Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay (Bùi Văn Chấn)

CÁI NÔI CỦA ĐẠO HỒI: BÁN ĐẢO Ả

RẬP TRONG THẾ KỶ 6 VÀ 7.

Vị giáo chủ sáng lập đạo Hồi là Muhammad, sinh năm 570 tại thành phố Mecca, thủ đô của xứ Saudi Arabia ngày nay. Sau 23 năm viết sách Thánh Kinh Koran và thuyết giảng về đạo Islam, ông qua đời tại thành phố Medina, cách Mecca khoảng 40 miles về phía Bắc, hưởng thọ 62 tuổi.

Cuộc đời của Muhammad đã bắt đầu từ 30 năm cuối thế kỷ 6 và bắt cầu 32 năm sau qua thế kỷ 7. Tất cả những gì ảnh hưởng đến cuộc đời của Muhammad đều in dấu ấn trong thế giới đạo Hồi ngày nay. Vì vậy chúng ta cần phải tìm hiểu bối cảnh lịch sử của xã hội Ả Rập trong cả hai thế kỷ 6 và 7.

Khác với Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái là một tập truyện, Kinh Thánh Koran gần như một cuốn nhật ký. Đọc Kinh Koran, người ta sẽ thấy rất nhiều nét đặc thù của đời sống du mục Ả Rập, các sinh hoạt thương mại của dân Mecca, các phong tục tập quán và tín ngưỡng cổ truyền của người Ả Rập, các cuộc chiến tranh của đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine, đế quốc Hỏa Giáo Ba Tư v.v… Tìm mua: Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay TiKi Lazada Shopee

Tất cả đều được Muhammad phản ảnh trong kinh Koran. Do đó, khi đọc kinh Koran, chúng ta rất dễ dàng kiểm chứng các sự kiện bằng cách đối chiếu với lịch sử. Ngược lại, sự nghiên cứu lịch sử về bối cảnh bán đảo Ả Rập trong thế kỷ 6 và 7 sẽ giúp chúng ta hiểu biết rõ ràng hơn về

Muhammad cũng như về đạo Islam.

1. Về địa dư:

Bán đảo Ả Rập là một hình chữ nhật chiều dài 1200 miles, rộng 900 miles. Diện tích trên một triệu dặm vuông, lớn bằng 1/3 Hoa Kỳ hoặc bằng 8 lần diện tích Việt Nam. Sở dĩ vùng này được gọi là bán đảo vì nó được bao bọc ba phía bởi biển hoặc đại dương: Đông giáp Vịnh Ba Tư, Nam giáp Ấn Độ Dương và phía Tây giáp Hồng Hải (Biển Đỏ). Phía Bắc của bán đảo này là vùng sa mạc hoang vu chạy dài tới biên giới Syria và Palestine. Người ta gọi nó là sa mạc Syro-Arabia vì nó ở giữa hai nước Ả Rập và Syria. Đi băng qua sa mạc này bằng đường bộ là một điều nguy hiểm nếu không dự trữ đủ nước uống. Khách lữ hành phải đi những quãng đường rất xa mới gặp được một ốc đảo (oasis). Các ốc đảo trong sa mạc được tạo thành do những hồ nước ngầm ở dưới mặt đất (underground pools). Khí hậu sa mạc rất khô, thường chỉ có mưa vào mùa xuân. Vùng có mưa nhiều nhất là miền cực nam bán đảo Ả Rập, tức nước Yemen ngày nay.

2. Dân cư:

Bán đảo Ả Rập ngày nay được chia thành nhiều quốc gia: Nước lớn nhất là Saudi Arabia 757 ngàn dặm vuông, 23 triệu dân. Yemen 203 ngàn dặm vuông, 10 triệu dân. Oman 2.5 triệu dân, Cộng Hòa Ả Rập Emirates 2.3 triệu dân và Quatar 1 triệu dân. Đa số dân Ả Rập là con cháu xa xưa của giống người ở Địa Trung Hải và miền núi Alpes ở Âu Châu. Về phương diện chủng tộc, người Ả Rập được xếp vào chủng tộc da trắng (Whites) như người Âu. Hầu hết người Ả Rập thời xưa sinh sống bằng nghề du mục. Do đó, chính họ đã tự đặt tên cho chủng tộc của mình là Arab có nghĩa là du mục (Arab means Nomad).

Người Ả Rập và Do Thái thù ghét nhau là do sự kỳ thị tôn giáo, sự thật Ả Rập và Do Thái đều cùng một chủng tộc. Theo Thánh Kinh Cựu Ước Do Thái thì sau cơn đại hồng thủy, cả nhân loại chết hết, chỉ còn lại một gia đình của ông Noah sống sót mà thôi. Con trai lớn của ông Noah là Shem trở thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả Rập. Do đó, phát sinh danh từ “Semites” để gọi chung Do Thái và Ả Rập. Semites có nghĩa là “con cháu của Shem” (Semites: Descendants of Shem).

Mới đây, một số nhà khoa học về nhân chủng đã làm một cuộc thử nghiệm DNA trên nhiều người Do Thái và nhiều người Ả Rập tại Iraq,

Arabia, Yemen và Syria. Họ công bố kết quả thử nghiệm đã xác nhận người Do Thái và các giống dân Ả Rập đều cùng chung một mẫu DNA, tức cùng chung một nguồn gốc tổ tiên. Chẳng những vậy, họ đều có chung một nguồn gốc văn hóa từ Babylon. Ngôn ngữ cổ của Babylon là Sumerian, ngôn ngữ cổ Do Thái là Hebrew và ngôn ngữ Arabic đều có nhiều nét tương đồng.

Ngôn ngữ của Muhammad và của Kinh Koran là ngôn ngữ Ả Rập (Arabic) hiện là ngôn ngữ chính của 250 triệu người thuộc nhiều quốc gia ở Trung Đông.

3. Chính Trị và Tôn Giáo:

Trong thế kỷ 6 và nửa đầu thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông bị chia thành hai miền đặt dưới sự khống chế của hai đế quốc: Đế quốc Ba Tư làm chủ miền đông gồm có Iran, Iraq, Syria và Arabia. Trong thời gian này, đế quốc Ba Tư chọn Hỏa Giáo (Zoroastrianism) làm quốc giáo và chọn Ctesiphon làm thủ đô. Đế quốc Byzantine làm chủ miền tây gồm có Hy Lạp, Do Thái, Palestine, Ai Cập và vùng Địa Trung Hải. Đế quốc Byzantine chọn Ki Tô Giáo làm quốc giáo và chọn Constantinople (nay là Istambul) làm thủ đô.

Hai đế quốc Ba Tư và Byzantine đánh nhau liên miên từ thế kỷ 2 đến thế kỷ 7, ròng rã 500 năm. Từ đầu thế kỷ 4, đế quốc Byzantine đổi tên Ki Tô Giáo thành “Công Giáo”, tiếng Hy Lạp Katholikos có nghĩa là tôn giáo hoàn vũ (Universal Religion). Rất nhiều người Ả Rập trong vùng kiểm soát của đế quốc Byzantine theo đạo Công Giáo. Tất cả những người này thuộc quyền cai quản của Giáo Hội Syria (Syriac Church). Đến giữa thế kỷ 6, đế quốc Công Giáo Byzantine chinh phục được vua xứ Abyssinia (tức là Ethiopia ngày nay) theo đạo và cho nhiều đoàn truyền giáo xâm nhập Yemen ở cực nam bán đảo Ả Rập.

Đế quốc Ba Tư thấy rõ âm mưu của Byzantine nên tìm cách nâng đỡ mọi người Do Thái và những người Ả Rập theo đạo Do Thái nắm chính quyền tại bán đảo Ả Rập. Năm 510 (tức 60 năm trước khi Muhammad sinh ra) với sự yểm trợ của đế quốc Ba Tư, một người Ả Rập theo đạo Do Thái là Yusuf Asai đã thống lãnh các bộ lạc Ả Rập và lên ngôi vua cai trị toàn bán đảo Ả Rập.

Đến năm 525, đế quốc Byzantine yểm trợ cho vua Công Giáo xứ Abyssinia đem quân xâm chiếm bán đảo Ả Rập. Vua Yusuf Asai chống cự không nổi phải bỏ chạy, cuối cùng nhà vua nhảy xuống biển tự tử. Từ đó, bán đảo Ả Rập thành thuộc địa của Abyssinia và Ki Tô Giáo thành quốc giáo tại xứ này.

Năm 570, người Ả Rập cầu cứu hoàng đế Ba Tư đem quân đánh đuổi quân Ki Tô Giáo Abyssinia. Đế quốc Ba Tư chiến thắng và biến bán đảo Ả Rập thành một tỉnh của đế quốc. Cũng từ đó, Hỏa Giáo của Ba Tư được truyền bá rộng rãi trong dân chúng Ả Rập.

4. Phong Tục Tập Quán:

Dù sống cuộc đời du mục ở sa mạc hay chuyên nghề thương mại sinh sống tại thành thị, mọi người Ả Rập đều thích tự xưng là “những người con của sa mạc” (sons of desert). Từ nhiều ngàn năm qua cho đến nay, người Ả Rập vẫn luôn luôn gắn bó với những con lạc đà. Chúng là những cỗ xe lý tưởng đưa họ qua sa mạc và đồng thời cũng là nguồn cung cấp sữa và thịt.

Người Ả Rập ít trồng trọt nên họ thường bị thiếu ngũ cốc và bị suy dinh dưỡng. Cuộc sống sa mạc đã tạo ra hoàn cảnh khiến cho các bộ lạc du mục phải luôn luôn gây chiến với nhau để tranh chiếm các giếng nước hiếm hoi hoặc tranh chiếm các thảo nguyên để thả nuôi gia súc. Qua nhiều thế kỷ, cuộc sống du mục đã hình thành nơi các sắc dân Ả Rập những phong tục tập quán đặc biệt: a. Tục trả thù:

Để có thể sống còn trong những điều kiện khắt nghiệt của sa mạc, mọi người Ả Rập phải tụ họp lại thành từng nhóm (groups) gắn bó với nhau bằng quan hệ huyết thống. Nhiều nhóm liên kết với nhau thành đoàn (clans) hoặc lớn hơn nữa thành bộ lạc (tribes). Mọi cá nhân đều phải gắn bó với quyền lợi chung của bộ lạc. Người Ả Rập gọi tinh thần gắn bó ấy là “muruwah” bao hàm rất nhiều ý nghĩa: phải can đảm trong chiến đấu, phải kiên nhẫn chịu đựng mọi sự đau khổ khi bộ lạc gặp khó khăn, phải cương quyết bảo vệ mọi kẻ yếu trong bộ lạc và phải quyết tâm trả thù những kẻ đã dám xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của bộ lạc.

Các tù trưởng có trách nhiệm bảo vệ mọi thành viên trong bộ lạc của mình. Nếu không trừng phạt những kẻ đã xâm phạm đến sinh mạng và tài sản của thành viên trong bộ lạc mình thì tù trưởng đó sẽ không còn được tín nhiệm nữa. Vì tính liên đới trách nhiệm trong bộ lạc nên trong nhiều trường hợp một người trong bộ lạc này bị giết thì một người trong bộ lạc thù địch phải bị giết để đền mạng. Luật sa mạc là nợ máu phải trả bằng máu. Bán đảo Ả Rập là một sân khấu vĩ đại của những chu kỳ bạo động không bao giờ dứt.

Trong những thời kỳ đói kém hay hạn hán, các bộ lạc gặp khó khăn thường chọn một trong những bộ lạc thù địch để tấn công nhằm cướp gia súc, thực phẩm và hàng hóa cần thiết để sống còn. Các đàn ông của bộ lạc địch đều bị giết. Các đàn bà trẻ đẹp bị bắt đưa về làm vợ bé hay đầy tớ. Số còn lại bị đưa đi bán ở chợ nô lệ.

Những người Ả Rập du mục không hề coi những vụ cướp của giết người như vậy là điều tội lỗi. Họ quan niệm đó chỉ là những việc làm tự nhiên để trừng phạt kẻ thù một cách hợp lý mà thôi. b. Tục giết các bé gái sơ sinh (Female Infanticide) Luật sa mạc cũng tàn nhẫn như luật rừng: Chỉ có kẻ mạnh sống sót, mọi kẻ yếu phải bị loại trừ! Việc giết các bé gái sơ sinh là một phương cách điều chỉnh dân số của các bộ lạc du mục. Lý do là một khi bộ lạc có quá nhiều con gái và quá ít con trai thì bộ lạc bị lâm vào tình trạng suy yếu. Chỉ có đàn ông con trai mới có thể đáp ứng nhu cầu sống còn của bộ lạc, đó là nhu cầu chiến đấu và nhu cầu lao động sản xuất.

Phụ nữ bị coi rẻ nên xã hội du mục không dành cho họ một quyền lợi luật định nào (no legal right). Họ bị coi như một thứ tài sản, hay nói đúng hơn là một động sản (movabal property). Những gia đình nào đã sinh một vài đứa con gái rồi thì những bé gái sinh sau thường bị giết chết không thương tiếc. c. Tục cắt da qui đầu và cắt âm vật Theo tương truyền thì Abraham là người đầu tiên tự cắt da qui đầu của mình và cắt da qui đầu các con trai của ông để tỏ lòng tuân phục Thiên Chúa.

Do đó, tục lệ cắt da qui đầu trở thành nghi lễ bắt buộc đối với mọi người theo đạo Do Thái. Tục lệ này thường được gọi là Phép Cắt Bì (Cirumcision).

Trước khi có đạo Hồi, đa số người Ả Rập thường tự xưng là tín đồ đạo Abraham, tức Đạo Do Thái Nguyên Thủy. Họ thường cắt da qui đầu cho các bé trai giống như người Do Thái.

Ngoài ra, người Ả Rập có tục lệ cắt bỏ một phần hoặc tất cả âm vật, còn được gọi là mồng đóc (Clitoris) của các bé gái từ 4 đến 8 tuổi. Đây là một tục lệ chung của người Ả Rập, không phân biệt tôn giáo. Hiện nay, nhiều người Ả Rập ở Ai Cập, Yemen, Sudan theo Ki Tô Giáo vẫn giữ tục lệ này.

Họ tin rằng việc cắt clitoris tuy có gây đau đớn nhưng tránh cho phụ nữ những đòi hỏi sinh lý và giúp họ dễ trở nên thanh sạch cao đẹp hơn. d. Tục chứng minh trinh tiết cô dâu Một tục lệ của người Ả rập gây căng thẳng tinh thần cho các cô gái đến tuổi lấy chồng, đó là tục lệ chứng minh trinh tiết cô dâu (Proof of the bride’s Virginity). Sau đám cưới, mọi người trong gia đình cô dâu và những người khách tham dự tụ họp bên ngoài phòng ngủ cô dâu chú rễ. Sau khi động phòng, chú rễ bước ra khỏi phòng ngủ báo cáo kết quả cho mọi người biết.

Nếu chú rễ tuyên bố cô dâu đã mất trinh trước đám cưới thì đây là một điều nhục nhã cho gia đình nhà gái và cuộc hôn nhân có thể bị hủy bỏ! e. Tục giết gái chửa hoang Các cô gái Ả Rập không chồng mà chửa bị coi là đã phạm trọng tội đối với danh dự của gia đình. Các cô gái này thường bị cha hoặc anh em ruột giết chết để bảo vệ danh dự gia đình. Vì thế, người Ả Rập gọi tục lệ này là “Giết người vì danh dự” (Honor Killing). Các cô gái chửa hoang thường khó có thể thoát chết vì dù có chạy đến cầu cứu các cơ quan luật pháp cũng không được bảo vệ. Các thủ phạm giết người trong trường hợp này được xã hội coi là hành động chính đáng và nếu có bị tù thì cũng chỉ trong một thời gian rất ngắn có tính cách tượng trưng mà thôi.

Tất cả các tục lệ kể trên hiện vẫn còn tồn tại trong các xứ Ả Rập Hồi Giáo. Tuy nhiên, những tục lệ đó không xuất phát từ đạo Hồi vì trong kinh Koran cũng như những văn bản luật pháp của đạo Hồi đều không có điều khoản nào qui định về các tục lệ đó. Ngày nay, nhiều nước Hồi Giáo đã ban hành các biện pháp hủy bỏ hoặc hạn chế các tục lệ xét ra có hại và lỗi thời.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Thế Giới Hồi Giáo Xưa Và Nay PDF của tác giả Bùi Văn Chấn nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Các Tông Phái Đạo Phật (Đoàn Trung Còn)
LỜI NÓI ĐẦU Đạo Phật từ khi đức Phật tổ lập giáo đến nay, đã hơn hai ngàn năm trăm năm, vốn vẫn là một đạo duy nhất. Song hoàn cảnh xã hội và con người ở khắp trên hoàn cầu là khác nhau. Vì trên đường đời, nhân loại tiến hóa không giống nhau. Kẻ thông minh sáng suốt, người mê muội tối tăm; kẻ thong dong nhàn nhã, người vướng bận nhọc nhằn; kẻ đã từng học lý xem kinh, người vừa mới nghe văn tầm sách; có kẻ mới học mà thông, lại có người học suốt đời vẫn dốt… Bởi thế cho nên các bậc hiền thánh đều tùy phương tiện mà độ thế, cứu người. Chính đức Phật tổ từ thuở xưa cũng đã làm như vậy. Tùy thuận nơi những người đến nghe trong pháp hội, ngài thuyết dạy giáo pháp phù hợp. Hoặc giảng rộng lý lẽ, hoặc dẫn chuyện tích xưa, hoặc bày ra giới luật. Có khi nói xa, có lúc nói gần, có khi chỉ thẳng, có lúc dùng ẩn dụ... Ngài dùng đủ cách như thế, cốt yếu cũng chỉ là muốn giúp cho chúng sanh đạt hiểu chân lý. Với hàng đệ tử xuất thân quí tộc nhưng dốc lòng tinh tấn, ngài dạy theo một cách. Với bậc vua quan còn tham đắm lợi danh, ngài lại dạy theo một cách khác. Với hàng thương gia rộng lòng bố thí, ngài dạy theo một cách. Với kẻ trung tín thành tâm, ngài lại dạy theo một cách khác hơn nữa. Cách sử dụng ngôn ngữ của ngài biến hóa rất tuyệt diệu, phi thường. Trong kinh vẫn thường nói có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn, cũng không ngồi ý này. Tìm mua: Các Tông Phái Đạo Phật TiKi Lazada Shopee Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn, các vị đại đệ tử mới ghi chép lại những lời thuyết dạy của ngài thành ba tạng kinh điển. Đó là tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận. Trong đó có đủ các mức độ thuyết dạy cao thấp, nhanh chậm khác nhau. Nói khái quát trong ba tạng ấy, mỗi tạng đều có phần chủ đích riêng biệt, mà dung hợp với nhau cùng nhắm đến việc giúp người tu hành mau đạt đến chỗ giải thốt khổ não. Tạng Kinh giúp người hiểu rõ những lý lẽ, quy luật trong cuộc sống, mà quan trọng, nền tảng hơn hết là lý nhân quả, nhân duyên; từ những câu kinh rất đơn sơ giản lược, cho đến những bộ kinh đồ sộ rất cao siêu, thâm áo cũng đều có đủ. Tạng Luật giúp người kiềm chế tự thân, xa điều ác, gần điều thiện, cho đến được trong sạch cả thể xác lẫn tinh thần. Tạng Luận giải rõ những chỗ nghi ngờ ngăn trở trên đường tu tập, giúp người ta vững đức tin mà vượt qua khó khăn không nghi ngại. Dẫu là người tu ở trình độ nào, tu theo pháp môn gì, cũng không thể thiếu đi một trong ba yếu tố ấy. Dần dần về sau, các bậc thánh hiền qua từng thời đại mới luận giải rộng thêm để dễ dàng hơn cho sự tiếp nhận của người đời. Kinh sách dù không thay đổi, nhưng nghĩa lý ngày càng diễn giải rộng thêm. Lại tùy theo sự khế hợp căn cơ mà phân ra làm Đại thừa và Tiểu thừa. Người thích hợp với giáo lý nào thì chọn theo tông phái ấy. Nói chung vẫn không ngồi mục đích thốt khổ, được vui. Người tu dẫu theo Đại thừa hay Tiểu thừa, nếu đạt đến chỗ rốt ráo cũng đều được lợi mình, lợi người. Nhưng vì cũng có người không nắm được yếu chỉ tông môn, chấp giữ đến chỗ cực đoan nên sinh ra lầm lạc. Bởi vậy lại có thêm giáo lý Trung thừa để uốn nắn sai lầm này. Đạo Phật, nói đơn giản, giống như một tấm bản đồ chỉ đường đi. Dù là cùng muốn đến một nơi, nhưng người ta có thể xem trong ấy mà chọn những lối đi khác nhau. Có đường rẽ về bên này, có đường rẽ sang bên nọ... nhưng tựu trung đều dẫn người ta về đến đích. Những con đường, những lối đi khác nhau đó chính là tượng trưng cho các tông phái khác nhau. Dù chia ra nhiều tông phái, chung quy cũng là để tiếp dẫn đưa người đến chỗ giải thốt rốt ráo mà thôi. Tùy nơi căn tánh của mỗi chúng sanh, ai thích hợp với lối tu nào, với tông phái nào, thì chọn theo tông phái ấy. Kết quả cũng đều là nhắm đến sự an lạc và giải thốt. Muốn dễ hiểu hơn, ta hãy so sánh các tông phái của đạo Phật với những con đường đưa lên núi. Dầu theo con đường nào, lâu hay mau, khó hay dễ, đi thẳng hoặc đi vòng, cuối cùng cũng đều lên đến đỉnh cao của ngọn núi. Nghĩa là, dù tu theo tông phái nào mà dốc lòng, tận lực, thì cũng đều có thể đạt đến chỗ giải thốt rốt ráo cả. Người ta cũng so sánh những tông phái với các thứ hoa. Tuy là nhiều hương thơm, lắm sắc đẹp, đều là mọc lên từ khu vườn đạo Phật. Các tông phái dù khác nhau cũng không ra ngồi đạo Phật. Tông phái nào cũng nhắm đến cảnh giới Niết-bàn, giải thốt. Dù là Tiểu thừa, Trung thừa hay Đại thừa, nếu người tu hết lòng chuyên cần thì chắc chắn sẽ gặt hái được kết quả tốt lành.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Đoàn Trung Còn":Các Tông Phái Đạo PhậtKinh Duy Ma CậtKinh A Di ĐàTruyện Phật Thích CaĐường Về Cõi Phật - Xứ Phật Huyền BíĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Các Tông Phái Đạo Phật PDF của tác giả Đoàn Trung Còn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bí Ẩn Tông Đồ Thứ 13 (Michel Benoît)
Giới thiệu: Cùng bạn mình là cha Andrei, người bị ám sát trên một chuyến tàu từ Rome đi Paris, cha Nil đã phát hiện ra một bí mật động trời về thân thế Jesus, một bí mật hẳn sẽ khiến cả phương Tây lẫn bất cứ quốc gia nào thờ phụng Jesus cũng đều phải chao đảo. Trước mối nguy tiềm tàng ấy, không chỉ Rome mà cả Jerusalem và Mecca cùng lao vào cuộc đua vây dồn ông, và không loại thủ đoạn nào không được viện tới... Bí ẩn tông đồ thứ mười ba không chỉ đơn thuần tìm cách làm sáng tỏ bí mật về thân thế chúa Jesus, một bí mật từng khiến thế giới tốn không biết bao nhiêu giấy mực, xương máu và nước mắt, mà còn kể lại một cách sinh động đến nghẹt thở những câu chuyện hậu trường tôn giáo đầy gian dối, cạm bẫy, hiểm nguy và chết chóc, làm mê say độc giả, góp phần vinh danh Michel Benoît như một "chuyên gia về nguồn gốc Thiên chúa giáo" Michel Benoît là nhà thần học, tiến sĩ sinh học và từng là tu sĩ. Tìm mua: Bí Ẩn Tông Đồ Thứ 13 TiKi Lazada Shopee Ông rời Giáo hội năm 1984 và các nghiên cứu của ông về cuộc sống cũng như nhân thân Chúa Jesus bị Giáo hội kịch liệt phản đối. Đây cũng chính là lý do khiến ông quyết tâm theo đuổi công cuộc nghiên cứu này - vốn được thể hiện rõ qua nhiều tác phẩm văn học của ông như Tù nhân của Chúa, Bí mật tông đồ thứ mười ba…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bí Ẩn Tông Đồ Thứ 13 PDF của tác giả Michel Benoît nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bí Ẩn Tông Đồ Thứ 13 (Michel Benoît)
Giới thiệu: Cùng bạn mình là cha Andrei, người bị ám sát trên một chuyến tàu từ Rome đi Paris, cha Nil đã phát hiện ra một bí mật động trời về thân thế Jesus, một bí mật hẳn sẽ khiến cả phương Tây lẫn bất cứ quốc gia nào thờ phụng Jesus cũng đều phải chao đảo. Trước mối nguy tiềm tàng ấy, không chỉ Rome mà cả Jerusalem và Mecca cùng lao vào cuộc đua vây dồn ông, và không loại thủ đoạn nào không được viện tới... Bí ẩn tông đồ thứ mười ba không chỉ đơn thuần tìm cách làm sáng tỏ bí mật về thân thế chúa Jesus, một bí mật từng khiến thế giới tốn không biết bao nhiêu giấy mực, xương máu và nước mắt, mà còn kể lại một cách sinh động đến nghẹt thở những câu chuyện hậu trường tôn giáo đầy gian dối, cạm bẫy, hiểm nguy và chết chóc, làm mê say độc giả, góp phần vinh danh Michel Benoît như một "chuyên gia về nguồn gốc Thiên chúa giáo" Michel Benoît là nhà thần học, tiến sĩ sinh học và từng là tu sĩ. Tìm mua: Bí Ẩn Tông Đồ Thứ 13 TiKi Lazada Shopee Ông rời Giáo hội năm 1984 và các nghiên cứu của ông về cuộc sống cũng như nhân thân Chúa Jesus bị Giáo hội kịch liệt phản đối. Đây cũng chính là lý do khiến ông quyết tâm theo đuổi công cuộc nghiên cứu này - vốn được thể hiện rõ qua nhiều tác phẩm văn học của ông như Tù nhân của Chúa, Bí mật tông đồ thứ mười ba…Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bí Ẩn Tông Đồ Thứ 13 PDF của tác giả Michel Benoît nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi Sao (Jiddu Krishnamurti)
BÀI DIỄN VĂN GIẢI TÁN GIÁO HỘI NGÔI SAO Giáo Hội Ngôi Sao ở Phương Đông được thành lập năm 1911 để tuyên cáo sự xuất hiện của vị Thầy trên thế giới. Krishnamurti được bầu làm người cầm đầu Giáo Hội. Ngày mùng 2 tháng 8, năm 1929, ngày khai mạc Hội Nghị hàng năm tại Trại của Giáo Hội Ngôi Sao ở Ommen, Hòa Lan, Krishnamurti đã giải tán Giáo Hội trước 3000 hội viên. Dưới đây là toàn thể bài diễn văn đọc trong dịp này. “Sáng nay, chúng ta sẽ thảo luận về sự giải tán Giáo Hội Ngôi Sao. Nhiều người sẽ hân hoan đón nhận, và những người khác lại có thể buồn rầu. Nó chẳng phải là một vấn đề để vui mừng và cũng chẳng phải để buồn rầu, bởi lẽ nó không thể tránh được, như tôi sẽ giải thích. “Quí vị có thể nhớ câu chuyện về tên ác quỷ và người bạn cùng đi trên đường phố, khi họ thấy một người đi phía trước, cúi xuống và nhặt một vật gì ở dưới đất, ngắm nghía rồi bỏ vào túi hắn. Người bạn nói với tên ác quỷ “Người đó nhặt cái gì vậy?” “Nó nhặt một mảnh Chân Lý” tên ác quỷ trả lời. “Vậy thì nó là một vấn đề không hay cho anh” người bạn nói vậy. “Ồ, nó không phải như vậy”, tên ác quỷ trả lời. “Tôi sẽ để cho nó tổ chức vế vấn đề này.” Tôi vẫn giữ nguyên lập trường của tôi Chân Lý là mảnh đất không có lối vào, và quí vị không thể tiến tới bằng bất cứ con đường nào, bằng bất cứ tôn giáo nào, bằng bất cứ giáo phái nào. Đó là quan điểm của tôi và tôi chấp nhận nó một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Chân Lý, tự nó vô biên, vô điều kiện, không thể tiến tới bằng bất cứ con đường nào, nó không nên được tổ chức; và cũng chẳng nên thiết lập một tổ chức nào để lãnh đạo hay bắt buộc dân chúng phải theo một con đường nào đó. Nếu trước tiên quí vị hiểu như vậy, thì quí vị sẽ thấy việc tổ chức một tín ngưỡng là một công việc bất khả thi. Tín ngưỡng là một điều thuần túy cá nhân, và quí vị không thể và không nên biến nó thành một tổ chức. Nếu quí vị làm việc đó, nó sẽ trở thành chết ngắc, kết tinh lại; nó trở thành một tín ngưỡng, một giáo phái, một tôn giáo, được áp đặt lên những người khác. Đó là điều mà mọi người trên toàn thế giới đương muốn thực hành. Chân Lý đã được hạn hẹp lại và trở thành một vườn chơi cho những kẻ yếu đuối, cho những kẻ chỉ tạm thời bất mãn. Chân Lý không thể mang nó xuống thấp mà trái lại cá nhân con người phải cố gắng để tiến lên. Qúi vị không thể mang đỉnh núi xuống nơi thung lũng. Nếu quí vị muốn tiến lên đỉnh núi, quí vị phải đi qua thung lũng, trèo lên các ngọn đá chơi vơi, không sợ hãi về những vực thẳm hiểm nguy. Theo quan điểm của tôi, đó là lý do thứ nhất tại sao Giáo Hội Ngôi Sao nên phải giải tán. Mặc dù vậy, quí vị có thể sẽ thành lập những giáo hội khác, quí vị sẽ tiếp tục trực thuộc những tổ chức khác đi tìm Chân Lý. Tôi không muốn trực thuộc bất cứ tổ chức nào có tính cách tâm linh, xin quí vị cảm thông cho điều này. Tôi sẽ xử dụng một tổ chức để có thể đưa tôi tới Luân Đôn chẳng hạn; đó lại là một loại tổ chức khác hẳn, chỉ có tính cách cơ năng, như nhà bưu điện, hoặc truyền tin viễn liên. Tôi có thể dùng xe ô tô hay tầu thủy để di chuyển, đó chỉ là những phương tiện cơ khí vật lý. Nó không liên quan gì đên vấn đề tâm linh. Tìm mua: Bài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi Sao TiKi Lazada Shopee Một lần nữa tôi xác nhận là không một tổ chức nào có thể đưa con người tới con đường tâm linh. Nếu một tổ chức được thành lập với mục đích này, nó sẽ trở thành một cái nạng, một sự yếu đuối, một trói buộc và làm cho cá nhân thành què quặt, làm cản cho sự tăng trưởng để trở thành một cá nhân riêng biệt được thể hiện qua sự tự kiến thấy cái Chân Lý tuyệt đối và vô điều kiện. Như vậy đó lại là một lý do khác tại sao tôi đã quyết định như vậy khi sự kiện xẩy ra tôi là người cầm đầu giáo hội để giải tán hội. Không một ai đã thuyết phục tôi đi đến quyết định này. “Điều này không phải là một hành động cao đẹp bởi lẽ tôi không muốn có tín đồ, và đó là ý muốn của tôi. Khi quí vị theo một người nào, quí vị chấm dứt sự tìm kiếm Chân Lý. Tôi không quan tâm tới sự quí vị có lưu ý hay không lưu ý tời những gì tôi nói. Tôi chỉ muốn làm một cái gì đó trên thế giới và tôi sẽ làm việc đó với một sự tập trung không suy chuyển. Tôi chỉ bận tâm với một điều thiết yếu mà thôi: là sự giải phóng con người. Tôi muốn giải thoát con người khỏi mọi thứ lồng cũi, khỏi mọi sự lo sợ, và không thành lập tôn giáo, những giáo phái mới, mà cũng chẳng thiết lập cá triết thuyết mới và triết lý mới. Vì vậy, lẽ tất nhiên, quí vị sẽ hỏi tôi, tại sao tôi đi khắp thế giới và luôn luôn diễn thuyết. Tôi sẽ nói với quí vị lý do tại sao tôi làm vậy: không phải tôi mong muốn có người theo, không phải tôi mong muốn có một nhóm đặc biệt đệ tử khác người. (Bằng cách nào con người yêu thích đuợc khác với đồng loại, dù sự khắc biệt đó nó lố lăng, vô lý, và tầm thường. Tôi không muốn khuyến khích sự vô lý đó.) Tôi không muốn có tín đồ, không có tông đồ, hoặc giả ở trên trái đất, hoặc giả trong phạm vi tâm linh. “Cũng không phải sự ham muốn tiền tài, hoặc có một đời sống thỏai mái đã hấp dẫn tôi. Nếu tôi muốn có một đời sống thoải mái, tôi đã không đến một Trạng Trại, hoặc sống ở một xứ ẩm ướt! Tôi nói thẳng vì tôi muốn giải quyết vấn đề này một lần cho xong. Tôi không muốn có những cuộc tranh luận ấu trĩ năm này qua năm khác.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Jiddu Krishnamurti":Dưới Chân ThầyNghĩ Về Những Điều NàyLửa Trong Cái TríThâm Nhập Thấu TriệtThư Gửi Trường HọcBài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi SaoBạn Đang Nghịch Gì Với Đời MìnhTự Do Vượt Trên Sự Hiểu BiếtBàn Về Cách Kiếm Sống Đúng ĐắnBàn Về Tình Yêu Và Sự Cô ĐộcCái Gương Của Sự Liên HệĐánh Thức Trí Thông MinhGiáo Dục Và Ý Nghĩa Của SốngGiáp Mặt Cuộc ĐờiSổ Tay Của KrishnamurtiTương Lai Của Nhân LoạiTuyển Tập KrishnamurtiVượt Khỏi Bạo LựcQuyển Sách Của Cuộc Đời Jiddu KrishnamurtiĐối Mặt Với Thế Giới Hoảng LoạnGhi Chép Của KrishnamurtiĐường Vào Hiện SinhKhai Sáng Trí NăngHướng Đi Cho Cuộc ĐờiNỗi Đau Thời GianÝ Nghĩa Về Sự Chết, Đau Khổ Và Thời GianĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bài Diễn Văn Giải Tán Giáo Hội Ngôi Sao PDF của tác giả Jiddu Krishnamurti nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.