Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Người hành khách bí ẩn - Georges Simenon

Tên ebook: Người hành khách bí ẩn Tác giả: Georges Simenon Thể loại: Tiểu thuyết, Trinh thám, Văn học phương Tây   Người dịch:  Đặng Phú - Lê Việt Dũng   Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân   Kích thước: 13 x 19 cm   Số trang: 385   Năm xuất bản: 2004   Tạo prc: Hoa quân tử   Ebook:  Đào Tiểu Vũ's eBook -  http://www.dtv-ebook.com Đ ây là một căn bệnh tấn công những tàu thuyền trong tất cả các vùng biển trên thế giới mà nguyên nhân thuộc một lĩnh vực chưa ai biết, được gọi là ngẫu nhiên. Nếu những triệu chứng bước đầu của căn bệnh ấy rõ ràng thì chúng sẽ không thể thoát khỏi cặp mắt của những thuỷ thủ. Tuy nhiên, nó thường bắt đầu bằng những điều hết sức vô cớ, chẳng hạn như: một dây néo đứt văng ra như dây vĩ cầm làm bứt đi cánh tay một thuỷ thủ. Hoặc giả một chàng thủy thủ trẻ xoè ngón tay cái trong lúc gọt vỏ khoai tây và ngày hôm sau “tai hoạ bất ngờ” làm anh ta thét lên. Nếu không do vận hành sai thì làm sao một chiếc canot lại dại dột lao vào sống mũi tàu? Nhưng đó vẫn chưa phải là “cái nhìn xúi quẩy”. Cái nhìn xúi quẩy đòi hỏi hàng loạt những tai nạn. Khi cái loạt xúi quẩy ấy đeo đuổi, người ta dễ dàng nhận thấy những tổn hại mới vào ban đêm hoặc ngày hôm sau. Từ khi nó xuất hiện, mọi việc sẽ ngày càng xấu đi và những người đàn ông, chỉ còn biết nghiến răng mà đếm những trận đòn. Đó là lúc mà cỗ máy đã vận hành ba mươi năm không một lần hỏng hóc, bỗng dở chứng kẹt máy như chiếc cối xay cà phê cũ kỹ. Bất kể những dự báo được xác định là tốt nhất trên những bảng khí tượng và theo kinh nghiệm, nếu đúng, thì trong hai mươi ngày tới vào mùa này, gió không bao giờ xảy ra. Và con sóng đầu tiên ập đến sẽ không cuốn một người vào biển cả! Sẽ có bệnh lỵ nếu không phải dịch hạch! Còn may mắn nếu người ta sẽ không giạt vào mắc cạn ở một bãi cát hoặc khi đi vào cảng, người ta không va phải đê chắn sóng. ○○○ Con tàu Polarlys, neo đậu ở cảng số mười bảy trong một vũng tàu xa xôi nhất và bẩn thỉu nhất ở Hambourg phải nhổ neo dời bến vào ba giờ chiều theo thông báo ở tấm biển móc vào thùng thư tại cầu tàu. Chưa đến hai giờ, thuyền trưởng Petersen đã mơ hồ cảm thấy “cái nhìn xúi quẩy” rình rập. Tuy nhiên đây là một người đàn ông cương nghị, béo lùn, mập mạp. Từ chín giờ sáng, ông bước từng bước dài trên boong giám sát việc bốc hàng lên tàu. Sương mù đặc biệt vàng và xám, chứa đầy bồ hóng, phả ra độ ẩm lạnh giá, đè nặng lên bến cảng và thành phố, người ta chỉ nhìn thấy những chiếc đèn của xe điện, những cửa sổ sáng đèn như giữa đêm. Lúc này là cuối tháng hai. Do lạnh và vì vật lộn trong những đám mây ấy, đã để lại trên mặt và những bàn tay một loại váng băng. Mọi hồi còi đồng loạt rít lên thành một tiếp âm chói tai lấn át tiếng kèn kẹt của những cần trục. Boong tàu Polarlys hầu như vắng vẻ: bốn người đàn ông ở trên khoang trước đang tháo dỡ những chiếc hòm và thùng. Con tàu không có gì nổi tiếng cả. Đây là con tàu chạy hơi nước trọng tải một nghìn tấn, có vẻ tàu đánh bắt cá thu, boong tàu luôn đầy ắp hàng hoá, tàu làm dịch vụ từ Hambourg đến Kirkenes bằng cách đi dọc bờ biển Na Uy để phục vụ giao thông cho những cảng nhỏ. Đây là con tàu hỗn hợp có chỗ cho năm mươi hành khách ghế hạng nhất và cũng ngần ấy hành khách hạng ba. Từ Na Uy, người ta đưa đến nơi nhận những máy móc, hoa quả và thịt muối. Người ta đưa về từ cực Bắc những thùng cá thu cũng như da gấu và dầu hải cẩu. Cho đến Lofoten, khí hậu bình thường. Rồi đột nhiên, người ta rơi vào những miền băng giá và trong đêm dài tới ba tháng. Những sĩ quan là người Na Uy. Những chàng trai tốt biết trước sẽ lấy bao nhiêu thùng ở Công ty Olsen tại Tromsoe và chuyên chở cho ai ở Hambourg những máy công cụ. Ngay buổi sáng ấy, Petersen dứt bỏ chiếc lon cuối cùng của mình chỉ được giữ bằng một sợi chỉ. Công ty bỗng cử ông đi với hàng tràng những lời dặn dò như với sĩ quan thứ ba, một chàng trai Hà Lan mười chín tuổi gầy mảnh như mới mười sáu tuổi! Phải chăng sự xuất hiện của Vriens lúc mười giờ làm cho Petersen đánh hơi thấy cái nhìn xúi quẩy? Anh ta tốt nghiệp trường hàng hải Delfzijl ngay tuần ấy. Hôm qua, anh ta trình diện vẻ xanh xao, xúc động, trong bộ đồng phục đứng đắn, ngơ ngác, đứng nghiêm. — Tuân lệnh, thưa thuyền trưởng! — Này, anh Vriens - Petersen nói với anh ta - tôi không có lệnh cho anh trong lúc này. Anh có thể nghỉ ngơi cho tới ngày mai. Với tư cách là sĩ quan thứ ba, anh lo việc đưa hành khách lên tàu. Vriens đi, buổi tối không trở lại. Vào mười giờ sáng, thuyền trưởng trông thấy anh ta xuống xe taxi, lảo đảo, với nước da xanh xao, mi mắt sưng phồng, cái nhìn sợ sệt. Khi anh ta qua cầu tàu, đúng là anh ta loạng choạng. Petersen xoay lưng lại với anh ta, nghe thấy anh ta chạm gót chào trước khi đi về phía buồng mình. — Anh ta ốm yếu như một con chó! - Một lúc sau người phục vụ nói. - Anh ta yêu cầu tôi cà phê rất đặc. Anh ta nằm duỗi dài, thẳng đơ trên giường hầu như không sao nói được. Người ta để que diêm cháy trước hơi thở của anh ta... Tất nhiên đó không phải là thảm hại! Nhưng khi ta có thói quen sống chung với những sĩ quan của mình, ta không thích nảy sinh một gã trai thuộc loại này, nhất là có một lá thư của quan chức hành chính đến trước, gửi gắm tạo điều kiện dễ dàng cho những bước đầu của anh ta. Ở tuổi mười chín, Petersen chưa tốt nghiệp nhưng ông đã ba lần đi vòng quanh thế giới! ○○○ Ông có thể dự báo trước việc đó. Một loạt “tai họa” sẽ bắt đầu. Trong lúc đi vòng trên con tàu của mình, hai tay đút túi, chiếc tẩu thuốc ở miệng, ông nhìn thấy một gã cao lớn tóc hung đứng tựa lưng vào thành tàu, cuốn một điếu thuốc lá. Người đàn ông đành mập mờ cúi đầu chào ông, tìm diêm trong túi. Rõ ràng là một con chuột ở cảng! Một trong số tên lang thang này ở miền Bắc không giống một tên lang thang nào trên trái đất. Một gã trai dưới bốn mươi tuổi cao lớn, khoẻ mạnh, vẻ đứng đắn mặc dầu bộ râu tám ngày không cạo và đôi má hơi lõm. Gã ở đây như ở nhà gã. Gã rít thuốc từng hơi ngắn, ưỡn ngực dưới chiếc áo hiệu Landwehr cũ mà gã đã thay cúc. — Anh làm gì ở đây? Gã hất cằm chỉ cơ trưởng rõ ràng đang qua cầu. Và người sau giải thích cho thuyền trưởng. — Thủy thủ tiếp than vừa bị sốt rét. Tôi phải để lại hắn trên bờ. Thế là tôi nghĩ đến gã này trên bến cảng, và tôi tuyển dụng gã làm thủy thủ tiếp than vào lò. Gã khỏe mạnh... — Anh ta có giấy tờ không? — Đúng thể thức! Gã ra tù ở Cologne... - Và cơ trưởng cười trong lúc rời đi. “Vậy là hai!" - Petersen làu bàu. Có một kẻ tiếp than vào lò, dù là kẻ mới ra tù đối với ông thế nào cũng mặc vì ông đang cần. Nhưng ông cảm thấy chán ghét gã từ đầu đến chân. Trong lúc đi bách bộ, ông tiếp tục lén quan sát gã. Phần lớn những kẻ lang thang người Đức đều có cái vẻ tự tin này, việc không biết xấu hổ và ngay cả sự hèn mọn này. Thêm nữa, gã này còn có vẻ gì mỉa mai trong cái nhìn. Gã cảm thấy mình bị dò xét. Gã tiếp tục hút thuốc, thỉnh thoảng đá lưỡi thấm ướt giấy thuốc, rồi nhìn khói thuốc phả ra từ miệng gã hoà trộn với sương mù. — Anh tên là gì? — Peter Krull. — Anh đã làm gì để phải vào tù? — Lần cuối cùng tôi không làm gì hết! Đó là sự sai lầm của tư pháp... - Gã nói từ tốn, giọng kéo dài và chính thuyền trưởng bỏ cuộc nói chuyện. Vả lại một dây cáp đứt đúng lúc đó làm cho một chiếc thùng cực lớn bọc kín chiếc máy kéo nông nghiệp lao vụt xuống từ độ cao sáu mét vào đáy khoang. Hành khách đầu tiên lên tàu, Petersen chỉ trông thấy chiếc hòm xanh và chiếc áo khoác màu xám. — Vriens đâu? - Thuyền trưởng hỏi người phục vụ - Tôi mong rằng tôi sẽ không phải lo tới cả việc lên tàu! — Anh ta ở phòng khách trước những cuốn sổ. Đúng thế. Chắc chắn anh ta đau quặn bụng, đầu óc đau đớn nhưng anh ta đang ở vị trí của mình. Anh ta tiếp khách, ghi lại những điều chỉ dẫn trong hộ chiếu của người ấy và chỉ cho người đó một phòng. Hai giờ cuối cùng luôn lộn xộn. Những chiếc xe tải đưa hàng hoá đến chậm. Những chiếc cần trục không thể vận hành nhanh hơn. “Mặc kệ! Ta sẽ bỏ lại ai không lên tàu đúng giờ!" Một sự đe dọa theo truyền thống không làm ai sợ cả. Một nữ hành khách lên tàu, theo sau là một người khuân vác. Cảnh sát thảo luận với Vriens, anh này quên điền một phần vào những bản khai in sẵn. Khi tiếng chuông cảnh báo đầu tiên vang lên, con đường trước mặt con tàu Polarlys thông thoáng. Nhưng khi người ta thả dây chão năm phút sau thì chiếc tàu lớn chở dầu của Anh đang chắn ngang và nó phải thực hiện những thao tác phức tạp. Một chiếc xà lan chạy máy dần dần vững bước tiến lên sát mặt nước chỉ với một thủy thủ tựa vào cần lái và hút tẩu thuốc. Tàu va vào sườn nó. Nửa boong của nó ngập trong nước và thật kỳ diệu là nó có thể tiếp tục chạy giữa những chiếc vỏ đen của các tàu chở hàng dựng lên quanh nó như những bức tường. Trên con sông Elbe là một đám rước. Ba hàng tàu thuỷ đi nối đuôi nhau thành chuỗi trong sương mù ngăn việc phân biệt cái bẫy của tàu trước và những hồi còi dữ dội thi nhau vang lên. Những con tàu chạy nhanh hơn mài miệt vượt lên những chiếc khác. Những thuyền buồm chen lấn nhau và đột nhiên người ta trông thấy cánh buồm mũi của chúng mọc lên cách sống mũi thuyền ít nhất là một sải cáp, khoảng hai trăm mét. — Từ từ... Dừng lại... Lùi lại... Dừng... Từ từ...Một nửa... Dừng... Máy điện báo kêu lách cách và con tàu tiến sang phải sang trái từng đợt trong sương giá. ○○○ Vào bảy giờ, con tàu vẫn ở trên sông và người ta chưa thấy ngọn đèn hiệu ở Cuxhaven báo cho biết đã đến biển. Thuyền trưởng bước xuống từ cầu tàu, để lại thuyền phó cùng với người hoa tiêu ở đó và chuẩn bị cho một việc khổ sai khác: chuẩn bị bữa ăn cho hành khách. Người phục vụ đem theo chiếc cồng đi trong những hành lang, với vẻ năn nỉ, theo kinh nghiệm biết rằng ngày đầu, những hành khách không bao giờ vội vã cả. — Năm suất hả? - Petersen nhận xét. — Một bà và ba ông... Bà đây... Cô ta tiến lên vẻ dễ dãi. Chiếc bót thuốc lá bằng ngọc ở trên môi. Cô ta trang điểm như để ăn tối trên con tàu sang trọng vượt Đại Tây Dương và hầu như khoả thân dưới chiếc áo dài lụa đen. Một con người nhỏ bé lạ lùng, mảnh mai, dễ bị kích động với những cử chỉ lả lơi, bằng những sự khéo léo của thời thượng, tự cho mình là con người nổi bật. Cô ta có mái tóc hoe vàng và cũng óng mượt như tóc một đứa trẻ. Mái tóc được tách ra bằng một đường ngôi giữa, rủ xuống đôi má chỉ với một làn sóng làm nổi bật khuôn mặt bầu dục. Hai đồng tử mắt sẫm màu và để tạo ra sự tương phản mạnh mẽ hơn, lông mi được tô thuốc đen. Miệng mỏng; đôi bầu vú nhô rất cao, rất nhỏ. — Thuyền trưởng? - Cô ta lẩm bẩm với giọng dò hỏi. - Thuyền trưởng Petersen... Ông hầu như không rửa mặt. Mái tóc dày rậm cần phải chải. — Mời bà vui lòng ngồi xuống! Cô ta ngồi với vẻ thong dong, chọn chỗ dễ chịu bên phải thuyền trưởng. Một hành khách khác bước vào, bắt tay Petersen, máy móc thốt lên: — Thời tiết thật tồi tệ!. Đây là Bell Evjen, giám đốc mỏ Kirkenes, hằng năm có chuyến đi Luân Đôn và Berlin và con tàu Polarlys đưa ông đi sớm hơn một tháng. Ông ta thích thú quan sát người phụ nữ trẻ. Một lát sau, một hành khách khác nghiêng mình trước mỗi người, không nói một lời; đây là một gã trai cao lớn đầu cạo trọc, không có lông mi cũng không có lông mày, đeo kính có mắt kính dây đến nỗi đôi mắt anh ta to quá mức. — Hãy dọn ăn đi, anh phục vụ! Sau đó anh gõ cửa hành khách thứ năm... Bởi vì còn một suất ăn chưa có người. Bữa ăn bắt đầu theo mốt Bắc Âu: canh súp nóng mở đầu, tiếp theo là những món nguội, thịt lợn ướp, thức ăn muối, cá hộp, mứt quả và pho mát. — Người ở phòng số mười tám không trả lời. — Hãy nói với sĩ quan thứ ba lo việc đó. Hai lần Petersen trèo lên boong, lo lắng thấy máy đột ngột chạy chậm, vẫn trong tình cảnh sương mù, những tàu chở hàng chạy theo hàng một, những hồi còi inh ỏi, kèn và còi hú. Tại bàn ăn, mọi người yên lặng. Giữa hai món ăn, người phụ nữ trẻ châm một điếu thuốc lá với chiếc bật lửa là một tác phẩm kim hoàn. Petersen cho rằng cô ta là người Đức, cũng như người hành khách đầu cạo trọc. — Chúng tôi sẽ phục vụ các vị cà phê tại phòng hút thuốc! - Cuối cùng ông nói trong lúc đứng lên, theo một công thức mà ông thường nhắc lại từ mười hai năm nay trong mỗi chuyến đi. Ông đang nhồi tẩu thuốc trong hành lang trước buồng mình thì người nữ hành khách qua gần ông và đi vào trong cầu thang thẳng đứng dẫn tới phòng hút thuốc. Trong suốt thời gian cô ta trèo lên, ông nhìn đôi chân cô ta dưới làn lụa đen tạo cảm giác rất thú vị với đôi đầu gối nhỏ nhắn và cả chút ánh da thịt. — Này, ông Vriens hử? Chàng trai liền máy móc đứng theo tư thế của mình. Đôi môi anh ta run lên. Anh đờ người như thể đột nhiên anh rơi vào giữa một thảm kịch. — Không thấy người hành khách ấy. Tuy nhiên hành lý của ông ta còn ở trong buồng ông ta. — Ông ta là ai? — Ernst Ericksen ở Copenhagen. Tôi còn trông thấy ông ta lúc một giờ trước lúc tàu khởi hành! — Người đàn ông mặc áo khoác màu xám với chiếc hòm màu xanh phải không? — Đúng thế! Tôi đã tìm khắp nơi. — Có lẽ ông ta quay lên bờ để mua báo nên lỡ tàu... Vriens và chàng trai đeo kính đã vào buồng họ. Còn lại một mình nữ hành khách ở phòng hút thuốc. Chiếc áo lụa đen xuất hiện trên đầu cầu thang. — Thuyền trưởng... Cô ta tỏ vẻ xúc động, nhưng gắng mỉm cười, hai bàn tay nén giữ nhịp đập của lồng ngực. — Có chuyện gì xảy ra thế? — Tôi không biết... có lẽ tôi sợ. Tôi vừa vào phòng hút thuốc. Tôi thấy bình cà phê ở trên bàn cũng như những chiếc tách và tôi bắt đầu rót cho mình. Đúng lúc ấy, hình như tôi nghe thấy tiếng động đằng sau tôi. Tôi quay lại, trông thấy một người đàn ông mà tôi chưa nhận ra là ai... Tôi tin chắc người đó khiếp sợ bởi vì người đó đứng lên và chạy trốn. — Qua đâu? — Qua cửa này, cửa trông ra boong đi dạo, phải không? — Ông ta mặc áo khoác màu xám phải không? — Xám, vâng. Tôi kêu lên... Tại sao ông ta chạy trốn như vậy? Trong khi cô ta nói, Petersen có cảm giác cô ta nói với Vriens hơn là nói với ông. — Hãy đi xem! - Ông ta ra lệnh cho viên sĩ quan. Người này ngập ngừng rõ rệt, nhất là vào lúc bước qua trước bà khách mà anh ta phải lướt qua để đi ra. — Xin bà hãy bình tâm, thưa bà. Tất cả chuyện này chắc chắn sẽ được lý giải. Cô ta hé cười, bĩu môi làm điệu và nói: — Tôi sẽ ở lại một mình ở phòng hút thuốc ư? — Các bạn bà sẽ sớm lên đây. — Ông không uống cà phê ư, thưa thuyền trưởng? Ông cảm thấy mùi nước hoa của cô ta rất nồng và ông còn cam đoan thấy cả mùi hương của da thịt cô ta toả ra. Một lúc sau trong khi cô ta rót cà phê, ông xoi mói những đường nét của cô ta và khi cô ta quay lại, cô ta thấy mặt ông đỏ lựng, giả vờ bận tâm lôi kéo chiếc cravate của mình. Evjen bước vào. ○○○ Khi Petersen rời phòng hút thuốc rộng lớn chứa được khoảng năm mươi người, thoải mái nhưng tạo cảm giác hơi lạnh vì những đồ gỗ bằng gỗ sồi có màu rất sáng, thì Evjen ngồi ở một góc đang ghi chép những tài liệu buôn bán lấy từ cặp ra. Trong góc đối diện, gã trai đeo kính đọc cuốn Berliner Tagdblau. Ở giữa hai người ấy, người nữ hành khách đã trải lên mặt bàn những quân bài nhỏ và bắt đầu chơi trò phá trận. — Ông vui lòng cho tôi xin tí lửa, được chứ, thưa thuyền trưởng? Ông phải bước lại. Cô ta đưa về phía ông chiếc bót thuốc lá dài, trong lúc cúi xuống không biết làm thế nào mà mắt Petersen nhìn sâu vào chiếc áo ngắn tới chỗ bắt đầu bầu vú. — Cảm ơn... chúng ta tới biển chưa? — Chúng ta đang đến gần Cuxhaven, vâng! Tôi phải lên cầu tàu đây. Nhìn gần, ông nhận thấy như Vriens, cô ta có đôi mi sụp xuống, những nét mệt mỏi của người qua một hay nhiều đêm mất ngủ. Cũng như Vriens, đôi môi cô ta đôi khi bất chợt run lên. Trên cầu tàu, ông gặp viên sĩ quan thứ ba đang tìm ông, nét mặt tiều tuỵ hầu như anh ta đã khóc. — Anh đã tìm thấy ông ta chưa? — Không. Chắc chắn ông ta đang náu mình. Tuy nhiên tôi đã lấy ba người cùng tôi. Nhưng không phải thế... Petersen nhìn anh ta với vẻ hơi tò mò: — Thì sao? — Tôi muốn nói với ông, thưa thuyền trưởng... rằng... rằng tôi hết sức tiếc về... Giọng nói anh ta vỡ ra. Nước mắt dâng lên trong đôi mắt anh ta. — Tôi cam đoan với ông rằng đây là sự ngẫu nhiên.. Tôi chưa bao giờ uống... Đêm nay... tôi không thể giải thích cho ông... Nhưng điều đó làm tôi không thể chịu nổi khi nghĩ rằng ông... — Hết chưa? Mặt anh ta tái nhợt đến nỗi người nói chuyện với anh ta tỏ chút thương hại. — Anh đi ngủ đi! Ngày mai sẽ sao! - Ông nói thêm kém nhẹ nhàng. — Ông nghĩ tôi còn say ư? Tôi xin thề với ông... — Đi đi! Và Petersen, khoác chiếc áo da dê cái, lại gần viên hoa tiêu, trong khi chiếc tàu chở hàng bật đèn xanh lướt theo chiều ngược lại cách có vài mét. — Chưa đến ư? Người đàn ông chỉ bàn tay trái vào màn đêm. — Cuxhaven! - Ông ta làu bàu. Đây là người hoa tiêu ở Elbe, mà dưới đèn tín hiệu của bến này, ông ta phải xuống một chiếc tàu máy nhỏ đang đợi ông ta. Thuyền trưởng mời ông ta rượu trắng truyền thống trong buồng gác trong lúc trao đổi vài câu chuyện bình thường. Ông rót đầy cốc thứ hai thì máy chạy chậm lại, rồi hoàn toàn ngừng hẳn. Người ta sớm nhận ra ánh đèn đom đóm trong sương mù sát mặt nước. Nó hầu như ở xa nhưng chỉ một giây sau, nó chuyển thành chiếc đèn acetylene phân biệt được mọi chi tiết. Lập tức người ta nghe thấy tiếng va chạm vào vỏ tàu, dưới chiếc thang ở cửa tàu. Một cái bắt tay. “Chúc ngủ ngon!" Người phục vụ đã thu dọn gọn gàng phòng ăn. Tại phòng hút thuốc, ba người ngồi cách nhau không quá tám mét, vẫn chưa quen biết nhau mặc dầu Evjen luôn nhìn người đàn bà trẻ. Người hoa tiêu vừa đặt chân xuống tàu đã gọi: — Này! Thuyền trưởng. Có chuyện gì đó cho ông... Ngả người lên tay vịn, Petersen nhìn rõ trong chiếc canot bóng dáng một người đàn ông bất ngờ: một người đàn ông mặc áo choàng, tay cầm một chiếc vali rất to. — Ông muốn nói gì? — Tôi sẽ giải thích cho ông. Người ta phải giúp người đàn ông trèo lên thang. Sau khi lên boong, người này lo lắng nhìn quanh mình. — Cố vấn cảnh sát Von Sternberg! - Ông ta nói - Tôi không thể đi tàu thuỷ tới Hambourg nên tôi phải đi ôtô. Đây là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi có bộ râu nhọn và đôi lông mày rậm càng có vẻ lạ lùng với chiếc áo choàng màu mù mờ làm biến dạng bóng dáng ông ta. — Tôi sẽ ăn trong buồng tôi! - Ông ta nói thêm vì con tàu Polarlys lại bắt đầu chạy - Nếu những hành khách hỏi ông... — Tôi có ba hành khách tất cả! — Nếu những hành khách hỏi ông, ông hãy trả lời rằng tôi bị ốm phải nằm tại giường. Ông hãy nói với họ một cái tên khác... Wolt chẳng hạn, Herbert Wolf, thương gia về áo da lông. Tôi sẽ trả tiền chuyến đi. — Ông có công vụ ư? - Petersen hỏi với tâm trạng bực bội tăng lên. - Có người nào trên tàu cần...? — Tôi nói mình là cố vấn cảnh sát khi không phải là thanh tra. — Tuy nhiên... Thuyền trưởng hoàn toàn không phải không biết chức cố vấn cảnh sát ở Đức là một danh vị nổi tiếng mà chức năng không phải là truy đuổi những kẻ bất lương. Nhưng có vấn đề với cảnh sát đủ làm cho ông tỏ vẻ cà khịa. Ông là thuyền trưởng nên ông khẳng định mình là chủ con tàu của mình. — Dẫu sao, ông sẽ làm theo ý ông! - Ông làu bàu - Nếu đó là Ernst Ericksen làm ông quan tâm thì tôi phải nói ngay với ông rằng không bắt được hắn đâu. Mất tích rồi! Hắn ẩn náu có trời mới biết ở đâu, mặc dầu hắn đã mua vé cho chuyến đi và hành lý của hắn còn ở trong buồng hắn. Ông gọi: — Phục vụ viên đâu! Anh hãy đưa ông đây tới một buồng còn trống. Anh sẽ phục vụ ông ấy tại chỗ. Ông Wolf. Rồi quay về phía người đàn ông mặc áo choàng: — Đúng thế, phải không? Ông trực ban vào sáu giờ sáng và lẽ ra ông phải ngủ từ lâu. Ông trở về buồng mình, nằm vào giường, nhưng ông còn chú ý đến những người đi đi lại lại ở hành lang một cách vô ý thức. Vì vậy ông nghe thấy tiếng Evjen và người hành khách trọc đầu vào phòng họ. Qua nửa đêm mà cửa buồng người đàn bà trẻ chưa mở ra. Ông bấm chuông gọi người phục vụ. — Mọi người đã ngủ rồi ư? — Không phải tất cả. Còn người đàn bà... — Cô ta vẫn chơi trò phá trận à? — Xin lỗi! Cô ta dạo chơi trên boong với... — Với ai? — Với ông Vriens. — Anh ta dám cả gan bám riết cô ta ở phòng hút thuốc ư? — Không! Anh ta ở trong buồng mình. Chính cô ta yêu cầu tôi gọi anh ta... Thuyền trưởng nặng nề trở mình trên giường và càu nhàu điều gì đó khó hiểu đối với người phục vụ làm anh này đợi một lúc mới rút lui.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ác Mộng Ven Hồ
Gina Royal là một phụ nữ bình dị sống cuộc sống êm đềm bên chồng và hai đứa con thơ tại vùng Wichita, tiểu bang Kansas. Thế giới của cô bỗng đảo lộn hoàn toàn vào ngày nọ, khi cô lái xe đưa các con đi học về thì phát hiện một chiếc xe hơi đã tông vào bức tường gara nhà cô, để lại một khoảng trống hoác đồng thời phơi bày bí mật kinh hoàng: một thi thể phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Gia đình Gina bỗng chốc rơi xuống vực thẳm. Để sinh tồn, cô buộc phải trốn chạy, bỏ đi mọi thứ mình từng có, những mong làm lại cuộc đời. Gina cuối cùng tìm được bến đỗ tại ngôi nhà nhỏ bên hồ Stillhouse. Nhưng hy vọng mới còn chưa kịp bén rễ thì cuộc đời một lần nữa đẩy cô đến bờ vực khốn cùng. Cô phải làm thế nào để giữ được sự tỉnh táo trong trò chơi ú tim của kẻ giết người đã hiểu rõ cô và cô cũng hiểu hắn rất rõ? Phải làm thế nào để vừa giữ an toàn cho các con, vừa phải gìn giữ sợi dây tình cảm mong manh với hai đứa trẻ tuy còn nhỏ mà đã phải chịu quá nhiều thương tổn?  Là tập đầu tiên trong series trinh thám Stillhouse gồm ba cuốn, cùng với Con lạch chết chóc và Dòng sông hắc ám, Ác mộng ven hồ sẽ đưa người đọc cùng Gina trải qua hành trình đi tìm sự thật với vô vàn ngã rẽ cùng những nút thắt mở bất ngờ đến phút chót. ----- Về tác giả Rachel Caine Rachel Caine là một trong những tác giả ăn khách nhất thế giới với hơn năm mươi đầu tiểu thuyết nằm trong danh sách bán chạy, bao gồm hai series truyện dành cho tuổi thiếu niên là Ma cà rồng vùng Morganville và Đại Thư viện. Các dòng sách bà theo đuổi gồm có: tiểu thuyết giật gân, huyền bí, kỳ ảo hiện đại, khoa học viễn tưởng và tiểu thuyết siêu linh dành cho giới trẻ. Bà hiện sống cùng gia đình tại Fort Worth, bang Texas, Mỹ. *** Ác mộng ven hồ Tác giả: Rachel Caine. Dịch giả: Ngụy Thanh Tuyên Thể loại: Trinh thám hiện đại phương Tây, hồi hộp Gwen Proctor là người mẹ đơn thân của hai đứa trẻ, con gái lớn 14 tuổi đang trong thời kỳ nổi loạn, con trai nhỏ 11 tuổi tương đối hiểu chuyện và biết quan tâm đến chị gái. Gwen cũng là học viên xuất sắc tại trường dạy bắn súng cạnh vùng hồ Stillhouse thuộc bang Tennessee. Ngôi nhà của họ tọa lạc ở nơi có phong cảnh rất nên thơ, nhưng Gwen giữ thái độ xa cách và hết sức thận trọng với hàng xóm. Cô ép mình tập luyện gắt gao những bộ môn tự vệ nhằm cố gắng duy trì tinh thần ổn định và giữ tính mạng cho bản thân và hai đứa con. Cách đây bốn năm, Gwen từng là người phụ nữ nội trợ hạnh phúc có chồng làm thợ mộc, cuộc sống vô tư vô lo trôi qua từng ngày, cho đến khi một tài xế say rượu tông vỡ nát bức tường garage nhà cô, làm lộ ra thi thể một phụ nữ chết trong tư thế bị treo cổ. Tôi định chọn “Ác mộng ven hồ” làm một quyển trinh thám đọc chơi vào cuối tháng 9, không nghĩ rằng nó cuốn hút như thế này, khiến tôi bỏ ngủ và đọc hết trong vòng chưa đến hai ngày. Cuốn sách khiến tôi liên tưởng nhiều đến quyển “Săn đuổi đến cùng” (Lisa Gardner), cả hai cuốn đều đưa độc giả hoàn toàn rơi vào bầu không khí căng thẳng nhiều phần tối tăm của câu chuyện, hồi hộp theo từng hành động của nhân vật, sợ hãi với diễn biến kịch tính của truyện. Cả hai cuốn cũng không nhấn mạnh lắm vào vai trò của cảnh sát, nhân vật chính không thuộc giới thi hành pháp luật, họ chỉ vô tình rơi vào vòng xoáy tội ác và phải nỗ lực bằng cả tính mạng để giải thoát chính mình + người thân. Ngay phần mở đầu của “Ác mộng ven hồ” đã có cảnh khiến tôi sợ. Nếu là vài năm trước thì tôi đã không dám đọc tiếp, nhưng nay bớt nhát rồi, thêm nữa là cách viết của tác giả quá cuốn hút nên tôi đánh liều đọc đến hết, và khá ưng ý với quyển sách này. “Ác mộng ven hồ” không có những câu tả cảnh hữu tình hay những lời thoại chứa đầy kiến thức tâm lý ứng dụng như trong truyện của Lee Child hoặc Baldacci, cách viết của Rachel Caine khiến tôi nghĩ đến Tử Kim Trần: miêu tả rõ ràng gãy gọn, tập trung vào nhân vật và hành động, rất thực tế nhưng không khô khan, cảm giác như không có chữ nào dư thừa. Thêm một lý do khiến tôi thích cuốn này là vì tác giả không đưa vào quá nhiều tình cảm lãng mạn, thay vào đó, chất trinh thám tỉnh lạnh và đậm đặc hoàn toàn làm hài lòng các độc giả trinh thám. Suốt quá trình đọc, tôi cảm nhận sâu sắc rằng Rachel Caine đúng là một tác giả NỮ viết cho bạn đọc NỮ, vì nội dung truyện nhấn mạnh vào diễn biến tâm lý của một phụ nữ trẻ, cách cô ấy bảo vệ con như một loài thú dữ, cách cô ấy so sánh người đàn ông trong hiện tại và người đàn ông của quá khứ, cách cô ấy vận dụng toàn bộ sức mạnh yếu ớt của nữ giới để chống lại kẻ xấu… Không biết những cuốn khác trong loạt truyện “Stillhouse” thì sao nhưng sau cuốn này thì tôi kết luận mình thích truyện của Rachel Caine. Có một số truyện trinh thám tôi từng đọc qua đề cập đến tác hại của Internet đối với cuộc sống con người, chẳng hạn như “Cây thập tự ven đường”, “Dữ liệu tử thần”, “Sát nhân mạng” (cả ba truyện vừa nêu đều của tác giả Jeffery Deaver). “Ác mộng ven hồ” cũng tương tự như vậy. Trước khi đọc cuốn này, tôi chưa từng tưởng tượng vợ con của một kẻ sát nhân sẽ nhận được thái độ đối xử như thế nào từ công chúng? Thông cảm, hay thờ ơ không quan tâm? Trái với lầm tưởng ngây thơ của tôi, mức độ thù hằn đổ lên đầu họ còn gấp nhiều lần đổ lên chính kẻ sát nhân. Họ chỉ là phụ nữ và trẻ con, và dù vô tội, họ vẫn bị những tay anh hùng bàn phím vô nhân tính thiếu não đe dọa bằng những từ ngữ tục tĩu dơ bẩn, những hành động tiểu nhân bỉ ổi. Trong truyện có nhiều câu, nhiều đoạn rất thấm thía mô tả suy nghĩ của Gwen Proctor khi cô và các con phải nhận lấy những lời lẽ / những cách cư xử mà họ hoàn toàn không đáng phải chịu. Tuy hiểu rằng người sử dụng Internet không phải toàn người xấu, nhưng quyển sách này vẫn đem đến cho tôi những góc nhìn mới, giúp tôi sáng mắt ra và từ nay thêm phần e sợ khi dùng Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng. Thiết kế bìa rất hợp với tựa sách, lẽ ra tôi phải sợ nhưng tôi chỉ thấy bìa đẹp!, gợi liên tưởng đến bìa cuốn “Tiếng thét”của Hamanaka Aki. Phần dịch thuật xuất sắc, giúp cho việc đọc câu truyện càng trở nên dễ dàng và thú vị hơn đối với bạn đọc VN. Tuy có để ý tìm kiếm nhưng tôi không nhớ mình có gặp lỗi chính tả hay lỗi biên tập nào trong truyện hay không. Loạt truyện “Stillhouse” của tác giả Rachel Caine còn những cuốn khác gồm + Killman Creek: Con lạch chết chóc, đã được dịch tiếng Việt Còn những tựa sách sau thì tôi mạn phép tự dịch là + Wolfhunter River: Dòng sông săn sói + Bitter Falls: Thác nước đắng cay + Heartbreak Bay: Vùng vịnh tim vỡ Hy vọng những cuốn còn lại đều sẽ được dịch và xuất bản tiếng Việt. Bây giờ đọc tiếng Việt, vài năm sau nếu có cơ hội đọc lại nguyên tác tiếng Anh thì tôi nghĩ mình sẽ có thêm quãng thời gian tận hưởng những quyển sách thú vị này. *** (Sea, 29-9-2020) Cáo Biển Non Xanh Gina Royal có lẽ không tin nổi đến một ngày nọ gia đình hạnh phúc của cô lại rơi vào vực thẳm của bi kịch: Người chồng chung sống bao lâu nay thực ra là một thằng sát nhân bệnh hoạn! Tội ác của hắn chỉ thực sự lộ tẩy khi có 1 tai nạn hi hữu xảy ra ở gara, nơi hắn thường xuyên làm việc tại nhà. Gina bị cáo buộc đồng loã nhưng sau đó được tuyên trắng án. Để bắt đầu cuộc sống mới với 2 con, người phụ nữ này sẽ phải làm những gì? “Ác mộng ven hồ” là câu chuyện về hành trình chỉ có trốn chạy và trốn chạy của một người đàn bà yếu ớt không một tấc sắt trong tay. Rong ruổi hết bang này sang bang nọ với những thân phận mới. Mục đích của cô là để đem lại nơi chốn an toàn và ổn định cho các con của mình. Có vẻ định mệnh đã sắp đặt cô dừng chân lại ở vùng Hồ Stillhouse, bang Tenessa. Nhưng vì sao toà đã tuyên án vô tội mà Gina Royal vẫn phải chạy trốn ko ngừng? Nói đến đây tôi lại nhớ về “Thư” của Higashino Keigo: Một kẻ phạm tội bị cầm tù 15 năm; và 15 năm đó cũng là ngần ấy ngày cuộc đời em trai của anh ta bị “cầm tù” ở phía bên ngoài song sắt. Gina có phần giống với người em trong câu chuyện ấy, chính xác thì cuộc đời của cô ngay cả khi chồng bị tống vào ngục vẫn ko thể ngóc đầu lên được, nhưng cô thê thảm theo một cách khác. Cả 3 mẹ con liên tục bị đe doạ tấn công, giết chết. Những thân nhân của các nạn nhân mà thủ phạm là gã chồng cũ không chấp nhận việc Gina vô tội, người ta tìm cách truy lùng họ để trả thù. Bọn cuồng tín tôn thờ chủ nghĩa man rợ phát tán các hình ảnh thoá mạ các con cô…Bằng một cách nào đó, chính người chồng đầu ấp tay gối đã “cầm tù” và bóp nghẹt cơ hội làm lại cuộc đời của vợ con mình. Một con thú khát máu trong vỏ bọc người chồng mẫu mực liệu có bao giờ nghĩ đến viễn cảnh đó hay không? Tôi đọc cuốn sách này nhanh và hoàn thành sớm hơn tôi tưởng. Đây là một cốt truyện gần như đè bẹp yếu tố trinh thám thuần mặc dù có đầy đủ yếu tố: người chết, cảnh sát, nghi phạm, điều tra. Xương sống của truyện tập trung về đời sống nội tâm và cách ứng phó của nhân vật chính với các diễn biến bên ngoài. Nhiều lúc cứ ngỡ như đây là một cuộc chiến sinh tồn, vì vai trò của Gina không khác gì một con mồi dễ triệt hạ. Tôi cũng thừa nhận rằng không ít lần tôi phát bực với nhân vật này. Nhu nhược và yếu đuối, thường tìm cách đổ lỗi cho bản thân mình, có phần hơi kém thông suốt tâm lý của con cái, bề ngoài thì luôn đề phòng nhưng kì thực rất dễ tin người. Tin mình đi, Gina dễ tin người vãi lá; không cần đọc đến đoạn tác giả lồng ghép vào về sau thì ngay từ ban đầu cũng thừa dữ kiện để nhận ra rồi. Nhưng suy xét kĩ thì tôi thấy cũng dễ hiểu. Gina sống với không một sự giúp đỡ và tâm trạng cảnh giác cao độ luôn luôn khiến cô mệt mỏi. Hoàn cảnh khắc nghiệt làm thay đổi tâm tính của cả cô lẫn 2 con. Cuộc sống của cô là chỉ cần bạn ngồi yên một chỗ, rồi tai hoạ và rắc rối cũng sẽ tự dưng tìm đến bạn. Gina không thông minh lên được là bao, nhưng mạnh mẽ thì có, sự mạnh mẽ chậm dần đều. Đơn giản Gina chỉ là một phụ nữ an phận hiền lành, không có kĩ năng va vấp ngoài xã hội từ trước. Nếu nói thứ cảm xúc nào rõ ràng nhất sau khi đọc xong cuốn sách này thì đó là sự phẫn nộ. Không những nạn nhân là nữ, chết thảm, mà đối tượng bị đổ lỗi ở đây cũng vẫn lại là phụ nữ; Luôn là phụ nữ. Một xã hội nhân danh diệt trừ cái ác nhưng không hiểu rõ bản chất cái ác. Kẻ tội đồ lại thành “ai-đồ”, có fandom sùng bái. Cái nhìn thiển cận của đa số con người trong xã hội đối với một cá nhân có vết đen là vấn đề không thể tránh khỏi, vì khó có người nào thật sự muốn bản thân mình buộc phải có trách nhiệm nhân ái và bao dung với đồng loại. Luật pháp trong câu chuyện này còn thua cả luật rừng. Tôi thấy nực cười nhất là đám cảnh sát. Thầm nghĩ có lẽ tác giả muốn gia tăng độ khó và mức độ hiểm trở cho hành trình của nhân vật chính nên suốt từ đầu đến cuối không có nổi lấy 1 tay nào thông minh nhạy bén Nếu không muốn nói là có mặt chắc chỉ để hằm hè đe doạ. Và cuối truyện thì chỉ cần nói “Tôi nợ chị cả một trời xin lỗi” xí xoá là xong! Tôi không chê tác phẩm này về mặt logic phá án, bởi vì nó quá mờ nhạt, không có gì để phân tích và suy đoán thì biết lấy gì ra để chê? Chẳng có gì khác ngoài một vài biểu hiện không thiện chí và gây khó dễ cho nhân vật chính, không cấu thành nổi dữ kiện để đặt nghi vấn ai là kẻ đứng sau. Và như đã nói từ trước là Gina ngây thơ vãi lá, hoặc nếu tác giả xem đó là thử thách gây bất ngờ cho độc giả phát hiện ra điều bí mật thì xem ra quá nhẹ nhàng. Vậy suy cho cùng, chạy trốn mãi vẫn không thể là giải pháp thực sự hữu hiệu, Gina buộc phải đối mặt và phải trở nên cáo già hơn. Chúng ta chờ xem ở phần 2, “Con Lạch chết chóc” có khởi sắc hơn phần 1 này hay không nhé? À mà phải nói thêm rằng gã chồng trong truyện cũng thuộc dạng bệnh nhất trong các loại bệnh. Các bạn đọc “Vỏ bọc hoàn hảo”- Lisa Gardner; “Những thiên thần mất tích”- Karin Slaughter; “Sau cánh cửa đóng”- B.A Paris dễ thấy hình ảnh tương tự nhưng đảm bảo không “bệnh” bằng Chồng của Gina đâu, mặc dù hắn chỉ xuất hiện qua sự hồi tưởng của cô là nhiều. Phần 1 kết thúc mở, phần 2 sẽ hứa hẹn gay cấn hơn. *** GINA ROYAL Wichita, bang Kansas Gina chẳng bao giờ hỏi tới cái gara. Ý nghĩ ấy sẽ khiến cô phải thao thức bao đêm ròng suốt nhiều năm về sau, làm mí mắt cô nóng ran, đùng đùng giật liên hồi. Lẽ ra mình phải hỏi. Phải biết. Nhưng cô đã không hỏi, cô không biết, và cuối cùng, chính điều đó đã hủy hoại cô. Thường thường, cô về nhà lúc ba giờ chiều, nhưng chồng cô gọi, báo rằng anh có việc gấp ở sở làm và cô phải tới trường đón Brady và Lily thay anh. Cũng chẳng vấn đề gì lắm, thật thế - vẫn còn vô khối thời gian để dọn dẹp nhà cửa trước khi nấu bữa tối. Anh tỏ ra rất đáng yêu và rối rít xin lỗi khi làm xáo trộn lịch trình của cô. Thực sự, Mel có lẽ là người đàn ông tốt nhất, hấp dẫn nhất trên đời và cô sẽ đền đáp cho anh; cô đã quyết định như thế. Tối nay, cô sẽ nấu món anh thích nhất: gan chiên bơ hành, uống kèm với vang pinot noir thượng hạng mà cô vừa lấy ra khỏi tủ và đang bày trên bàn bếp kia. Sau đó là buổi tối cả nhà quây quần, là ngả người trên sofa xem phim cùng lũ trẻ. Chắc sẽ là bộ phim siêu anh hùng mới ra mà bọn trẻ kêu gào đòi xem suốt mấy hôm nay, dẫu Mel rất kĩ tính với các thể loại phim ảnh cho trẻ nhỏ. Lily sẽ cuộn người lại như cục bông tròn nóng sực, rúc sát vào Gina, còn Brady nằm dài trong lòng bố, đầu gác lên tay ghế. Chỉ có những đứa trẻ dẻo người mới nằm thoải mái được như thế, nhưng đó là điều Mel yêu thích nhất trần đời: thời gian bên gia đình. Chậc. Điều yêu thích thứ hai, sau nghề mộc của anh. Gina hy vọng tối hôm nay anh sẽ không kiếm cớ ra ngoài và lại hì hục làm cái nọ, sửa cái kia trong xưởng mộc. Một cuộc sống bình thường. Dễ chịu. Không hoàn hảo - tất nhiên rồi. Chẳng ai có cuộc hôn nhân hoàn hảo cả, phải không nào? Nhưng Gina cảm thấy hài lòng, nói chung là thế. Cô rời nhà mới được có nửa giờ, đủ lâu để phi tới trường, đón bọn trẻ, và phóng trở lại nhà. Ôi trời! Ngộ nhỡ nhà ai bị cháy thì làm sao đây? Đó là ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu khi cô rẽ vào góc đường và thấy đèn hiệu nhấp nháy ở khu phố nhà mình. Cô đứng tim trước ý nghĩ đó, nhưng ở giây tiếp theo, giây phút ích kỷ, cô lại nghĩ: Thế này thì bữa tối muộn mất. Chuyện nhỏ nhặt là thế nhưng khiến người ta phát bực. Đường bị chặn hoàn toàn. Cô đếm thấy có ba chiếc xe cảnh sát đằng sau rào chắn, đèn chớp trên xe họ khiến những ngôi nhà gần như giống hệt nhau ở gần đó chìm trong màu đỏ lừ của máu và màu xanh tái của những vết bầm. Một xe cứu thương và một xe cứu hỏa nằm thu lu ở tít cuối đường, rõ ràng đang bị bỏ không. “Mẹ ơi?” Brady, cậu bé bảy tuổi đang ngồi ở ghế sau, hỏi. “Mẹ, có chuyện gì vậy mẹ? Là nhà ta ạ?” Giọng cậu có vẻ phấn khích. “Nhà mình cháy à mẹ?” Gina cho xe đi thật chậm và cố quan sát hiện trường: một bãi cỏ bị xới tung, một thảm lan diên vĩ bị san phẳng và mấy lùm cây bị nghiền nát. Một cái xác hộp thư móp méo vắt vẻo nửa trong nửa ngoài rãnh thoát nước. Hộp thư nhà họ. Bãi cỏ nhà họ. Nhà của họ. Phía cuối bãi chiến trường đó là một chiếc SUV màu nâu sẫm, động cơ vẫn còn đang xì khói. Chiếc xe bị kẹt phân nửa trong bức tường ở mặt tiền gara - xưởng của Mel - và ngật ngưỡng tì lên đống đổ nát từng là một phần của ngôi nhà gạch vững chãi. Cô vẫn luôn nghĩ rằng nhà mình rất vững chãi, rất chắc chắn, rất bình thường. Đống gạch vụn và những miếng thạch cao vỡ nát như một bãi nôn kia nom mới kinh tởm làm sao. Chúng trông mong manh quá. Cô hình dung ra chiếc SUV khi nó lao lên lề đường, hất tung hộp thư, trượt trên sân, và đâm sầm vào gara. Khi trong đầu vẽ ra cảnh tượng đó, chân cô cuối cùng cũng nhấn xuống phanh xe mình, lực đạp khá mạnh, đủ để cô cảm nhận được cú xóc đến tận xương sống. “Mẹ!” Brady hét lên, gần như sát vào tai cô, và theo phản xạ, cô đưa tay lên ra hiệu cho con im lặng. Bên ghế khách, Lily, mười tuổi, đã gỡ tai nghe ra và nhoài về phía trước. Miệng con bé há hốc khi nó nhìn thấy nhà mình bị phá, nhưng nó không nói một lời. Mắt nó vẫn đang trố ra vì choáng. “Mẹ xin lỗi.” Gina nói, nhưng gần như không nhận thức được mình đang nói gì. “Có gì đó không ổn, con ạ. Lily? Có sao không con?” Mời các bạn mượn đọc sách Ác Mộng Ven Hồ của tác giả Rachel Caine & Ngụy Thanh Tuyên (dịch).
Vết Khắc Hằn Trên Cát
Vết Khắc Hằn Trên Cát “Cuốn sách ly kỳ về Cuộc đổ bộ này sẽ khiến bạn thích thú, còn chúng tôi thì vô cùng yêu thích. Tác giả đưa chúng ta trở đi trở lại giữa Mỹ và Normandie, theo bước chân của Alice. Những tình tiết hồi hộp đang chờ bạn đó.” - Femme actuelle ------------- GIỚI THIỆU SÁCH: “Điều quan trọng với cô, là Lucky không chết như những người khác trên bãi biển. Cái chết đó, anh đã quyết định nó, anh muốn nó.” Một mạng sống đáng giá bao nhiêu? Tháng Sáu năm 1944, viên lính biệt kích Lucky đã ngã xuống trên một bãi biển ở Normandie. Hai mươi năm sau, Alice, vị hôn thê của anh phát hiện một giao kèo bí mật chỉ vài giờ trước khi xảy ra cuộc đổ bộ năm 44, anh đã mạo hiểm tính mạng để đổi lấy một khoản tiền khổng lồ! Và hành trình đi khắp nước Mỹ để lục lại quá khứ của Alice bắt đầu. “Bussi dẫn dắt những tình tiết hồi hộp với một sự tinh quái đến mức một lúc nào đó, độc giả phải tự hỏi mình có bị lừa hay không. Và cuốn tiểu thuyết cũng thật hài hước nhờ viên thám tử tư đầy hăng hái. Một cuốn trinh thám thật thú vị, cuốn hút.” - Le parisien aujourd’hui en France -------------- GIỚI THIỆU TÁC GIẢ: Michel Bussi sinh ngày 29 tháng Tư năm 1965 tại Normandie. Ông là nhà văn, nhà chính trị học, giáo sư địa lý tại đại học Rouen và được biết đến chủ yếu với những cuốn tiểu thuyết trinh thám. Theo tạp chí Le Figaro, ông đứng thứ hai trong danh sách các nhà văn Pháp có tác phẩm bán chạy nhất năm 2018, với 975.800 bản. Các tác phẩm của Michel Bussi đã được dịch sang 34 thứ tiếng, một số được chuyển thể thành phim điện ảnh và phim truyền hình. Vết khắc hằn trên cát là bản biên tập lại của cuốn tiểu thuyết trinh thám đầu tay Ohama crimes (tạm dịch: Tội ác ở Ohama) xuất bản năm 2007, từng nhận được nhiều giải thưởng như Sang d’encre, Octave Mirbeau… Các tác phẩm khác của Michel Bussi đã được xuất bản tại Việt Nam: Xin Đừng Buông Tay Hoa Súng Đen Mẹ Đã Sai Rồi Kho Báu Bị Nguyền Rủa Vết Khắc Hằn Trên Cát ... *** Lời tác giả Cuốn tiểu thuyết này ra đời từ một ảo ảnh Tuy cuốn tiểu thuyết này nay mới được nhà Presses de la Cité xuất bản lần đầu, dưới nhan đề Vết khắc hằn trên cát, nhưng tôi đã viết nó từ rất lâu rồi. Hai mươi năm, chính xác là vậy. Dẫu các tiểu thuyết của tôi không được kết nối bằng một nhân vật chính xuyên suốt, cũng chẳng theo một trật tự nào; dẫu mỗi độc giả đều có thể bắt đầu khám phá những cuốn sách của tôi từ bất cứ câu chuyện nào, thì câu chuyện này vẫn có vị trí đặc biệt trong cuộc đời viết văn của tôi, bởi đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi viết. Dù lúc đó tôi đã gần ba mươi, thì liệu có thể gọi Vết khắc hằn trên cát là tiểu thuyết của tuổi trẻ được không? Được chứ, chắc chắn rồi! Được chứ, bởi khi viết Vết khắc hằn trên cát, tôi không biết liệu một ngày nó có được xuất bản không (và thậm chí, nói thật lòng, tôi cũng không quá tin tưởng vào điều đó). Đó là điểm khác biệt cơ bản với những cuốn tiểu thuyết khác của tôi. Được chứ, bởi khi viết Vết khắc hằn trên cát, tôi không biết bất cứ quy tắc viết tiểu thuyết trinh thám nào, tôi đã tạo ra, hình dung, biến đổi chúng. Có thể các miêu tả nơi chốn quá dài dòng, có thể viên thám tử tư quá lãng mạn, tên giết người thuê quá vụng về, nhưng bằng cách ấy hẳn tôi đã tạo ra cách kể chuyện của riêng mình. Được chứ, bởi tiểu thuyết này chứa đầy những ám chỉ, tham khảo, có thể cả ám ảnh, những thứ sẽ được dùng lại, có khi được phát triển thêm trong các tiểu thuyết sau của tôi, tôi để các bạn khám phá chúng qua từng trang… Được chứ, bởi vào năm 1994, các nhà văn không có Internet, Google Earth, hay từ điển bách khoa trực tuyến… Họ không thể, chỉ bằng một cái nhấp chuột đơn giản, có được cả trăm bức ảnh về súng lục hay danh sách đầy đủ huân, huy chương của quân đội Mỹ từ thời Georges Washington. Năm 1994, cần phải lựa chọn, hoặc là lao vào một cuộc nghiên cứu tìm hiểu dài dằng dặc… hoặc là tự sáng tạo ra tất cả! Các tiểu thuyết về sau của tôi đều được thu thập tư liệu cẩn thận, miêu tả địa điểm chính xác (chí ít cũng gần như luôn chính xác), rồi được các biên tập viên thận trọng đọc đi đọc lại. Vết khắc hằn trên cát đã lọt qua lưới lọc của thực tế và độc giả có thể thỏa sức phân biệt đúng sai, phân biệt những gì có thật và những gì thuộc về trí tưởng tượng thuần túy của tác giả, người đã biến đổi hiện thực theo ý mình, mà sự hư hư thực thực của câu chuyện không hề bị ảnh hưởng. Thậm chí còn nhờ thế mà càng mạnh mẽ hơn, và ở đây tôi có thể thú nhận rằng đôi lúc tôi thấy giận tất cả các công cụ mới dành cho nhà văn; tôi ước mình có thể miêu tả các địa điểm như cách tôi hình dung về chúng chứ không phải như những gì hiện ra trên màn hình biết tuốt của tôi, có thể sáng tạo ra các nhãn hiệu ô tô, quần áo hay rượu, đi theo những trình tự tư pháp mà tôi nghĩ phải thế chứ không bị bó chặt vào những luật lệ, sắc lệnh hay quy định thực tế… Bạn có thể đáp lại rằng chẳng có gì ngăn tôi làm vậy và có lẽ bạn hoàn toàn đúng; đó chắc chắn là việc mà một ngày nào đó tôi sẽ làm. Vả lại, tuyệt đối chân thành mà nói, tôi cũng đã đôi lần làm vậy, một cách thầm lặng, tôi, người viết những cuốn tiểu thuyết trinh thám mà chưa một lần bước chân vào Sở cảnh sát! Được chứ, bởi cuốn tiểu thuyết này đã trải qua nhiều cuộc đời. Chính xác là ba. Ở cuộc đời thứ nhất, nó ngủ yên mười năm trời trong ngăn kéo bàn làm việc của tôi, dưới nhan đề L’Ardoise(tạm dịch: Đá đen), trước khi có một nhà xuất bản đồng ý xuất bản. Ở cuộc đời thứ hai, khi được đặt lại tên là Omaha Crimes(tạm dịch: Những tội ác Omaha), nó hé lộ với tôi thế giới của tiểu thuyết trinh thám. Rồi từ nay trở đi với tên Gravé dans le sable(Vết khắc hằn trên cát), nó tiếp tục chuyến phiêu lưu tươi đẹp và bắt đầu cuộc đời thứ ba. Trước khi, biết đâu đấy, đến với cuộc đời thứ tư trên màn ảnh rộng… Thực ra, ý tưởng của cuốn tiểu thuyết này ra đời từ một ảo ảnh điện ảnh. Theo những ký ức về bộ phim Le Jour le plus long (tạm dịch: Ngày dài nhất), tôi tin mình thấy cảnh các tay lính Mỹ đang tấn công một vách đá, một bức tường bê tông, theo thứ tự đã được ấn định trước do một viên trung úy hô lên. 1, 2, 3, 4… Và tôi xem lại bộ phim: chẳng có chút dấu vết nào của cảnh tượng rùng rợn đó. Nhưng trái lại, cũng không nhà sử học nào có thể khẳng định với tôi là không có một trật tự tấn công nhất định, hay các phương thức xác định trật tự đó. Do thiếu sự thật lịch sử, tôi đã tưởng tượng ra tất cả. Chúc các bạn đọc sách vui vẻ cùng Alice, Lison, Nick, Ralph, Emilia, Lucky, Ted… Tất cả họ đều có vị trí đặc biệt trong tim tôi, như những người bạn ấu thơ mà ta sẽ nhớ đến nhiều hơn những người ta gặp sau này. Tôi biết rằng với các độc giả đọc tôi từ đầu, những người từng biết đến Vết khắc hằn trên cát dưới tên Omaha Crimes, với bìa đen trắng có hình các sà-lan đổ bộ gợi đến một cuốn sách về ký ức chiến tranh, thì cuốn sách này vẫn mang phong vị riêng, và có lẽ vẫn là cuốn sách yêu thích của họ. Thậm chí họ có thể sẽ nhìn cuốn tiểu thuyết địa phương này lan đến khắp các hiệu sách tại Pháp, đến cả những hiệu sách vô danh, dưới tên mới, với chút ghen tị. Cả một chút buồn nữa, gần giống như khi ta để cậu bé gần nhà ra đi sống cuộc đời mình ở nơi khác, nhưng lại dặn cậu đừng quên nơi mình từ đó ra đi. Có điều gì đó thần kỳ khi một cuốn tiểu thuyết đầu tay, được một nhà xuất bản địa phương phát hành, vài năm sau, lại ra mắt khắp cả nước, rồi ra thế giới, và hơn cả một cuộc đời thứ ba, là hàng nghìn cuộc đời mới, bởi mỗi lần gặp gỡ với một độc giả là một lần cuốn sách sống thêm một cuộc đời. Michel Bussi *** Cuốn sách ly kỳ về cuộc đổ bộ này sẽ khiến bạn thích thú, còn chúng tôi thì vô cùng yêu thích. Tác giả đưa chúng ta trở đi trở lại giữa Mỹ và Normandie, theo bước chân Alice, với những tình tiết hết sức ly kỳ và hồi hộp. Femme Actuelle Bussi dẫn dắt những tình tiết hồi hộp tinh quái đến mức một lúc nào đó, độc giả phải tự hỏi mình có bị lừa hay không? Và cuốn tiểu thuyết cũng thật hài hước nhờ viên thám tử tư đầy hăng hái. Một cuốn trinh thám thật thú vị, cuốn hút. Le Parisien Aujourd’hui En France *** 6 tháng Sáu 1944, bờ biển Omaha, Mũi Guillaume Chiếc sà-lan mở bụng. Một trăm tám mươi tám biệt kích Mỹ nhào xuống làn nước lạnh rồi nhanh chóng tản đi. Nhìn từ trên cao Mũi Guillaume, họ trông chẳng lớn hơn những con kiến trên tấm khăn trải bàn nhàu nhĩ. Khó mà ngắm bắn được họ. Lucky Marry là người đầu tiên vào đến bờ biển, gần như đứt hơi. Anh nằm dài trên cát ướt, khuất sau một khối đá granite nhỏ và thùng chất nổ nặng trịch anh vừa đặt phía trước. Anh nghe thấy tiếng chân chạy nhanh sau lưng và hơi thở gấp gáp. Ralph Finn cũng lao vào nấp sau chỗ trú ẩn tạm bợ. Còn sống! Anh quan sát nhanh Mũi Guillaume, chìm trong sương mù tít trên cao, rồi đến bức tường bê tông nằm trước họ năm chục mét. Anh mỉm cười với Lucky, nụ cười của kẻ tử tế bị cuốn vào cảnh hỗn loạn của thế giới, nhưng vẫn sẵn sàng hành xử đến cùng như một anh hùng vô danh. Một tiếng nổ vang lên cách họ chưa đầy mười mét. Không có tiếng hét nào. Những đám mây cát ướt bốc lên. Alan Woe hiện ra từ trong sương và nằm xuống cạnh Lucky và Ralph. Anh ta cũng còn sống! Anh ta nhìn sâu vào mắt Lucky. Một ánh mắt bình tĩnh, đầy chất trí tuệ. Chút nhân tính bổ sung. Điều đó giúp được gì cho anh ta, ở đây? — Một! – trung úy Dean hô. Ngay lập tức, như những cỗ máy vận hành trơn tru, Lucky, Ralph, Alan chĩa súng về phía Mũi Guillaume và bắn. Loạt đạn đột ngột vang lên đinh tai. Một cơn mưa đạn trút vào lô cốt nằm cheo leo trên đỉnh vách đá. Vừa ngắm, Lucky vừa tự ép mình nghĩ đến Alice. Anh sẽ bình an, nhờ có cô,như mọi khi. Một tiếng thét xé rách tiếng đạn nổ ồn ào. Benjamin Yes khốn khổ đã không tiến được xa. — Hai! – Dean hô. Đã hai rồi ư? Vừa tiếp tục bắn một cách mù quáng, Lucky vừa quay đầu lại. Giữa những con sóng đục ngầu trào lên rồi lại rút xuống, trong một thoáng, anh thấy thân xác những đồng đội đã ngã xuống, thân thể những đồng đội bị thương, cả thân thể trơ ì của những người không dám đánh đến cùng, không dám chạy trên bãi biển trống, chỉ nhô đầu lên khỏi mặt nước. Trong số đó, có Oscar Arlington. Cuối cùng hắn cũng đến được bờ biển. Ướt sũng, bò trong bùn xám, hắn chậm chạp tiến gần đến thùng thuốc nổ. Hắn run rẩy, không thể giữ chắc súng, đôi mắt đỏ ngầu. Lucky bắt gặp ánh mắt kinh hoàng của Arlington. — Ba! – trung úy Dean hô. Một tiếng nổ dữ dội đáp trả loạt đạn của toán biệt kích Mỹ. Những vụn đất ướt màu son trùm lên họ. Oscar Arlington, người lấm lem đất, nước và nước mắt, gần như không thể nhận ra, đã đến được chỗ họ sau thùng thuốc nổ. Lucky không nhìn hắn lấy một lần. Anh phải quên đi. Anh phải tập trung vào khuôn mặt Alice, vợ chưa cưới của anh, người vợ chưa cưới xinh đẹp của anh. Nhưng dẫu sao anh cũng sẽ thắng, như mọi khi, bằng cách này hay cách khác, anh sẽ chiến thắng mọi Arlington trên đời. — Bốn! – trung úy Dean hô. Một cơn rùng mình lan khắp người Lucky. Anh mỉm cười. Ngay cả khi chơi poker, anh cũng chưa từng cảm thấy kích thích đến thế. Ngay cả trước những món tiền đặt cược khủng nhất. Cuộc đời là một trò chơi tuyệt vời, trò chơi đáng giá 1,44 triệu đô-la! Anh nhắm mắt rồi lại mở mắt: khuôn mặt hiền dịu của Alice giờ đã thay thế màn sương bụi. Anh là bất tử. Anh cảm thấy bàn tay mềm oặt của Oscar Arlington tìm cách túm vạt áo rằn ri của anh. Quá muộn. Không chần chừ thêm nữa. Cuối cùng anh cũng sắp biết. Sắp tìm ra câu trả lời cho thương vụ điên cuồng được tiến hành ba ngày trước. Lucky là người điên rồ nhất hay tài giỏi nhất trong tất cả lính biệt kích của chiến dịch Overlord? Ba ngày trước… Mời các bạn đón đọc Vết Khắc Hằn Trên Cát của tác giả Michel Bussi & Danh Việt (dịch).
Hannibal Trỗi Dậy
Hannibal Trỗi Dậy Hannibal Trỗi dậy “Một tuyệt phẩm của máu và bạo lực nơi những nỗi kinh hoàng của chiến tranh được miêu tả một cách đẹp đẽ, nếu có thể dùng từ đó, khi Hannibal buộc phải trở thành kẻ ăn thịt người mà sau này sẽ trở thành thương hiệu của hắn.”- Independent --------- Trước HANNIBAL Trước SỰ IM LẶNG CỦA BẦY CỪU Trước RỒNG ĐỎ Một đứa trẻ đã sống sót qua nỗi kinh hoàng Thế chiến, qua những kẻ ăn xác, qua sự tàn bạo man rợ của chiến tranh. Nó đứng trong tuyết, hoàn toàn đơn độc khi thế giới chìm trong máu, băng giá và tro tàn. Đứa trẻ đã bước vào mùa đông đằng đẵng của lòng mình và con quái vật khủng khiếp nhất tiểu thuyết lẫn màn ảnh thời hiện đại ấy trỗi dậy: Bác sĩ Hannibal Lecter. *** “Một đứa trẻ đã sống sót qua nỗi kinh hoàng Thế chiến, qua những kẻ ăn xác, qua sự tàn bạo man rợ của chiến tranh. Nó đứng trong tuyết, hoàn toàn đơn độc khi thế giới chìm trong máu, băng giá và tro tàn. Đứa trẻ đã bước vào mùa đông đằng đẵng của lòng mình và con quái vật khủng khiếp nhất tiểu thuyết lẫn màn ảnh thời hiện đại ấy trỗi dậy: BÁC SĨ HANNIBAL LECTER” Hannibal là ai? Hannibal, hay còn được biết đến cái tên với đầy đủ là Hannibal Lecter, là một tay bác sĩ nổi tiếng tài ba trong giới phẫu thuật học. Tuy vậy, bản chất thực sự của hắn lại là con quái vật ăn thịt người hung tợn với những thủ đoạn giết người khôn khéo và tàn bạo đủ khiến người đọc phải rợn tóc gáy. Đây là nhân vật kinh điển đã xuất hiện trong 4 tập truyện trong series về Hannibal của nhà văn người Mỹ Thomas Harris. Trong đời thực, tên sát nhân này được lấy cảm hứng từ Dr. Alfredo Balli Trevino, kẻ đã giết và ăn thịt chính người bạn trai của mình. Mặc dù là tập cuối cùng trong bộ truyện, thế nhưng Hannibal Trỗi Dậy lại miêu tả về những sự việc đầu tiên trong cuộc đời của Hannibal, dẫn dắt người đọc theo dòng cảm xúc của gã sát nhân để ta hiểu được rằng, trước khi biến thành con quái vật khát máu, Hannibal đã từng là một con người bình thường, có tình yêu thương có cảm xúc. Thậm chí, nếu không vì những thăng trầm đẩy hắn xuống vực sâu của tội ác, hắn đã có thể trở thành một thiên tài lừng lẫy ghi dấu trong lịch sử nhân loại. “Một tuyệt phẩm của máu và bạo lực nơi những nỗi kinh hoàng của chiến tranh được miêu tả một cách đẹp đẽ, nếu có thể dùng từ đó, khi Hannibal buộc phải trở thành kẻ ăn thịt người mà sau này sẽ trở thành thương hiệu của hắn” – Theo INDEPENDENT. Sơ lược về nội dung của cuốn sách Mạch truyện được dẫn dắt từ tuổi thơ của Hannibal Lecter kéo dài cho đến khi tên sát nhân này 18 tuổi. Vốn xuất thân từ một gia đình quý tộc và quyền quý, Hannibal từ nhỏ đã thông thạo tận ba thứ tiếng: Anh, Đức và Lít Va. Không những thế, cậu bé Hannibal còn phát triển khả năng của mình ở những môn học khác như toán, lý,… dưới sự giảng dạy của người thầy Jacob. Tuy nhiên, khi chiến tranh ập đến, cậu bé Hannibal đã mất đi những người thân của mình, mà đau thương nhất chính là cô em gái Mischa, khi Hannibal tận mắt chứng kiến cảnh cô em gái của mình bị những tên tội phạm chiến tranh ăn thịt.  Có lẽ vì chính những kí ức đau thương ấy đã tác động đến tâm lý của cậu bé Hannibal hồn nhiên, nhân hậu, thông minh, biến cậu trở thành một kẻ giết người hàng loạt sau này. Khi tương lai của một vĩ nhân, bị phá hoại bởi bom đạn chiến tranh Không phải chỉ riêng trong tác phẩm này mà chúng ta nhìn ra được cái đau thương mà chiến tranh mang lại. Thế chiến thứ hai khi ấy đi qua, để lại cho toàn thế giới với cái chết của hàng triệu người, gắn liền với nó là nỗi đau mất mát. Mất mát không chỉ về thể xác, tinh thần, mà còn mất mát về những hoài bão. Khi nghiền ngẫm về tuổi thơ của Hannibal, có lẽ không ít độc giả sẽ tự mường tượng ra hình ảnh của một vĩ nhân tương lai cùng những giải thưởng danh giá trong các lĩnh vực toán học, vật lý, ngôn ngữ,… “Hannibal Lecter biết đọc từ khi mới chào đời hoặc trong mắt chị vú thì đúng là như vậy. Chị từng có một thời gian ngắn đọc sách cho thằng bé nghe hồi nó lên hai, thường là đọc cuốn truyện cổ Grimm được mình họa bằng các tranh khắc gỗ vẽ những hình người có móng chân nhọn. Thằng bé lắng nghe chị vú đọc, ngả đầu áp vào người chị trong lúc nhìn các trang giấy, sau đó chị vú phát hiện ra thằng bé đang tự mình đọc, tì trán lên cuốn sách rồi nâng người lên cách trang sách một đoạn, đọc thành tiếng theo lối phát âm của chị vú. Cha Hannibal có lòng hiếu kỳ rất mạnh. Xuất phát từ lòng hiếu kỳ về con trai mình, bá tước Lecter đã sai người hầu lôi những cuốn từ điển nặng trịch từ trên giá sách trong thư viện của lâu đài xuống. Từ điển tiếng anh, tiếng Đức cùng hai mươi ba tập từ điển Litva; rồi sau đó Hannibal một mình xử lý đống sách.” “Cũng vào năm Hannibal lên sáu, bá tước Lecter bắt gặp con trai đang tìm cách đo chiều cao của lâu đài dựa vào chiều dài các bóng tháp, làm theo các hướng dẫn mà theo lời thằng bé là do chính Euclid đưa ra. Đến lúc đó, bá tước Lecter bèn tìm các gia sư giỏi giang hơn cho thằng bé – vậy là sáu tuần sau đó, thầy Jakov – một học giả không xu dính túi từ Leipzig – xuất hiện” Nếu không vì chiến tranh, Hannibal của sau này, chắc hẳn đã lẫy lừng trên các mặt báo và truyền thông thời ấy vì những phát kiến vĩ đại của mình. Tuy rằng giọng văn của Thomas Harris không chất đầy sự thương cảm, nhưng bù lại, bằng cách miêu tả về chính tài năng thiên bẩm và khả năng học hỏi không ngừng ấy của Hannibal bị vùi dập bởi chiến tranh, cũng đủ để khơi dậy sự tiếc nuối trong lòng người đọc. Nhưng cái kinh khủng hơn cả, vẫn là nỗi đau tinh thần, thứ đã thật sự biến cậu thành một con quái vật. Mở đầu câu truyện, độc giả hẳn sẽ thấy xao xuyến bởi nét đáng yêu của cô bé Mischa, em gái Hannibal, cũng như cảm nhận được tình anh em gắn bó keo sơn giữa cả hai. Khi chứng kiến cái chết của cha mẹ mình và những người khác dưới sự phá hủy của bom đạn, Hannibal tự nhủ chính mình là bờ vai vững chắc những chăm sóc, đùm bọc cho cô em gái nhỏ bé của mình. Tưởng chừng chỉ phải chống chọi với cái cô độc của mùa đông, nhưng điều kinh hoàng chỉ thật sự ập đến khi những kẻ tội phạm chiến tranh, đứng đầu là Grutas, chiếm giữ và biến Mischa thành bữa ngon của chúng. Sự kiện ấy có lẽ đã đeo bám cậu cho đến mãi sau này, Hannibal vẫn luôn bắt gặp nó trong những giấc mơ, cùng câu nói đã khiến cậu ám ảnh: “Y xoay bộ mặt lấm máu về phía ban công, nhổ một sợi lông dính trong miệng ra rồi nói, “Bọn tao mà không ăn thì sẽ đi đời nhà ma.” Chúng vứt vào trong ngọn lửa album ảnh gia đình Lecter cùng các món đồ chơi bằng giấy của Mischa ,tòa lâu đài của con bé, những con búp bê giấy của nó. Đến lúc này, Hannibal đang đứng trên sàn nhà trước lò sưởi, một cách đột ngột, không hề ý thức được nó đã leo xuống cầu thang như thế nào, và sau đó chúng lại đang ở trong chuồng ngựa, mấy món quần áo nhét giữa rơm, những món quần áo trẻ em thằng bé không nhận ra và cứng quèo vì máu. Đám đàn ông túm tụm tiến lại gần, sờ mó da thịt thằng bé và Mischa. “Mang con bé này đi đi, đằng nào nó chẳng chết. Đi chơi thôi nào, đi chơi thôi nào.” Giờ chúng đang túm lấy con bé, đồng thời cất tiếng hát. “Gã nhỏ bé trong rừng, tĩnh lặng…” ” Đây chính dấu mốc quan trọng mở đầu cho con thú dữ, cho một sự trỗi dậy của tên tội phạm khét tiếng: “Hannibal Lecter”. Những tranh cãi xung quanh mối quan hệ giữa Hannibal và phu nhân Murasaki Murasaki có lẽ là một người phụ nữ sẽ để lại nhiều ấn tượng mạnh cho người đọc khi đã buông quyển sách xuống, không chỉ vì phong thái sắc sảo, thoắt ẩn thoắt hiện đầy bí ẩn của bà, mà còn vì câu chuyện tình cảm giữa bà và Hannibal được giới độc giả tranh cãi một cách rầm rộ kể từ khi quyển sách được ra mắt cho đến nay. Giới thiệu một chút về Murasaki. Khi Hannibal 13 tuổi, cậu được chuyển về cô nhi viện (nhưng thật chất trước đây nơi này chính là lâu đài Lecter, ngôi nhà mà cả gia đình Hannibal đã sinh sống). Do chính tác động tiêu cực trước cảnh tượng em gái mình bị ăn thịt, mà Hannibal trở nên tách biệt với xã hội và không thể nào giao tiếp với những đứa trẻ khác. Cậu trở thành học sinh cá biệt, là cái gai trong mắt những người xung quanh, nhất là các giáo viên trong trường. Chính vì thế, ông Robert Lecter, người em ruột của ba cậu và vợ của ông, phu nhân Seba Murasaki đã quyết định nhận nuôi cậu. Phải chăng một trang mới đã mở ra với Hannibal, khi cậu học được rất nhiều thứ từ ông: cậu học được cách cảm thụ hội họa, cảm nhận những tinh hoa từ các tác phẩm nghệ thuật. Nhưng điều đó chưa phải là hết, bên cạnh Murasaki, cậu tiếp thu thêm được những tinh hoa từ văn hóa nghệ thuật Nhật Bản, từ trà đạo, kiếm đạo cho đến những chiến tích lẫy lừng của những vị Samurai cổ xưa. “ Cánh cửa phòng áp mái ngày xưa vốn được lắp vào một chỗ khác trong ngôi nhà, một khuôn mặt được khắc lên cửa cửa, một cái mặt nạ hài kịch Hy Lạp. Phu ngân Murasaki, cầm theo cây đèn nến, dẫn đường đi sâu vào trong căn phòng áp mái rộng mênh mông, băng qua bộ sưu tập ba trăm năm tuổi những món đồ lưu kho, những rương hòm, đồ trang hoàng Giáng Sinh, đồ trang trí bãi cỏ, các món nội thất bằng liễu gai, trang phục kịch Noh và trang phục kịch Kabuki cùng một dãy con rối dùng cho các lễ hội kích cỡ như người thật treo lủng lẳng trên một thanh xà. Ánh sáng yếu ớt len qua tấm rèm chắn sáng trên cửa sổ mái nằm cách xa cửa vào. Cây nến phu nhân Murasaki đang cầm chiếu sáng một bàn thờ nhỏ một thần bằng nằm đối diện cửa sổ. Trên bàn thờ, đặt ảnh các bậc tổ tiên của cô và của Hannibal. Một đàn hạc giấy, rất nhiều hạc giấy, vây xung quanh các bức ảnh […] Khi phu nhân Murasaki kéo tấm rèm che cửa sổ mái lên, ánh sáng đầu ngày bao trùm lên Hannibal, bao trùm lên sự hiện diện tối đen bên cạnh nó, bao trùm lên bàn chân bọc thép, cây quạt chiến được nắm trong hai bàn tay đeo găng sắt, giáp che ngực và cuối cùng là chiếc mặt nạ sắt và chiếc mũ sắt có sừng của một chỉ huy samurai. Bộ giáp được đặt theo tư thế đang ngồi trên một bệ nâng. Vũ khí của vị samurai, đoản kiếm và trường kiếm, đoản đao và một cây rìu chiến, nằm trên một cái giá phía trước một bộ giáp.” “Có một cuộn giấy da nằm trên cái bệ trước bộ giáp. Cuộn giấy mở ra một đoạn vừa đủ để lộ khung hình đầu tiên, vị samurai mặc giáp trong buổi tiếp kiến tùy tùng. Trong lúc Murasaki bày biện lại thần bằng, Hannibal mở cuộn giấy ra thêm một đoạn nữa, đến khung hình tiếp theo, vị samurai mặc giáp trước một dãy những cái đầu samurai, mỗi một cái đầu kẻ thù đều được đi kèm với cái tên của kẻ đã chết, thẻ tên được gắn vào mái tóc, còn trong trường hợp kẻ này trọc đầu thì thẻ tên được gắn vào tai” Tuy nhiên điều gắn kết lớn nhất mà Hannibal tìm thấy ở phu nhân, có lẽ là sự đồng cảm: “Nếu cháu không muốn nói bằng tiếng Pháp tiếng Anh hay tiếng ý thì chúng ta có thể sử dụng một số từ tiếng Nhật, chẳng hạn như kieuseru. Nó có nghĩa là “biến mất”. Cô để một cuốn hoa xuống, ánh mắt dời khỏi những bông hoa, nhướng lên nhìn thẳng vào thằng bé. “Thế giới Hiroshima của cô đã tan biến trong chớp mắt. Thế giới của cháu cũng bị tước đoạt khỏi cháu. Giờ cháu và cô có một thế giới để chúng ta dựng xây – cùng với nhau. Trong giây phút này, trong căn phòng này.” Như những gì lịch sử ghi lại, hai quả bom nguyên từ giáng xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào năm 1945 đã để lại một chấn động trong lịch sử nhân loại bởi sự tàn phá khủng khiếp của nó: hơn 140 ngàn người chết cũng như để lại sự kinh hãi cho những người đã may mắn sống sót qua giây phút hoảng loạn ấy. Và phu nhân Murasaki cũng không nằm ngoài số đó. Mặc dù không đề cập quá rõ những mất mát bà đã từng chịu đựng, nhưng với tính cách rắn rỏi, mạnh mẽ nhưng không kém phần mềm mại của người phụ nữ người Nhật ấy, ta có thể đủ chiêm nghiệm ra những vết xước tâm hồn đủ lớn để làm nên con người của bà lúc này. Vì có mất mát mà có thấu hiểu, một nỗi đau lại gặp gỡ một nỗi đau mà điểm cắt chung của nó là sự mất mát. Tình cảm của Hannibal dành cho Murasaki và ngược lại, thật sự khó nói bởi nó không phải là tình cảm máu mủ đơn thuần, và mỗi người sẽ có một cách cảm nhận khác nhau về nó. Tuy nhiên đứng trên phương diện của mình, nó như là một lời thề sẽ bảo vệ hết mình của Hannibal dành cho bà, một sự đền đáp ơn nghĩa của trò dành cho Thầy. Ta không thể biết rõ rằng, Hannibal đã thật sự dành một tình cảm mãnh liệt cho Murasaki từ giây phút nào. Từ những bài học, từ sự tiếp xúc thường xuyên dưới danh nghĩa cô-cháu của cả hai, hay chính là từ cái chết bất đắc kỳ tử của ông Robert Lecter khi đang ra tay trả thù cho bà? Nhưng có bộc phát lúc nào đi nữa, phải chăng Murasaki đã dần trở thành lý tưởng sống của cậu, vẫn là tín hiệu cho cậu thấy mình vẫn là con người, dù cho chính Hannibal phản lại những lời khuyên khẩn thiết dành cho bà trong những lần tàn sát khốc liệt của mình sau này. Hannibal – Một kẻ giết và ăn thịt người hàng loạt Ở phần này, mình xin phép được gọi Hannibal bằng “hắn”, vì để đúng với cách Thomas gọi Hannibal trong những lần đi “săn người” trong nguyên tác của mình. Tổng số nạn nhân của Hannibal trong cả bộ truyện là 28, và tính riêng tác phẩm này là 6 người. Tuy nhiên, trong bài viết này mình chỉ sẽ đề cập đến Paul Đồ Tể, nạn nhân đầu tiên của Hannibal, và nạn nhân cuối cùng, Grutas, kẻ man rợ và hung hãn năm nào đã nhẫn tâm ra tay sát hại cô em gái Mischa đáng thương của Hannibal. Nói về Paul Đồ Tể, hay Paul Momund cũng vốn là một tội phạm chiến tranh (nhưng giờ hắn là một gã bán thịt), bị rất nhiều người miệt thị và ghét bỏ trong khu chợ. Trong một lần cùng Hannibal đi mua sắm, phu nhân Murasaki đã bị hắn ta xúc phạm với ngôn ngữ miệt thị về dân tộc và thể xác. Điều đó dấy lên nỗi căm phẫn trong lòng Hannibal và khiến cả hai bên xung đột. Nhưng chỉ đến khi ông Robert Lecter lên cơn đau tim khi đang trả thù Paul Đồ Tể và ra đi mãi mãi, thì đó mới là động cơ chính thức để Hannibal ra tay giết chết Momund. Và kinh hãi nhất, sau khi giết chết Paul, Hannibal đã biến tên đồ tể thành bữa trưa của hắn. “Giờ thanh gươm lại vung lên, vạch vào người Paul thành hình chữ X, mắt Paul trợn trừng sửng sốt và gã đồ tể cố tháo chạy, tóm lấy hai bên xương đòn, một dòng máu từ động mạch gã bắn ra xịt vào mặt Hannibal. Hai nhát chém tiếp theo rạch vào phía sau chân Paul và gã đồ tể bị cắt đứt gân kheo đổ sụm xuống, rú lên như một con bò. Paul đồ tể ngồi dựa vào cái cây bị đốn trơ gốc. Hắn không nhấc tay lên được nữa. Hannibal nhìn thẳng vào mặt gã. “Mày có muốn xem tao vẽ gì không?” Thằng bé chìa tập ra. Trên tờ giấy là hình vẽ cái đầu Paul Đồ Tể nằm trên một cái dĩa phẳng, tóc gắn nhãn tên. Cái nhãn đề Paul Momund, Thịt Ngon. Hình ảnh xung quanh rìa tầm nhìn của Paul tối dần lại. Hannibal vung gươm và trong một thoáng, mọi cảnh vật trong mắt Paul chuyển sang tư thế nằm ngang, rồi sau đó, áp sáu máu biến mất và bóng tối bao trùm” Hiển nhiên, kẻ đầu tiên mà cảnh sát đưa vào diện tình nghi chính là Hannibal, nhưng điều khiến cho người đọc vừa ngưỡng mộ, cũng vừa kinh hãi chính là việc hắn có thể đánh lừa cả máy nói dối và thoát tội một cách dễ dàng. Như đã đề cập ở trên, hắn vừa có khả năng về ngôn ngữ lẫn những môn khoa học trí tuệ, thì qua cuộc điều tra này, người ta còn tìm thấy ở con quái vật khả năng thâu tóm cảm xúc lẫn đánh lừa người khác. Điều này không chỉ được đề cập trong Hannibal Trỗi Dậy, mà trong những tập truyện trước của series này, độc giả cũng đã được dịp chiêm ngưỡng khả năng đáng sợ này của hắn ta. Tiếp theo, Vladis Grutas Nhắc đến Grutas, mình không thể nào không căm phẫn trước những chiêu trò đồi bại lẫn tàn nhẫn của hắn ta. Là kẻ cầm đầu trong băng đảng những tội phạm chiến tranh, hắn (hoặc cùng những tên đồng phạm khác), đã từng phạm vào nhiều tội danh khác nhau liên quan tới buôn lậu các tác phẩm tranh vẽ nổi tiếng, buôn người hay kinh khủng nhất: giết người. Dường như cái chết chẳng là gì đối với một con quỷ dữ như gã cả. Sau khi ra tay giết chết hàng loạt những người anh em khác của Grutas bằng những cách thức dã man khác nhau, Hannibal cuối cùng cũng đã tìm ra và kết liễu Grutas trên con thuyền buôn người của gã. “Grutas vội vã tiến về phía khẩu súng, trong lúc đó vẫn nói không ngừng: “Mày đã ăn thịt nó, nửa tỉnh nửa mê, đôi môi mày hau háu ngậm cái thìa”  Hannibal ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, hét lên, “KHÔNGÔNGÔNGÔNGÔNG!” và chạy về phía Grutas, giơ cao thanh đoản đao, đè chân lên khẩu súng rồi rạch một chữ “M” lên mặt Grutas, chạy dài suốt từ trán xuống cằm y, vừa rạch vừa gào thét, “ ‘M’ viết tắt của Mischa! ‘M’ viết tắt của Mischa! ‘M’ viết tắt của Mischa!’ Grutas giật lùi trên sàn và Hannibal rạch một chữ “M” to tướng lên người y.” Nhịp văn nhanh và gấp rút, đủ để mình thấy ớn lạnh với hình ảnh cái xác của gã ta nằm lăn lóc dưới tay của Hannibal. Quả thật cách giết người của hắn vô cùng tinh vi, khéo léo, hay nói cách khác, đầy nghệ thuật bởi những điều hắn đã học được từ hội họa và phẫu thuật học. Nhưng nếu lật lại tuổi thơ của Hannibal, nó vẫn để lại cho mình một sự tiếc nuối, khi một thiên tài đã mãi mãi nằm lại ở hố sâu địa ngục, một con quỷ dưới hình dạng con người với sự thèm khát máu thịt, mà đến mức Popil, viên cảnh sát chuyên điều tra những sự việc liên quan đến hắn phải thốt lên: “Giờ hắn là gì? Hiện tại, ta vẫn chưa tìm được cách gọi chính xác. …, chúng ta cứ gọi hắn là con quái vật đi.” Lời kết Tuy là tập cuối cùng được sản xuất trong cả vũ trụ Hannibal, thế nhưng bạn đọc có thể yên tâm tìm đọc nó đầu tiên bởi lẽ “Hannibal Trỗi Dậy” tường thuật lại những sự kiện đầu tiên của cả cuộc đời hắn ta, nhất là về nguồn gốc con quái vật luôn ngự trị trong hắn. Điều khác biệt nhất so với ba tập truyện còn lại, chính là mình nhìn thấy một Hannibal với nhiều cung bậc cảm xúc cùng nhiều mặt tính cách hơn của hắn. Từ một cậu bé lanh lợi, sang một sinh viên tài ba, cho đến một quý ông lãng mạn trong mắt Murasaki, và cuối cùng, con quái vật ăn thịt người man rợ. Mình tin rằng sẽ không hiếm độc giả sẽ cảm thấy rợn tóc gáy với những chiêu trò giết người tinh xảo của hắn, cũng như thán phục trước đầu óc của một tên thiên tài điên loạn. Vì vậy, sau khi buông quyển sách xuống, hãy dành chút ít thời gian xem thêm phiên bản điện ảnh của tác phẩm này nhé, chắc chắn sẽ không làm bạn thất vọng đâu. “Cô có nghĩ là Chúa muốn ăn thịt Isaac không, bởi vậy nên ngài mới bảo Abraham giết chết cậu ta?” Hannibal hỏi. “Không, Hannibal. Tất nhiên không phải thế. Thiên thần đã can thiệp kịp thời” “Không phải lúc nào cũng vậy,” Hannibal nói. Review chi tiết bởi: Trọng Kiên – Bookademy Mời các bạn đón đọc Hannibal Trỗi Dậy của tác giả Thomas Harris.
Mắt Quạ Tinh Tường
“Trong Mắt quạ tinh tường, Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo…cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách.” Quill & Quire *** Đây là cuốn sách đầu tiên sau khoảng 10 năm mình chưa đọc một cuốn trinh thám nào tuy từ nhỏ cuốn nào mình đọc mình cũng đều thấy thích, nhưng lại ngại mua. Tự dưng năm nay nổi hứng muốn thay đổi chút thể loại và làm 2 em trong Series này. Một cuốn sách tuyệt vời vì mình hoàn toàn 'enjoy' nó. Sherlock Holmes thì nổi tiếng quá rồi, nhưng thực ra chưa cầm cuốn sách nào của Conan Doyla cả. Nhưng đọc xong cuốn này chắc phải có kế hoạch làm một bộ thôi. Theo ý kiến cá nhân của một người ít đọc truyện trinh thám cũng như không có đầu óc nhạy bén để suy nghĩ sâu xa thủ phạm là ai hay đoán trước tình tiết, mình cứ để cho tác giả dẫn dắt. Shane Peacock thật sự lôi kéo mình, từng chi tiết nhỏ được tiết lộ, manh mối đầy đủ dần, bất ngờ tăng lên, kịch tính dâng trào và cuối cùng thủ phạm cũng bị lôi ra vành móng ngựa và Holmes cũng mất mát không ít, nhưng CÔNG LÝ được thực thi là điều cốt lõi. Song nhiều khi anh hùng không được biết đến là điều hay xảy ra trong xã hội có phần mục ruỗng. Giá như khai thác kỹ hơn về suy nghĩ hay hành động của kẻ lái xe ngựa, câu chuyện có lẽ hoàn hảo hơn. *** "Thời niên thiếu của Sherlock Holmes" là bộ tiểu thuyết đầu tiên về quãng đời trẻ con của thám tử huyền thoại Sherlock Holmes. Ra mắt lần đầu năm 2007, bộ sách của Shane Peacock ngay lập tức thu hút sự chú ý của độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới và giành được hơn 40 giải thưởng danh giá: Giải thưởng Sách của năm của Hiệp hội Thư viện Canada, Top 10 truyện bí ẩn cho thiếu nhi, Giải thưởng Arthur Ellis cho thể loại truyện hình sự thanh thiếu niên, Huy chương vàng cho sách của năm của Tạp chí Foreward... Hình ảnh một Sherlock Holmes tài ba với trí thông minh nhanh nhạy, sự quan sát tinh tế, những phán đoán logic trong tác phẩm của Arthur Conan Doyle đã làm say mê biết bao thế hệ độc giả. Tuy nhiên, chưa có tác phẩm nào cho thấy, tài năng của Sherlock Holmes bắt đầu bộc lộ từ khi nào? Hoàn cảnh gia đình, môi trường sống từ thời thơ bé có tác động tới Sherlock Holmes ra sao? Ngay cả bác sĩ Watson - người bạn thân thiết của Sherlock Holmes cũng "chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh… Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích…". Qua Thời niên thiếu của Sherlock Holmes, Shane Peacock lý giải những câu hỏi đó và giúp độc giả tiếp tục được đắm mình trong cảm giác hồi hộp gay cấn qua từng vụ án đầy kịch tính. Nhận xét về tiểu thuyết của Shane Peacock, tờ The Global and Mail cho rằng, tiểu thuyết của Shane Peacook dành cho độc giả trẻ, nhưng người lớn cũng cảm thấy thích thú với những cuộc phiêu lưu có tiết tấu nhanh, đầy kịch tính... Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes gồm có: Mắt Quạ Tinh Tường Cú Ngã Tử Thần Cô Gái Bí Ẩn Hung Thủ Giấu Mặt Con Rồng Ma Quái Trưởng Thành ... Trong "Mắt quạ tinh tường", Shane Peacock đã khéo léo tạo ra những tình tiết lí giải sự kín tiếng của ngài thám tử Sherlock Holmes khi nhắc đến gia đình mình. Ông đã thành công trong việc tạo ra một vụ án mạng gay cấn với tiết tấu hoàn hảo... cũng như gây ấn tượng với hình ảnh náo nhiệt của thành Luân Đôn thời nữ hoàng Victoria, khiến cho sự tàn bạo man rợ của khu East End hiện lên sống động qua từng trang sách... (Quili & Quire) *** Shane Peacock là một nhà văn nhà báo đa tài, ông viết nhiều thể loại như tiểu thuyết, kịch, kịch bản phim, tiểu sử. Nhân vật trong các tác phẩm của Shane Peacock đều là những người lỗi lạc, làm được những việc phi thường. *** "Suốt trong quá trình quen biết lâu dài và thân thích với Sherlock Holmes, tôi chưa bao giờ nghe anh kể về gia đình và quãng đời thơ ấu của anh... Tôi đã tưởng anh mồ côi và không còn ai thân thích..." - Bác sĩ Waston, trích trong Người thông ngôn Hi Lạp. --- Án mạng xảy ra trong đêm tối tại khu Whitechapel nằm sâu về phía đông, nơi khuất xa những ngọn đèn khí đốt trên các tuyến phố chính. Đây là chốn cư ngụ của dân Do Thái và lớp người cùng đinh. Nơi những kẻ vô danh tiểu tốt của một đô thị vĩ đại nhất địa cầu sống như bầy cầm thú. Vụ án xảy ra chỉ trong tích tắc, như một nhát đâm của sự tàn nhẫn, bất công và bạo tàn. Nhiều giờ sau, tại khu Southwark phía nam dòng sông Thames, trong căn hộ xập xệ nằm trên cửa hiệu tồi tàn, một cậu bé miễn cưỡng thức dậy đón ngày mới. Sự công bằng không hiện diện ở nơi này. Nhưng hôm nay sẽ là ngày có tính quyết định đối với cậu bé, với vụ sát nhân và rất nhiều vụ án sau này. Không một ai chứng kiến một vụ án mạng tại Whitechapel. Nhưng trong màn đêm mịt mùng, những đôi mắt đen đã nhìn thấu tỏ. Và sáng hôm nay... một bậc thầy đã thức dậy. Mặt trời xuất hiện, rọi những tia nắng xuyên qua màn sương mù vàng vọt đang dần tan, chiếu lên đám người tuyền một màu nâu, lùm xùm nào mũ nón, nào quần áo cùng giày ủng đang rùng rùng di chuyển qua những chiếc cầu và dọc theo các con phố lát đá. Tiếng móng ngựa khua lọc cọc trên mặt đường hoà cùng tiếng rầm rập của các bánh xe sắt, tiếng chuyện trò râm ran và lời rao của những người bán hàng rong. Mùi ngựa trộn lẫn với mùi rác rưởi, than đá và khí đốt lan toả trong không khí. Phần đông mọi người đều tất tả đi đến một nơi nào đó trong buổi cuối xuân năm 1867 ấy. Giữa đoàn người đang từ bên mạn nam vượt qua dòng sông bẩn thỉu trên cây cầu đá, có một cậu bé cao gầy, da dẻ tái nhợt tựa như sắc giấy trên rìa các trang Thời báo Luân Đôn. Cậu mười ba tuổi, và lẽ ra đang ngồi học ở trường. Từ xa, trông cậu thật bảnh bao trong chiếc áo choàng màu đen dài, cà vạt, áo chẽn và đôi ủng đánh bóng. Nhìn gần, cậu có vẻ xơ xác và buồn bã, nhưng từ đôi mắt màu khói của cậu toát ra nét tinh anh. Tên cậu là Sherlock Holmes. Trong vô vàn tội ác ở Luân Đôn này, tội ác đêm qua tại Whitechapel có lẽ là vụ man rợ nhất. Nó sẽ làm thay đổi cuộc đời cậu. Một lát nữa đây nó sẽ đập vào mắt cậu. Và mấy ngày tiếp theo nó sẽ hút lấy cậu. Sherlock đến với những con phố nhộn nhịp và ồn ã này để tạm lánh các vấn đề của mình và tìm nguồn hứng khởi. Cậu quan sát những con người tiếng tăm giàu có để tìm hiểu xem điều gì khiến họ thành công và được trọng vọng như vậy. Vốn rất thính nhạy trước những sự kiện gay cấn và bức xúc, cậu luôn tìm chúng trên những tuyến phố chính ồn ã náo nhiệt này. Ngày nào cậu cũng ra đây theo cùng một lối. Đầu tiên cậu rời căn hộ trên gác của một hiệu nón cũ kĩ tại khu Southwark bẩn thỉu và đi về phía nam theo hướng trường học. Nhưng ngay khi khuất tầm mắt, cậu liền rẽ sang hướng tây rồi lỉnh lên phía bắc, cùng với đám đông băng qua sông trên cầu Blackfriars để đến với khu trung tâm tráng lệ của thành phố. Các cư dân của Luân Đôn lướt qua cậu như những đợt sóng. Mỗi người đều có câu chuyện riêng của mình khiến cậu say mê. Sherlock Holmes là một cỗ máy quan sát. Sinh ra cậu đã như vậy. Chỉ trong chớp mắt cậu đã có thể khắc hoạ chân dung của một người nào đó. Cậu có thể nói ngay lí lịch của người này hoặc nghề nghiệp của người khác. Nhờ năng lực đó nên cậu khá nổi tiếng tại khu phố nhỏ của mình. Nếu có đồ vật gì bị thất lạc - một chiếc ủng, một cái tạp dề hay một khoanh bánh mì nóng giòn - cậu có thể nhìn các khuôn mặt, xem xét những chiếc quần, và khám phá các manh mối để chỉ ra thủ phạm, dù lớn hay nhỏ. Người đàn ông đang bước về phía cậu từng ở trong quân ngũ, có thể nhận ra điều đó nhờ bộ ria của ông ta. Ông ta đã từng dùng ngón trỏ tay phải chai sần ấy để bóp cò súng trường. Ông đi lính bên Ấn Độ - cậu từng thấy trong sách một biểu tượng của Ấn giáo giống như hình trang trí nằm trên chiếc măng séc bên trái kia. Cậu đi tiếp. Một phụ nữ đầu đội mũ vải sùm sụp đi lướt qua, tấm khăn quấn trên vai cô ta chạm nhẹ vào cậu. - Đi đứng cái kiểu gì đâu! - Cô ta lườm cậu, làu bàu. "Người này thực ra cũng dễ đoán thôi, Sherlock Holmes thầm nghĩ. Chị ta mới vừa bị thất tình. Nhìn cặp mắt thâm quầng, giọng nói cau có và thanh sôcôla giấu trong tay chị ta thì biết. Chắc chị ta quãng ba mươi tuổi. Trông có vẻ đang béo ra. Chị ta sống tại vùng ngoại ô Sussex, nơi duy nhất có loại đất sét nâu dính trên mũi đôi ủng đen kia." Sherlock Holmes luôn cảm thấy muốn biết hết mọi thứ. Cậu cần nhiều hơn những thứ ít ỏi mà cuộc sống đã mang lại cho mình. Một thầy giáo trong trường từng khen cậu giỏi giang. Cậu không coi chuyện đó là ghê gớm. "Giỏi về cái gì chứ?" Cậu tự nhủ. "Về việc sống nhầm chỗ và nhầm thời điểm à?" Tại phố Fleet, cậu thò tay vào trong một cái thùng rác bằng gang, lôi ra một nắm báo. Thời báo... nhét trở lại. Tin điện hàng ngày... nhét trở lại. Cảnh sát nhật báo... à, đây rồi. Rốt cuộc cũng có một tờ hoạ báo! Mọi cảm xúc mà Luân Đôn có thể tạo ra đều được thổi sức sống vào nhờ những bức vẽ trắng đen kích thước lớn. Cậu đọc toàn những loại báo tường thuật các chuyện gây xôn xao dư luận. Và tờ báo này, cùng với một câu chuyện hấp dẫn, đầy máu me bạo lực và bất công, sẽ chỉ ra định mệnh của cậu. Cậu giấu nó vào trong áo khoác. Tại quảng trường Trafalgar, Sherlock Holmes ngước mắt lên tìm kiếm lũ quạ. Thường thì chúng đậu thành hàng trên nóc khách sạn Morley. Nằm gần toà Northumberland House lộng lẫy, bên mạn đông nam của quảng trường, khách sạn Morley được lũ quạ chọn để tách xa khỏi những con bồ câu béo ú và đám đông gần đài phun nước. Cảnh tượng khiến cậu mỉm cười: Một trong những khách sạn sang trọng bậc nhất Luân Đôn, cùng với hàng quạ đậu trên nóc. Đó là loài chim Sherlock Holmes ưa thích. Cậu len lỏi giữa dòng người lưu thông trên đường, băng qua quảng trường tới các bậc thềm đá trước cửa nhà Triển lãm Nghệ thuật Quốc gia. Những con quạ cũng di chuyển. Đôi khi cậu nghĩ lũ chim đi theo mình. Một đôi quạ sà xuống và đậu bên cạnh cậu bé. - Chào hai cậu. Để xem tin tức hôm nay có gì nào. Cậu giở báo ra. Cái tít trên trang nhất đập thẳng vào mắt cậu. ÁN MẠNG! Bên dưới dòng tiêu đề là bức tranh minh hoạ ghê rợn tái hiện cảnh một người phụ nữ trẻ nằm trên một con phố của Luân Đôn, thân mình ngập trong vũng máu. Hai con quạ kêu toáng lên và bay đi mất. Sherlock đọc tiếp. Án mạng xảy ra ở giữa đêm khuya, tại phía đông của khu phố cổ. Không ai chứng kiến hay nghe thấy gì, dù chỉ là một tiếng hét. Hung khí la một con dao dài và sắc. Sherlock lật sang trang sau. Cậu đọc ngấu nghiến: một phụ nữ chưa rõ địa vị xã hội, không có cái tên nào được nhắc đến, không có kẻ thù nào được biết tới. Cậu nhận thấy cô ta trông giống mẹ mình. Cậu bé nghe thấy tiếng người qua đường xầm xì: - Con bé tội nghiệp. - Chắc hẳn là dân lề đường xó chợ, một đứa ngoại lai. - Lại cái thằng nhóc dễ sợ ngồi đó. Chỉ ước gì nó biến đi. - Mấy con chim lúc nãy là quạ à? Điềm gở đấy. - Bọn lưu manh. Một lũ du thủ du thực. Kìa, chúng đến đấy. Để tôi gọi cảnh sát. Cậu bé liếc mắt nhìn lên. Đó là nhóm bụi đời quảng trường Trafalgar. Cậu gần như có thể đánh hơi thấy bọn chúng. - Sherlock Holmes công tử, nếu tao không nhầm! Một thằng bé tóc đen mặt du côn lên tiếng. Cùng với nó là một nhóm trẻ bẩn thỉu, những bản sao thu nhỏ của thằng đầu đảng. Thằng bé mặc một chiếc áo choàng dài màu đen cũ mèm. Một cái mũ chóp cao sẫm màu vắt vẻo trên đầu nó. Còn trong tay nó là một chiếc gậy chống thô sơ. - Tao nghĩ mày đang chiếm chỗ của bọn tao đấy. Bọn trẻ chưa bao giờ ngồi ở đây. Hôm nay cũng sẽ như thế. - Giáo chủ thân mến của tôi... - Holmes đáp, vẫy tay chào nhóm Bụi đời -...cùng những người bạn. - Ít ra tao cũng có vài đứa bạn. - Ờ. - Biến mau! Nếu không chúng tao lại đập cho bây giờ. - Đồ con nai Do Thái! (Với những chữ n in nghiêng thì bạn hãy đọc thành l, còn chữ l in nghiêng thì ngược lại nhé. FEEN WATTPAD) Một thằng bé khó chịu tên Grimsby quát to. Holmes luôn ngán ngại thằng này. Hàm răng vàng ệch nhọn hoắt như răng chồn của nó trông cứ như sắp cắn người ta đến nơi. Sherlock đứng dậy, vuốt phẳng lại bộ quần áo cũ mèm. Cậu ghét thằng Giáo chủ, nhưng đồng thời cũng ngưỡng mộ nó. - Thấy cái này chưa? - Cậu hỏi, tay giơ tờ Cảnh sát nhật báo. - Đâm nủng bụng kìa, ghê chưa! Nàm khéo thật! - Grimsby thốt lên. Bọn trẻ cười rúc rích. - Vui gì mà cười! - Giáo chủ nạt cả bọn - Chuyện này không hay ho gì đâu. - Chuyện là thế nào? - Holmes hỏi, cậu thừa biết là thằng bé du đãng và băng nhóm của nó tường tận mọi tin đồn lan truyền trong các ngóc ngách của Luân Đôn. - Chỉ có dân đường phố biết... và biết với nhau thôi. - Giáo chủ nói - Tao không ưa cái... - Biết mà! - Sherlock thở dài. - Tôi biết... mấy người không ưa gì cái bản mặt của tôi. Có một chút tương đồng giữa hai cậu bé, mặc dù thằng thủ lĩnh nhóm Bụi đời lớn hơn một chút và nói giọng hơi pha âm sắc Ái Nhĩ Lan. Sự giống nhau ấy còn hơn bề ngoài u ám của hai đứa. Nó nằm trong cung cách bộc lộ bản thân và sự chỉn chu trong những bộ trang phục cũ sờn. Cả hai đều ý thức được điều đó, nhưng Giáo chủ không ưa gì chuyện này. - Mày sẽ không bao giờ là bụi đời được, Sherlock Holmes ạ. - Có chứ, tôi đang bụi đời lắm đây này. Một tay cảnh sát đang đi đến, cực kì bảnh choẹ với cái mũ cối trên đầu và chiếc áo khoác màu xanh dương có hàng khuy sáng bóng đều tăm tắp. Trong tay anh ta có một chiếc dùi cui. Viên cảnh sát canh chừng những cỗ xe đang chạy trên đường, tìm cơ hội tiến lại gần bọn trẻ. - Chuồn thôi! Giáo chủ rít lên, và bọn trẻ nhanh chóng biến đi. *-FEEN-* Đã năm giờ chiều, Sherlock vẫn còn muốn ở ngoài quảng trường, chưa chịu về nhà. Sao lại phải quay về với căn nhà buồn bã, chán chường, về với bố mẹ cậu chứ? Thà cứ ở ngoài này còn hơn. Ở đây cậu được ở gần với sự gay cấn và thành công. Tại đây cậu đã chứng kiến rất nhiều điều đáng kinh ngạc và đầy mê hoặc. Một lần cậu đã nhìn thấy chính Lewis Carroll đang cầm quyển Alice ở xứ sở thần tiên trong tay; một lần khác, nhà chính trị vĩ đại nhất nước, Disraeli, lặng lẽ rảo bước qua quảng trường; rồi người phụ nữ khổng lồ Anna Swan, với cái đầu vượt lên trên đám đông, ngôi sao đu dây Blondin, và ngài Dickens độc nhất vô nhị với chòm râu dê lốm đốm bạc và cặp mắt rực lửa. Cậu đã tận mắt thấy quảng trường chật cứng những người đối lập kêu gọi chính phủ sửa đổi đường lối, rồi có lúc lại đông nghẹt các công dân hô vang những thành tích của Đế chế. Cậu đã thấy những người cạo ống khối với bộ mặt đen nhẻm, những gã ăn mày gớm ghiếc, và cả những tên móc túi nữa. Tại sao phải về nhà kia chứ? Nhưng cậu vẫn phải về nhà. Khi tháp đồng hồ Big Ben tại toà nhà Quốc hội điểm năm giờ chiều, Sherlock Holmes phải chạy nhanh để về đến nhà trước bố mẹ, như thế họ sẽ tưởng cậu đã ở trường. Từ nhiều tháng nay cậu đã lừa dối hai người. Trong thâm tâm, cậu biết bố mẹ đang nghi ngờ mình ghê lắm. Chuyện này không thể tiếp diễn mãi được. Nếu cậu không đi học thì cậu sẽ phải đi lao động. Gia đình cần sự đóng góp của cậu. Cậu sẽ phải chấp nhận số phận của mình giữa những tầng lớp lao động nghèo khó của Luân Đôn. Mây đen đang kéo đến. Sherlock nhận ra tim mình đang đập dồn. Nó đã đập như thế kể từ lúc cậu mở tờ Cảnh sát nhật báo. Có thứ gì đó đang thiêu đốt tâm can cậu. Cậu nhìn xuống tờ báo, vo tròn nó, siết chặt hai chữ án mạng trong nắm tay của mình. Mời các bạn đón đọc Thời Niên Thiếu Của Sherlock Holmes Tập 1: Mắt Quạ Tinh Tường của tác giả Shane Peacock.