “Thân thể tôi khi phục tùng dịch giả càng khó coi càng tốt. Như thế tôi sẽ có thể cảm giác được mình thảm hại đến đâu. Một cảm giác thoải mái trong sáng trào dâng trong lòng tôi vào cái lúc tôi biến thành một đống thịt bị hành hạ.” Quán trọ Hoa Diên Vỹ không phải là một tiểu thuyết về đề tài bạo dâm. Lối viết sáng suốt của Yoko Ogawa, một trong những nhà văn Nhật đáng chú ý nhất hiện nay, đã đưa câu chuyện vượt lên trên giới hạn của sự dung tục, tầm thường, và hơn thế nữa, trở thành một cuốn tiểu thuyết đặc biệt khó quên, với đầy đủ những nét đặc trưng trong bút pháp tinh tế mà người ta chỉ có thể tìm thấy ở Yoko Ogawa. ***     Sinh năm 1962 tại tỉnh Okayama, thuở nhỏ, Ogawa say mê văn học thiếu nhi thế giới. Trong một cuộc phỏng vấn, bà từng nhắc tới các tác phẩm Không gia đình, Pippi tất dài, Ann ở Green Gables v.v. như những trước tác mà bà yêu thích nhất. Lên trung học, cuộc gặp gỡ tình cờ với Nhật ký Ann Frank đã mang lại cho Yoko một nhận thức hoàn toàn mới lạ đối với văn chương: biểu đạt thành lời nội tâm của bản thân chính là một dạng thức tự do mà con người có được. Đây có lẽ là tác phẩm có ảnh hưởng sâu nặng nhất đối với lối viết đi sâu vào những diễn biến tâm lý tinh tế của con người mà Ogawa không ngừng theo đuổi sau này. “Tôi đưa ra hết, tôi viết hết,” nhà văn đã từng nói. “Khi cuốn sách kết thúc thì không còn gì nữa, không còn gì hết”. Năm 1986, Ogawa bắt đầu viết tiểu thuyết, sau khi thôi công việc thư ký để kết hôn với một kỹ sư của một hãng luyện thép. Các tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của bà gồm: Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien), Nhật ký mang thai (giải Akutagawa), Giáo sư và công thức toán (giải Yomiuri), Mai táng Brahman (giải Izumi), Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki), Tình yêu bên lề, Quán trọ Hoa Diên Vỹ...Trong số các tác phẩm của Yoko Ogawa, Giáo sư và công thức toán hẳn là tiểu thuyết nồng hậu và gây xúc động nhất.  Sau đó, tiểu thuyết được chuyển thể thành phim và công chiếu rộng rãi vào năm 2006.      Thông Tin Giải Thưởng   * 1988: Giải Kaien cho tác phẩm đầu tay, Sự phân hủy của bướm (Disintegration of the butterfly, Agehacho ga kowareru toki, 揚羽蝶が壊れる時) * 1990 Giải Akutagawa cho Nhật ký mang thai (Pregnancy Calendar, Ninshin karendaa, 妊娠 カレンダー) * 2004 Giải Yomiuri cho Giáo sư và công thức toán (The Professor and his Beloved Equation, Hakase no aishita sushiki, 博士の愛した数式; dịch sang tiếng Anh với tên The Gift of Numbers) * 2004 Giải Izumi Prize cho Tang lễ của Brahman (Burafuman no maisō, ブラフマンの埋葬) * 2006 Giải Tanizaki cho Cuộc diễu hành của Meena (Meena's March, Mīna no kōshin, ミーナの行進) Những tác phẩm của Yoko Ogawa  - Cuộc diễu hành của Meena (giải Tanizaki) - Giáo sư và công thức toán - xuất bản 2009 (giải Yomiuri) - Quán trọ hoa diên vỹ - Mai táng Brahman (giải Izumi) - Nhật ký mang thai (giải Akutagawa) - Khi con bướm gãy cánh (giải thưởng Kaien) *** Trước khi đọc Quán trọ Hoa Diên Vỹ, mình đã đọc một câu chuyện khác, cũng của Yoko Ogawa: “Giáo sư và công thức toán”. Nói thật, lúc đầu mình hơi bất ngờ tẹo, tại mình không nghĩ người mang toán học vào văn chương một cách tinh tế có thể viết một câu chuyện trần trụi đến thế như đã làm trong Quán trọ Hoa Diên Vỹ. Dĩ nhiên, chỉ sau chừng tầm chục trang, mình đã tìm lại được bầu không khí quen thuộc. Nếu như Kazumi Yumoto nổi tiếng với seri 3 mùa, chuyên viết về những hồi ức trẻ thơ, Banana nổi tiếng với cách xây dựng hình mẫu gia đình kì quặc đầy thương tổn, hơi hướng khó hiểu kiểu Murakami thì Yoko Ogawa mang ta đến với những mảng màu trần trụi, nhưng cũng hết sức bình thường kiểu Nhật. Ừ, nếu bạn đọc một cuốn sách kể về những chuyện rất đỗi bình thường, phảng phất một gam màu trầm buồn, thêm chút băn khoăn khó hiểu khi gập trang cuối cùng của cuốn sách thì ắt hẳn đó là một câu truyện Nhật. Trở lại với cuốn sách, khi đọc nó mình vẫn luôn tự hỏi rằng họ có thực sự yêu nhau không? Khi mà khoảng cách giữa 2 người là 50 tuổi, và thứ gắn kết họ đơn thuần chỉ là sự cô đơn. Cô đơn của cô bé Mari chính là việc giam mình trong quán trọ Hoa Diên Vỹ, hàng ngày búi tóc bằng dầu trà, cam chịu trao tự do của mình cho người mẹ. Cô khao khát một người bố đúng nghĩa, người đã trao cho cô cơ hội được lựa chọn niềm vui khi cô còn 8 tuổi. Cô đơn với dịch giả đáng kính xuất phát từ nỗi đau mất vợ, từ niềm ăn năn đối với người cháu, và cả những cuộc bạo dâm. Cô đơn còn xuất phát từ việc dịch những thứ chán òm trong cuộc sống, suốt ngày vùi đầu trong từ điển. Hẳn là lúc ông đăng tin tìm người học tiếng Nga, điều ông thất vọng không phải không ai học, mà bởi ông đã không còn ai để trò chuyện, để bầu bạn. Mọi thứ chỉ thay đổi khi ông dịch Marie, khi đó, ông gặp Mari. Du thuyền trở lại trong tiếng còi rú. Bọn hải âu đậu trên cầu tàu đồng loạt bay lên. Dây xích chỗ cửa lên tàu được tháo xuống, phòng chờ vẳng tiếng phát thanh viên. _Có lẽ tôi phải đi rồi. – Dịch giả thì thầm. _Tạm biệt. – Tôi nói _Tạm biệt. Ông ta cũng nói thế. Nhưng tôi cảm giác như chúng tôi đã nói với nhau câu nói quan trọng hơn là chỉ chào tạm biệt. Từ cửa sổ tôi nhìn thấy người đàn ông đi trên cầu tàu và đang bị cuốn trong hàng người. Dù ông ta nhỏ con đến mấy tôi cũng lập tức phân biệt được bóng người mặc vest lẫn trong đám du khách. Giữa chừng ông ta ngoảng đầu lại. Tôi vẫy tay dù thấy thật buồn cười khi làm điều này với một người không biết tên cũng chẳng có quan hệ gì. Ông ta cũng định vẫy trả, nhưng rồi lại ngượng ngùng đút bàn tay đang giơ lên vào túi áo. Tàu rú còi rồi rời bến. … Tôi vẫn luôn sống một mình. Hàng ngày giam mình ở đảo và chỉ làm mỗi việc dịch thuật, nên hầu như không có bạn. Vả lại, tôi cũng không có một cô con gái vừa trẻ lại xinh đẹp như cô. Đã mười năm rồi tôi không được nếm trải cảm giác có ai đó vẫy tay tiễn đưa như vậy. Tôi thường lên thuyền từ chỗ cầu tàu, nhưng lúc nào cũng chỉ một mình. Tôi cũng chưa lần nào ngoảnh đầu lại từ chỗ đó cả. Cô đã vẫy tay với tôi làm như chúng ta đã quen biết từ lâu. Có lẽ với cô đó chỉ là một cử chỉ vặt vãnh, nhưng với tôi nó lại có ý nghĩa sâu sắc. Tôi muốn cảm ơn cô về điều đó. Chân thành cảm ơn cô. Đoạn trích trên kể về lần đầu họ gặp nhau. Ai trong chúng ta có lẽ cũng thấy đồng cảm với người đàn ông ấy. Bởi lẽ, nỗi cô đơn là chuyện chẳng hiếm hoi trong thế giới này. Người ta dễ dàng xao xuyến trước những điều be bé tốt đẹp. Một cái vẫy tay, một nụ cười, một tin nhắn. Chúng tạo nên sự thân mật gắn kết giữa người với người, không gì có thể xóa bỏ. Và điều đáng khâm phục, họ đã vượt qua mọi rào cản, để tìm đến nhau. Có thể, bạn chả đồng ý với mình đâu. Gì chứ, không thể chấp nhận được chuyện yêu nhau tội lỗi như thế. Ừ, mình cũng hem có phản đối đâu. Vì suy cho cùng, như một cái note nào đấy đã viết “văn chương khơi dậy sự cảm thông”, hoặc là mình đã tự huyễn hoặc bản thân rồi.​