Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Âm Phù Kinh - Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ

Tựa

Âm Phù Kinh là một quyển sách rất nhỏ của Đạo Lão, tương truyền là do Hoàng Đế (2697-2597) viết. Nhưng có nhiều học giả không công nhận như vậy. Trình Chính Thúc (Trình Di, Trình Y Xuyên, 1033-1107) cho rằng sách này được viết vào thời Ân (1766-1154) hay thời Chu (1122-255). Chu Hi (Chu Nguyên Hối, 1130-1200) cho rằng Lý Thuyên, một đạo sĩ đời vua Đường Huyền Tông (713-755) đã ngụy tạo ra. Chu Hi soạn Âm Phù khảo dị. Thiệu Khang Tiết (1011-1077) cho rằng Âm Phù Kinh được viết ra vào đời Chiến Quốc. Đạo tạng có bộ Âm Phù Kinh tập chú do 7 người chú: Y Doãn, Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc Tử, Chư Cát Lượng, Trương Lương, Lý Thuyên. Trương Quả Lão (một vị trong Bát Tiên đời Đường) cũng có viết Âm Phù Kinh và có dẫn Y Doãn, Thái Công, Chư Cát Lượng, Lý Thuyên. Lại có bản do 11 người chú: Thái Công, Phạm Lãi, Quỉ Cốc, Trương Lương, Chư Cát Lượng, Lý Thuần Phong, Lý Thuyên, Lý Hiệp, Lý Giám, Lý Duyệt, Dương Thịnh. - Thạch Đại Dương Nhân Sơn, một người rất giỏi về Đạo Phật, chú Âm Phù theo Phật. - Lý Gia Du giỏi Dịch giảng Âm Phù theo Dịch. - Đơn Chân Nhân, Khấu Trương, Trương Quả Lão, Lý Thuyên là các Đạo Gia nên bình Âm Phù theo Lão. Trịnh Tiều Nghệ Văn cho biết trước sau có 38 bộ Âm Phù Kinh biên soạn thành 51 quyển. Như vậy mỗi người chú Âm Phù một cách. Binh gia giải theo Binh Gia, Đạo Gia giải theo Đạo Gia, Phật Gia giải theo Phật Gia. Nhưng Âm Phù Kinh vẫn là Âm Phù Kinh. (Xem Vô Tích Hoàng Nguyên Bính tiên thích, Âm Phù Kinh Chân Thuyên, Tựa) Tại sao một quyển sách chỉ vẻn vẹn có ba bốn trăm chữ mà được nhiều học giả mê thích như vậy? Thưa vì nó đưa ra một học thuyết quá hay: Đó là hãy bắt trước Trời mà hành sự thì muôn việc đều hay. (Quan Thiên chi Đạo, chấp Thiên chi hành tận hĩ. 觀 天 之 道 執 天 之 行. 盡 矣.) Trung Hoa Đạo giáo Đại Từ Điển viết: «Thánh Nhân quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, chưởng ốc Thiên Nhân ám hợp chi cơ, xử hành vi hợp hồ Thiên Đạo, bất vi tự nhiên, tắc trị quốc dưỡng sinh các đắc kỳ nghi...» «Thánh nhân xem Trời, bắt chước Trời hành sự, nếu việc Trời việc người ăn khớp với nhau, làm gì cũng hợp đạo Trời, không làm gì sai trái với tự nhiên, thì trị nước hay tu thân đều tốt đẹp.» (Hoàng Đế Âm Phù Kinh, tr. 332, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, Hồ Hoài Sâm.) Xưa nay chỉ có ăn ở theo đúng cơ Trời, thời Trời, là hay, là tốt mà ít ai nhận thấy. Chúng ta thấy ngày có mặt trời, đêm có mặt trăng. Mà mặt trời thời hằng cửu, bất biến, mặt trăng thì tròn khuyết biến thiên. Mặt trời là Thái Cực, mặt trăng là Âm Dương. Trăng có tròn có khuyết, con người có khi tốt có khi xấu, nhưng lúc chung cuộc phải tiến tới viên mãn như trăng ngày rằm, như mặt trời chính Ngọ. Chu kỳ mặt trăng gồm đủ 64 quẻ Dịch mà chúng ta không thấy. Mỗi chớp mắt, mở mắt của chúng ta, mỗi một ngày một đêm, mỗi một tháng, mỗi một năm cũng gồm đủ 64 quẻ Dịch. Như vậy rõ ràng là Trời muốn chúng ta sống theo đúng tự nhiên, thì mọi sự sẽ chu toàn. Ngay quẻ Kiền đã dạy chúng ta phải bắt chước Trời mà hành sự. Đại Tượng quẻ Kiền viết: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức 天 行 健. 君 子 以 自 強 不 息: Trời cao mạnh mẽ xoay vần, Nên người quân tử quyết tâm tự cường. (Không hề ngưng nghỉ triển dương) Câu thứ 4 của Âm Phù Kinh cũng hết sức hay: Thiên Tính Nhân Dã, Nhân Tâm cơ dã. Lập Thiên chi Đạo dĩ định nhân dã. (天 性 人 也, 人 心 機 也. 立 天 之 道 以 定 人 也.) Thiên Tính là người. Nhân Tâm là máy. Lập ra Đạo Trời để xác định (xem) con người (tiến bộ đến đâu.) Đọc Âm Phù Kinh, tôi mới thấy rõ, Con người chính là Trời (Thiên Tính Nhân dã), còn Con người chỉ là Cái máy. Lập ra đạo Trời, cho thấy đâu là Đạo Người rốt ráo. Đạo Con Người thật ra là đạo tự nhiên bất biến. Con người sinh ra không phải là để khổ đau, mà chính là để luôn luôn sung sướng. Con người sinh ra cốt là để nhìn thấy trong mình, ngoài mình, đâu đâu cũng là Chân Thiện Mỹ. Con người hiện chưa được vậy, là vì quá ích kỷ và con u mê dốt nát mà thôi. Gần cuối sách, Âm Phù Kinh lại dạy bài học thứ ba: Thị cố quân tử tri tự nhiên chi Đạo bất khả vi, nhân nhi chế chi. (是 故 君 知 自 然 之 道 不 可 違, 因 而 制 之.) Cho nên người quân tử không thể đi sai Đạo tự nhiên. Chỉ có thể nhân đó biến chế mà thôi. Xưa nay, người ta thường chống đối với tự nhiên, thích chinh phục thiên nhiên. (Going against Nature, conquering Nature). Nhưng cũng có người cho rằng cần phải tìm hiểu Tự Nhiên, Hiểu Tự Nhiên là Cứu Rỗi mình (Knowledge of Nature, as a way of Salvation), và chủ trương Theo Thiên Nhiên (Following the way of Nature). Cũng có người chủ trương theo tự nhiên là chết, đi ngược tự nhiên mới được trường sinh. (Thuận tắc tử, nghịch tắc Tiên). Biến chế Tự Nhiên Âu Châu dịch là Manipulation of Nature. (Xem Science and Civilisation in China, Vol. V, Joseph Needham, Index, nơi chữ Nature, tr. 541) Tôi tuyệt đối chủ trương ta không thể sống ngược với Thiên Nhiên được, nhưng phải nương theo Thiên Nhiên mà sống. Nếu dạy người đi ngược chiều hướng này là làm hại người mà thôi. Cho nên tôi hoàn toàn chấp nhận lời trên của Âm Phù Kinh. Câu Thuận vi Phàm, Nghịch vi Tiên trong các sách luyện đơn là cốt dạy con người đi sâu vào phía Tâm Linh, chứ đừng để Tâm Thần phát tán ra ngoại cảnh, nhất là khi về già. Nghịch đây không phải là đi ngược Thiên Nhiên. * Chiều đi từ quẻ Phục cho tới quẻ Kiền thường được gọi là Chiều Nghịch. Chiều đi từ quẻ Cấu cho tới quẻ Khôn là chiều Thuận. Thuận là Thuận của phàm nhân; Nghịch là Thuận của Thánh Tiên. Âm Phù Kinh chủ trương: Bắt chước Trời mà hành sự, theo đúng cơ trời mà biến hóa, như vậy để cầu trường sinh. hay làm cho nước giàu dân mạnh, hay làm cho binh cường tướng mạnh để chiến thắng, tất cả đều là một nguyên tắc. (Quan Thiên chi đạo, chấp cơ đạt biến, dĩ cầu trường sinh, phú quốc an dân, cường binh chiến thắng.) (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh là: «Thánh Nhân Thể Thiên dụng Đạo chi cơ.» (Âm Phù Kinh là sách Thánh Nhân thay Trời dạy huyền cơ Đạo Lý.) Thánh Nhân dụng tâm hết sức thâm trầm, thấy được Thiên Tính Bản Nhiên của mình, rồi theo đúng cơ vi, sống hợp nhất với lẽ Tự Nhiên. Nhìn vào lòng mình, theo đúng cơ vi Trời Đất, hiểu thế là hiểu rõ Âm Phù Kinh. «Thánh Nhân dụng tâm Thâm vi, tắc năng chiếu kiến tự nhiên chi tính; chấp cơ biến thông tắc năng khế hợp tự nhiên chi Lý. Chiếu chi dĩ tâm, khế chi dĩ cơ, nhi âm phù chi nghĩa tận hĩ.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Thần Trời Đất với Thần trong ta là Một, nên khi hoạt động thời in như thần, khi tĩnh lặng thì có đủ Thần trong mình, mình và Thái Không là Một, mình với vạn hữu là bạn, Thể Tính của mình và Thể Tính của trời đất không có gì khác biệt, thế gọi là Đắc Đạo. «Thiên Địa chi thần dữ Ngô chi thần đồng vu nhất thể, cố động dữ Thần khế, tĩnh dữ Thần cụ, dữ Thái Không vi nhân, dữ tạo vật giả vi hữu, Thể Tính vô thù, thị vị Đắc Đạo.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 332) Âm Phù Kinh dạy ta lẽ Thiên Đạo và Nhân Tâm ám hợp với nhau, và muốn ta sống đúng theo Trời. «Thiên Đạo Nhân Tâm ám hợp chi lý, dục nhân năng thuận Thiên nhi động.» (Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 333) Âm Phù Kinh xưa nay chỉ có hơn 300 chữ hay hơn 400 chữ. (SĐD, tr.333) Cộng thêm học thuyết Lão là Thanh Tĩnh tự nhiên, thanh tâm quả dục, pha phách thêm Dịch Truyện là thành Thuyết Thiên Đạo, Nhân sự Khế Hợp. (SĐD, tr.333) Âm Phù Kinh cho rằng Thiên Đạo và Nhân Đạo khế hợp với nhau. Và giải Âm là Âm, Phù là Phù Hợp. (SĐD, tr. 333) Âm Phù Kinh đề cao thuyết của Nho Gia là Tồn Thiên Lý, khử Nhân Dục, Tu Tâm, Thành Tính. (SĐD, tr. 334) «Vạn vật hữu hình viết Âm, Vạn Vật giai hữu Tính Mệnh viết Phù, vạn vật giai hữu Tự Nhiên chi Đạo viết Kinh.» Lại nói: «Âm Phù nhị tự, Thân Tâm dã, Tính Tình dã, Thủy Hoả dã, Thần Khí dã, Diên Hống dã, Long Hổ dã, động tĩnh dã, nãi tu đơn chi căn bản, dưỡng đạo chi uyên nguyên.» (SĐD, tr. 334) Tôi dịch Âm Phù Kinh vì thấy một quyển sách nhỏ bé như vậy mà sao lại có nhiều danh nhân bình giải như thế.

Tôi thấy những người như Lý Thuyên đời vua Đường Huyền Tông, ưa thích Đạo từ nhỏ, mới đầu Ông có được quyển Hoàng Đế Âm Phù Kinh, Ông đọc cả ngàn lần mà vẫn không hiểu được thâm ý. Theo truyền thuyết thì Ông đã tới Ly Sơn và đã được một bà cụ dạy cho huyền nghĩa Âm Phù, Ông mới hiểu ý nghĩa Âm Phù. Sau đó Ông viết: Hoàng Đế Âm Phù Kinh Sớ, 3 quyển, Thái Bạch Âm Kinh, 10 quyển, Ly Sơn Lão Mẫu truyền Âm Phù huyền nghĩa, 1 quyển. Ông làm quan giữ chức Giang Lăng Tiết Độ Sứ phó Ngự Sử Trung Thừa. Ông là người có mưu lược, sau đó vào danh sơn qui ẩn, phục khí, tịch cốc, thanh tâm tu đạo, không rõ chết ra sao. Ông còn viết thêm ít sách khác. (Xem Du Tấn, Trung Hoa Đạo Giáo Đại Từ Điển, tr. 97) 

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Phong Thuỷ Sân Vườn
Phong Thuỷ Sân VườnMột sân vườn đẹp theo phong thủy là một nơi thanh bình, yên tĩnh và sinh thái trong lành. Có như vậy mới thu hút được tiền và cải thiện sức khỏe. Người Trung Quốc cho rằng vị trí khu vườn, nội thất sân vườn, cây xanh, vật liệu và đồ trang trí sân vườn, nên được thiết kế dựa trên mô hình của âm và dương và dòng chảy của năng lượng, để tạo ra hiệu ứng tích cực.
Thiên Thời Địa Lợi Nhân Hòa
Thiên Thời Địa Lợi Nhân HòaPhương thuật Trung Quốc bắt nguồn từ tầng thứ cao nhất của triết học cổ đại, song nó lại diễn ra dưới hình thức tín ngưỡng dân gian phổ biến nhất. Hàng mấy ngàn năm nay, những phương thuật này được vận dụng vào các lĩnh vực chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn nghệ, v.v… chứa đầy màu sắc thần bí, huyễn hoặc mà từ trước đến nay đã tạo nên những ảnh hưởng cực kì quan trọng đối với sinh hoạt xã hội, sự hình thành trạng thái tâm linh văn hóa của người Trung Quốc.Thiên Thời – Địa Lợi – Nhân Hòa gồm có 3 phần:• Phần I: “Thiên thời”, giới thiệu các phương pháp làm thế nào để nhận thức quy luật phát triển xã hội, đặc điểm biến đổi của thời đại và dành được cơ may của đời người như: chiêm tinh thuật, sấm vĩ thuật, chiêm bốc thuật, đoán mệnh thuật, quái ảnh thuật, tướng diện thuật, viên mộng thuật v.v…• Phần II: “Địa lợi”, giới thiệu các phương pháp làm thế nào để nhận thức và lợi dụng hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh tự nhiên như: Kì môn thuật để lựa chọn phương hướng tốt nhất, Thông thiên thuật dự đoán khí tượng, Quan nhân thuật thông qua tính khu vực phán đoán khí phách con người và Phong thủy thuật lợi dụng ưu thế địa lí.• Phần III: “Nhân hòa”, giới thiệu phương pháp làm thế nào để nhận biết người và dùng người. Căn cứ kết quả nghiên cứu trong nhiều năm, tác giả đã sáng tạo ra một mô thức khoa học hành vi độc đáo: mô thức nhu cầu ngũ hành. Tác giả đã kết hợp một cách hữu cơ thuyết nhu cầu tâm lí của Maslow có ảnh hưởng nhất ở phương Tây với thuyết âm dương ngũ hành cổ đại của Trung Quốc, tổng kết thành phương pháp dùng người, hễ thực hiện là có hiệu quả rõ rệt.* Nội dung sách phổ thông dễ hiểu, dễ học, dễ sử dụng nhằm giúp bạn đọc trong chừng mực nhất định tìm hiểu được phần nào phương thuật Trung Quốc.
Bói Quẻ Bài Thần
Bói Quẻ Bài ThầnXem Mỗi ngày, hàng tuần, 12 tháng, 4 mùa, một năm. Xem về tình duyên, gia đạo, tiền tài công danh, địa vị, học hành, thi cử, tai nạn, ngày kị, ngày tốt… Trong bộ bài tây (bài cào, bài xì) gồm có 52 lá, nhưng nếu đem áp dụng khoa bói toán thì thông thường người ta chỉ dùng 32 lá kể từ lá bài xì trở xuống lá bài 7. Thực ra thì xem bài có nhiều cách và một nhà bói chuyên môn có thể xem luôn cả quẻ bài 32 lá hoặc 52 lá, có khi chỉ một lá dùng đã thành quẻ bói toán. Vậy thì không nhất thiết là bao nhiêu lá nữa phải tùy theo quẻ bài chuyên môn của mỗi ông thầy định quẻ. Có nhiều người ít tin và thường lấy làm lạ liền hỏi rằng: “Có lý nào một bộ bài dùng để cờ bạc ăn thua lại có thể đem áp dụng vào khoa bói toán? Nhưng nhờ lòng tin vô hạn của con người mà giữa con người và vạn vận đã tạo nên mối liên hệ rất mãnh liệt và màu nhiệm. Chúng ta cùng nhau phá những nhiệm màu này trong cuốn sách Bói Quẻ Bài Thần – Huỳnh Liên Tử.
Tiếng Nói Của Bàn Tay
Tiếng Nói Của Bàn TayBàn tay có nhiều đường nét, dấu, vết, màu sắc, hình thù và đặc điểm với những tên gọi khác nhau. Mỗi chi tiết ở trong lòng bàn tay hoặc trên mu bàn tay đều có tên gọi riêng đồng thời cũng mang ý nghĩa riêng. Mỗi ngón tay, mỗi đốt của từng ngón tay lại chứa đựng một nội dung khác nhau. Ở tùy từng loại bàn tay và loại người tốt xấu khác nhau mà người xem bàn tay – với kinh nghiệm của bản thân – sẽ phán đoán và giải đáp khác nhau.Nghiên cứu tỉ mỉ khoa xem bàn tay, ta có thể biết ngay những ưu, khuyết điểm cơ bản của một người từ lúc mới gặp họ, bằng cách chỉ nhìn đôi bàn tay của họ đang hoạt động mà chưa cần tới việc cầm bàn tay của họ để nghiên cứu tỉ mỉ: như vậy rất có lợi cho mọi quan hệ giao tiếp hàng ngày. Đọc kỹ, nghiên cứu kỹ, cuốn sách này sẽ chứng minh rõ điều đó.Bàn tay có tiếng nói riêng của nó. Nghiên cứu khoa xem bàn tay giúp bạn có thể hiểu, biết và khám phá ra chính mình. Hiểu biết và khám phá ra cái tốt, cái xấu của người khác, phát hiện bệnh tật sẽ xảy ra, báo trước cho người được xem biết phần nào tương lai của họ…Những điều giới thiệu trong sách này được đúc kết qua kinh nghiệm thực tế từ bao đời nay, tuy còn nhiều khiếm khuyết nhưng hy vọng sẽ đem lại cho bạn nhiều điều thú vị.TS. Nguyễn Đình Phúc cho rằng “Bàn tay có tiếng nói riêng. Người say mê nghiên cứu, học tập mới đọc được tiếng nói đó. Không đọc bằng một động cơ tốt, một tinh thần trách nhiệm cao, dễ đọc sai lạc, thậm chí còn xuyên tạc tiếng nói đó nữa. Xem bàn tay có mục đích chân chính là giúp ích cho mọi người. Người không có trí nhớ tốt, không có óc nhận xét bao quát và phán đoán nhanh nhậy, không nên học xem bàn tay”.Với ông khoa xem bàn tay thực sự là một nghệ thuật – một khoa học chính xác. Nó giúp con người có thể hiểu, biết và khám phá ra chính mình, biết được cái xấu, cái tốt của người khác để từ đó quan hệ, kết bạn, dùng người khỏi lầm lẫn; phát hiện được khả năng riêng biệt của lớp trẻ để hướng họ đi vào ngành nghề nào có thể phát triển tài năng; phát hiện bệnh tật sẽ xẩy ra, đang xẩy ra và góp phần cùng bác sĩ chuẩn đoán bệnh cho bệnh nhân……Bàn tay người ta có nhiều dáng vẻ khác nhau. Mỗi dáng vẻ nói lên một tính cách cơ bản về người có bàn tay đó. Ta chẳng cần thắc mắc là có nhiều loại bàn tay với nhiều điều tốt nhưng cũng có không ít điều xấu? Đó là biểu hiện thực tế trong mỗi con người, không có gì là mâu thuẫn nhau cả.Bàn tay cân đối so với bộ phận khác của thân người và trông đẹp mắt là của người tốt, hoàn hảo về nhiều mặt.Bàn tay xấu xí với những ngón tay vặn vẹo, kỳ quặc nhiều ít là của người lạ lùng, với nhiều điểm khác người.Bàn tay quá ngắn so với thân người: có nhiều biểu hiện xấu.Bàn tay quá dài: nhanh nhẹn, tháo vát, tham lam, mưu mẹo, quá tỉ mẩn, gàn dở.Bàn tay dài, hẹp và gầy guộc: ích kỷ, độc đoán, chuyên quyền, bạo ngược, khó cùng chung sống.Bàn tay rất hẹp, có gò Kim Tinh co lại: làm lộ ra chủ nghĩa thực chứng.Đàn bà có bàn tay hẹp: đẻ rất khó.Bàn tay dài, khô, xương xẩu: khô khan, thận trọng.Bàn tay ngắn và mỏng: có khuynh hướng đồi bại, thích tiền bạc, có thể hà tiện, lắm tiền…Mục Lục :Lời nhà xuất bảnMột số chi tiết trong bàn tay với tên gọi cụ thể cần làm quen trướcLời nói đầuA. Khoa xem bàn tayB. Bàn tay nói gì về bệnh tật ?C. Cái chết thể hiện trên bàn tayD. Tiếng nói bàn tay của một số ngườiĐ. Bảng tra cứu cần thiết cho người xem bàn tayE. Kinh nghiệm xem bàn tay