Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hơn Nửa Đời Hư

Hiểu theo trong Nam Hơn nửa đời hư, có nghĩa là hơn phân nửa đời người, chưa làm gì nên thân. Giọng hàng tôm, giặm mắm muối, rõ ràng hơn; đã quá nửa đời người, hổng nên thân gì ráo trọi! Hơn nửa đời, biết làm sao mà định? Bốn mươi năm mươi cũng được, quá sáu bảy mươi cũng biết đâu chừng? Thôi thì để đó, khi đập nắp quan sẽ hiểu. Chuyện tôi viết, bắt đầu từ năm sanh (1902) đến năm đi dạy học ở Huế về (1967), thấy nhộn quá nên ở nhà, chớ dư sức hoạt động. Con đường đã trải, cũng dài khá bộn, kể tuổi đầu cho đến nay đã trên bảy mươi, như vậy lẽ đáng nên gọi, nếu mai nầy chết, là “trọn một đời hư”, mới phải. Như con bạc trúng một canh bài về khuya, đủ gỡ vốn lời, vì “nên” được vào mấy ngày chót vậy xin cho tôi ghi “Hơn nửa đời hư” làm nhan sách. Tưởng “viết để lại cho con là Bảo” nhưng nay in thành sách có nhiều mắt cùng xem, như vậy “Hơn nửa đời hư” là phải. Ngoài trời mưa, đêm vẫn lạnh. Gió mướt tỉ tê, mắt già mi ướt. Tôi chuốc đôi hài nhung, mặc thêm một lớp áo ấm, lại ngồi bàn viết: “Đêm nay gió bấc mưa dầm, Đèn khuya một bóng, bóng lầm với đêm” Dưới Mái Tây, ngọn đèn điện cứ reo vui với mấy con thiêu thân tự sát. Song cửa mở sương che mất khu phố mấy từng cao. Con mèo tam thể đi ăn vụng bị hàng xóm chém tét móng chân trước, đang nằm rên hì hì trên đầu tủ sách. Vừa viết đến đây, tôi đọc lớn. Con mèo nhướng mắt tưởng tôi ngỏ lời an ủi, nên hoà âm mấy tiếng hừ hừ, tợ chiếc ấm gần sôi. Bỗng tôi đổi sang giọng lớn, không mấy êm tai, tôi thấy vành tai con miêu đang xụ lại vành lên, trán con miêu nhăn nhăn, tam thể tựa hồ bụng bảo dạ: “Lão Vương nầy chướng, chúng cho về hưu cũng phải: Lão lai nhai những gì rỗng tuếch, chẳng bù má Năm, nói những lời đáng giá, hứa cho ăn thì no bụng đến phát ách, hăm đánh đòn thù nhừ tử nên thân; Bữa nay lão viết giống gì nữa đây, chỉ hại tốn giấy?” Ấy đó, trên bảy mươi mà còn bị chó mèo xài xể, hỏi phải hư chưa? Lúc nhỏ vì mê đọc văn Anatole France nên vướng cái nghiệp của lão già Ba Tri nầy. Tuy không hiểu hết những câu sâu sắc của lão, nhưng lại thích cái giọng trịch thượng nửa đùa nửa thật, hơi cay một tí thôi, vừa nhẹ vừa thâm, hiểu được mớ nào, thấm ý đánh đùi cái chát? Thú vị nhứt, đọc mãi không chán là bộ “Le crime de Sylvestre Bonnard”, và đoạn ly kỳ nhứt trong sách là chỗ diễn tả cách báo ân đáp nghĩa của chị ả huê khôi, nửa đời tài sắc trước nghèo xơ xác đến nỗi phải trú ngụ trên gác thượng của lão hàn lâm nầy, rồi sau đụng một ông hoàng giàu sang không mấy hồi, trực nhớ ơn xưa lão hàn tặng một chén xúp khi đói lạnh, nay biết lão ham sách bèn sai con ôm đến nhà đêm No-en dâng cho lão một cuốn sách quí đựng trong bộng một khúc gỗ củi chuyện đọc thật là khoái trá. Chương trong sách tựa là “La buche de Noel”, ai muốn thường thức hãy tìm mà đọc. Nay tôi mượn ý viết tập nầy mở đầu truyện “Anh Vương tự thuật”. “Dừng chén ngoảnh lại trời non nước, Một mảnh tình riêng: ta với ta”. (Thơ Bà huyện Thanh Quan “Qua Đèo Ngang”) Đêm nay, cớ sao hai câu thơ trên như thôi miên tôi, như vương vấn tâm hồn, ngâm đi ngâm lại mãi không biết chán. Buổi đầu hôm ăn mừng sinh nhựt, lễ trung thọ thất thập tam tuế, Năm dâng chén rượu mừng khiến cảm động, đóc giọng còn cay. Nếu đời quen lấy trăm năm làm hạn, thì kiếp sống mình kể đã hơn nửa độ đường, trời cho thêm được ngày nào, kể như là lãi. Phần còn lại, không nên tham nhiều. Ô hay! Lên chói đỉnh tự hồi nào? Và sẽ lần dốc xuống triền được bao lâu nữa? Thật là không sao nhớ xiết Và xiết bao bồi hồi. Lên đến chót đỉnh tất đã đăng cao. Lên cao rồi phải hạ. Mai nầy cất bước dò lần đường xuống. Tức nhiên câu thơ tức cảnh Đèo Ngang bà Thanh Quan làm sẵn mà nó phù hợp với cảnh ngộ của mình làm sao? Ám ảnh là phải. Đêm đã về khuya, tư bề lặng lẽ; rất phải dịp cho mình chiêm nghiệm việc đời. Thử bỏ bàn toán tính sổ: lỗ hay lời, trước giờ gác đầu về núi, ta phải biết để mà lo liệu. Nhà hiện thời đang ở, truyền đến tôi đã hơn ba đời. Thế mà mình vẫn tưởng là một dịch đình tạm, dừng chén đêm nay để mai nầy trẩy bước. Nơi phòng bên cạnh, mẹ con chúng đang ngon giấc. Hơi thở đều đều của một mớ tóc bông của người hiền phụ và làn môi son của trẻ. Nhớ đến trẻ, cục máu thâm tình duy nhứt, đứa con muộn màng mà cũng là cái mốc ăn chịu với đời của tôi. Bao nhiêu tình yêu buổi thanh xuân đã như giọt sương buổi sáng bao nhiêu người thương cũ đã rớt rơi hoặc nằm yên nơi bên kia triền dốc: mẹ tôi mất năm 1913, tôi biết khóc tiếc người hiền mẫu khi tuổi độ vừa mười một. Năm tản cư 1946 khi hồi cư về nhà thì chịu tang cậu tôi. Nhưng chưa thảm bằng năm ấy mất đứa em trai mười chín tuổi, Vương Hiển Vinh, tuy khác mẹ nhưng xem dường ruột thịt. Làm thanh niên tiền phong, lánh giặc Tây rút chân theo đồng chí, đang cữ rét hành, trốn lính Tây nhảy vào bụi ô rô, Tây đi mất là tử thần vội đến, Vinh thở hơi cuối cùng, nay nắm xương lạc loài còn vùi đâu đó nơi cù lao Dung lạnh lẽo, chưa được mang về. Thời gian mãi như vầy, khi hết chiến tranh, dễ gì tìm thấy xác. Ba tôi tám mươi sáu tuổi, mất năm 1961, là người thân yêu khoá tạm cuốn sổ nầy. Hồn mẹ có linh, phách Ba dầu hiển, lại với mấy dì và mười đứa em trai sanh chưa kịp đặt tên đã trở về âm cảnh, bao nhiêu ấy là cốt nhục tình thâm nay gom lại làm mười mấy núm mộ nằm lúp xúp trên đất nhà ở Sốc Trăng, xin hãy về cùng tôi đêm nay nhấp chén mừng trung thọ. Nhưng xin đừng làm động giấc ngủ ngây thơ phòng bên cạnh. Hiền thê và Bảo con, hãy ngủ cho ngon, mai nầy chúng mình sẽ trẩy một khúc đường mới lạ còn dài lắm. Tôi khoác thêm áo ấm, kéo ghế tránh bóng đèn, đêm nay nguyện thức viết cho thật nhiều, kể lại cuộc đời đã qua, lưu lại cho vợ hiền con thơ được biết. Ô hô? Tuổi chẳng chờ ta... Tôi nghe nhiều người phàn nàn, cho rằng không hơi đâu nhắc lại chuyện cũ. Cái gì đã qua, hãy để cho nó qua. Hãy nhìn tới tương lai mới phải. Tương lai! Tương lai! Cách nay ba chục năm, tôi cũng say mê về tương lai, về ngày mai sẽ đến. Nhưng trải qua nhiều biến cố, từ năm 1945 cho đến nay, tuổi mòn chồng chất, tuy chưa đến độ chồn chân mỏi gối, tuy vẫn còn đi bộ hàng cây số không mệt, ngồi đánh máy suốt ngày không đau lưng, nhưng quay đầu ngó lại buổi đã qua, mới thấy cái hay của dĩ vãng. Đời vẫn không cay nghiệt gì với tôi. Tôi phải biết ghi ân rằng đời đã dành riêng cho tôi khá nhiều hạnh phúc. Nhưng khi ai kia nhắc đến buổi tương lai, bỗng khiến tôi lại bùi ngùi lo sợ. Bất giác tôi lại hồi tường tới chuyện đâu đâu. Tôi đã hết trông cậy vào tương lai, và nếu phải ước mong, hoạ là gởi hết vào cái đầu non và mớ tóc xanh của trẻ đang say giấc nồng bên cạnh. Xin ơn trên ban tôi thêm vài tuổi, có thì giờ đủ thấy đứa trẻ nên người.     2. Kiếng họ Vương ở Sóc Trăng     Lai lịch Họ Vương của chúng tôi, chỉ ở Sốc Trăng, vốn xuất thân từ tay trắng. Xét cho kỹ, không làm gì có gia phả để lại. Sự ấy cũng dễ hiểu:       a) Ông tổ của chúng tôi, - chỉ biết được đến đời ông sơ, tức không hơn năm đời - từ Trung Quốc sang đất Miên rồi đất Việt một khi tách bước ra đi trên con đường vô định - nói ra không sợ xấu đã dấn thân trên đường lưu lạc, phiêu lưu, đi tha hương cầu thực, đi để tìm lẽ sống mà tại nơi nhau rúm không sao tìm thấy, nói thẳng ra, đi hoang làm vậy, thì cần gì đem theo gia phả? Giắt lưng cái tờ tộc phái ấy chỉ thêm bận chân vướng cẳng, ích gì? Và thương thay cho những người lang thang trên bước giang hồ,       b) Đến đời ông nội chúng tôi, sẵn tánh bần bạch kiêu nhân, dám đứng làm tùa-hia (đại ca) của chi nhánh Thiên Địa Hội tại Sốc Trăng, thì càng không nên cất giữ gia phả trong nhà. Nơi xứ lạ quê người, thù nhiều bạn ít, đã quyết chí chống triều đình Mãn Thanh, thì dẫu có bao nhiêu gia phả cũng phải thủ tiêu, để tránh liên luỵ gia đình thê tử.       c) Họ Vương, tiếng rằng sang, kêu lắm, giòn lấm, nhưng có giàu chăng là giàu hai chữ “thanh bần”. Từ ông sơ xuống đến ông cố, lang bạt kỳ hồ, làm miễn đủ ăn là đủ mừng, đèo bòng chi cái gia phả, chúng cười: “sang không phải chỗ”,       d) Thuở đó, trước đây một thế kỷ, sống trên đất lạ, vùng Sốc Trăng vừa mới phát, việc khai hoang chưa hoàn thành, ở chung đụng với người Miên người Thổ, họ quen dùng bùa ngải tà thuật, khi thư da trâu vô đầy bụng mà chết, khi trù ẻo dùng thiên linh cái bắt hồn, để tránh các tai hoạ dữ kia, muốn sống yên lành vô sự, tất nhiên phải giấu tên giấu họ, mai danh ẩn tích là hơn. Cho nên nói chung, tại Miền Nam chúng tôi không có tục lập gia phả, vì xét rằng tờ tộc phái có ghi tên họ năm sanh năm tử của ông bà để lại rủi lọt vào tay kẻ thù muốn hại mình thì quả là lợi ít hại nhiều, nên không lập. Tờ gia phả xét kỹ ra, chỉ dành cho các dòng họ lớn nào sống nơi thái bình yên định, không gặp cảnh loạn ly. Tuy vậy không phải người miền Nam không biết quý trọng tổ tiên, duy không chép ra thành sách. Người tộc trưởng của một họ thường thuộc nằm lòng để truyền khẩu giữa con cháu hoặc kỹ hơn, dùng thẻ giữ kín ghi những ngày kỵ huý giỗ quải, và ít khi bằng lòng lấy ra cho người ngoại tộc xem. Sau đây, tôi xin tóm tắt những gì tôi từng nghe phụ thân tôi thuật lại về chi họ Vương ớ Sốc Trăng, dòng ông Vương Thoại là ông cố của chúng tôi.      a) Kể về chi lớn, thì được biết vẫn ở tại Phước Kiến (Trung Hoa), và có thể nói, gồm trong mười lăm chữ: “Phước kiến tỉnh, Tuyền Châu phủ, Đồng Ân huyện, Lâm Mễ thôn, Quan Khảo lý”. Như vậy, không phải bất cứ người nào hễ sanh tại Phước Kiến và cùng một họ Vương là một dòng với chúng tôi. Phải sanh từ Lâm Mễ thôn, từ Quan Khảo lý mới đủ điều kiện. Bây giờ thử hỏi: Một người như tôi, máu Hoa pha máu Việt đã bốn đời, không nói được tiếng Phước Kiến, giá thử có dịp qua bên ấy, vậy chớ có nhìn đồng tông đồng tánh với người bên ấy được chăng? Giấy tờ chứng minh không có, nói miệng tài ai tin vả lại nhìn bà con ở xa mút bên Tàu để làm gì? Khi đã xa cách nhau suốt nhiều đời, dẫu tình đậm cũng hoá lợt; thêm vấn đề ngôn ngữ bất đồng, phong tục cách ăn thói ở không giống, “y ăn xì-dầu, tôi húp nước mắm”, lại nữa tỉnh Phước Kiến là đất tiêm nhiễm lâu năm chủ nghĩa khác với tôi. Vương nầy Vương kia, tôi tưởng gặp nhau e không dám ngó ngay mặt chớ đừng nói chi chuyện bất tay nhau nhìn một họ một dòng. Gặp nhau, câu thi Học Lạc ngâm suông: “Hoá An-nam, lữ khách trú”... rồi huề. Không nói thêm được nửa lời. Không phải cốt ý để khoe khoang, nhưng Ba tôi có thuật lại rằng xưa kia kiếng họ Vương ở Phước Kiến vốn có địa vị khá. Giữa triều Thanh đang thịnh cũng không bị bạc đãi. Một chi tiết nhỏ: Thuở ấy, cặp lồng đèn giấy treo trước cửa, được phép kẻ một chữ Vương duy nhất, thay vì các họ khác phải viết kèm chữ “phủ”, tỷ dụ Phạm phủ, Trần phủ, Quách phủ, v.v... Và đó là đặc ân dường như do bà Tây Thái Hậu ban ra, vì bà cho rằng hễ Vương thì ở phủ là cố nhiên, hà tất viết dư chữ “phủ”. Một giai thoại khác thuật luôn là cũng bà Tây Hậu khi sắp hạng những mười tám tỉnh dâng lễ khánh thọ cho bà, thì tỉnh Phước Kiến được sắp đứng đầu vì chữ “Phước” không thể sắp sau chữ khác. Một đặc ân khác dành cho chi họ Vương quán ở Quan Khảo lý, là được dùng bốn chữ “Khai Mân đệ nhứt” là biển treo nhà, vì tương truyền họ nầy xưa kia có công khai phá mở mang đất Mân (Phước Kiến), biến hoang địa thành lương điền. Nói để nghe chơi chớ không dám vẽ viên nhiều, bằng sắc đâu có hòng chứng minh, khoác lác là tội. Không nên “thấy người sang, bắt quàng làm họ”,       b) Nay nói về chi thứ là chi xuất dương, vốn cùng một đầu ông sơ. Hiện biết có ba chi ở ba chỗ khác nhau: chi Nam Vang, chi Gia Định, chi Sốc Trăng. Nhưng đã tản lạc, chưa thấy ngày trùng phùng.      1) Ông sơ (?-?) . Khuyết danh, khuyết ngày sanh, ngày tử. Giỗ chung với bà sơ, huý nhựt: ngày hai mươi lăm tháng chạp âm lịch. Theo Ba tôi kể lại, ban đầu ông sang ngụ đất Nam Vang, nhưng kể từ năm nào không rõ. Về sau, chi nầy tách ra một nhánh xuống định cư ở đất Gia Định. Hiện chi nầy ở đâu? Khi lên viếng Sài Gòn độ năm 1901, Ba tôi có gặp, hai đàng nhìn nhau mừng mừng tủi tủi rồi cũng chia tay từ đó rồi bặt vô âm tín, cũng không biết địa chỉ để liên lạc, nay kể như thất lạc, mất còn chẳng hay. Từ ngày tôi lên ở Gia Định, tôi cố gắng hỏi thăm nhưng chưa gặp một ai chỉ bảo. Ông sơ chúng tôi ở Nam Vang một thời gian không biết bao nhiêu lâu, bỗng nhớ chén cơm lưu lạc động gót giang hồ, lại một gói một xách, một thân một mình, cất bước lên đường một phen nữa. Có lẽ nghe lời đồn đãi nên chuyến nầy, ông xuống Miền Ba Thắc (nay có miếu thờ ở Chợ Cũ Bãi Xàu), Thổ gọi Sroc Bassac, hoặc sroc khléang, là tên cũ xứ Sốc Trăng (nay là Khánh Hưng, Ba Xuyên). Thuở đó, vừa hơn một thế kỷ, vùng nầy là một đồng ruộng mênh mông, người thưa rừng nhiều, đất tốt “làm không hết” cá tôm, thịt rừng khỏi mua mạnh ai nấy bắt, đời sống dễ dãi như cảnh thiên đàng, khiến ông lưa gót lại đây, lập thêm một gia đình nữa với bà sơ chúng tôi. Ở như vậy bao lâu không biết, rồi đến lúc tuổi già sức yếu, biết đã gần ngày quay đầu về núi, ông bèn “qui cố hương” rồi mất luôn bên ấy. Có nên trách ông hai lần tạo lập gia đình rồi bỏ về chết ở bên Tàu không? Xin đáp rằng không. Ông vả chăng là người Phước Kiến. Tháp cánh bay xa để thử sức, khi sức kiệt thì bay về ổ cũ. “Phú quý không về làng thì khác nào áo gấm mặc đêm”. Người Âu khi xưa đĩ lập Tân thế giới cũng thế. Nếu đã trót để lại hai nơi hai giọt máu tươi, thì may thay trời sanh trời dưỡng, hai giọt ấy hoa đơm kết trái cháu chất nối dòng, bổn phận kẻ sau phải nhớ câu “mộc bổn thuý nguyên”. Dẫu tôi quá hư, cũng không dám buộc tội ông, duy dám hỏi “Sao ông không nói cũng không để lại dấu tích nào?” Họ tên để khuyết, vậy xin giỗ ông chung với bà. Mộ ông ở bên Tàu, có còn hay đã san bằng lấy chỗ trồng rau cỏ? Mộ có người giữ gìn ấm cúng hay đã xiêu lạc mồ hoang? Ông hãy yên giấc ngàn thu. Tại Sốc Trăng, chúng tôi vẫn giữ nhang khói đều đều và giỗ quải không sơ sót. Bà sơ (?-?) - Cũng không biết họ tên và không biết luôn năm sanh năm tử, duy nghe dặn lại ngày giỗ là ngày hai mươi lăm tháng chạp. Nhờ một chi tiết nhỏ có thể truy nguyên năm mất là Ba tôi có nói bà từ trần đúng năm ông nội chúng tôi được mười lăm tuổi đầu. Vả chăng ông nội tôi sanh năm 1848. Cộng thêm mười lăm năm nữa là năm 1863. Ba tôi kể lại lịch sử của bà chỉ có chạy giặc: hết giặc Thổ dậy đến giặc Tây qua lấy nước. Việc nầy trùng hợp, vì năm Tây xâm chiếm ba tỉnh Miền Tây đúng là năm 1862. Tội nghiệp bà chạy mãi thở chưa hết mệt, kế bà gặp một trận bão to bồi tiếp. Thân già sức mòn, tài nào chịu nổi? Phần thì lạnh, phần thì sợ, phần thiếu thuốc men, thiếu săn sóc, nên bà sơ chúng tôi tất hơi thở trong cảnh hãi hùng, duy bà khỏi thấy nước nhà mất độc lập, lọt vào tay Tây. Chị em bà cả thảy bốn người: bà là chị cả, kế là mẹ vợ ông Châu Đức, kế nữa là mẹ ông Lưu Hỷ, và út chót là mẹ vợ xã Sức. Con của Số là xã Kóln, người nầy có lập một gánh hát dù kê tức hát cải lương Khmer. Như vậy chi ngoại nầy có một nhánh trở về nguồn, trở lại Khmer. Đó là những gì Ba tôi thuật lại về bốn chị em của bà sơ chúng tôi, còn họ tên là gì, Ba tôi cũng không biết. Nay mộ của bà vẫn nằm lên sở đất của mẹ vợ ông Châu Đức. Cuộc đất giồng (cương) nầy, Thổ gọi sốc Phno Tin, cách xa chợ Sốc Trăng độ bảy tám cây số ngàn. Phải chăng đây là vị trí xóm xưa bà ở? Phải chăng đây là quê ngoại của ông nội chúng tôi? Năm trước đây, nhơn dịp lễ Thanh Minh, tôi có về tảo mộ thì thấy thì thấy cuộc đất nầy đã thay đổi chủ. Con cháu ông Châu Đức đã sang nhượng cho một Huê kiều tên là Xiều (Thiều). Ông nầy lập nơi đây một sanh phần vĩ đại, may sao ngôi mộ lúp xúp của bà sơ chúng tôi không án, nên được chủ đất mới để nằm yên chỗ cũ. Không như các mộ tổ tiên khác chôn nơi Trường đua, vốn là đất nghĩa địa thí, nhưng đến năm 1964, chánh quyền cần mở rộng sân phi trường và ra lịnh sung công, buộc lòng chúng tôi phải hốt cốt đem về đất nhà nơi miếng rẫy sau chùa bà Tu Định, đường cũ đi Bạc Liêu, an táng lại. Phen nầy cầu xin nằm đó được vĩnh viễn. Mời các bạn đón đọc Hơn Nửa Đời Hư của tác giả Vương Hồng Sển.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hồi Ký Chiến Tranh - Charles de Gaulle
Charles de Gaulle là một vị tướng kiêm chính trị gia người Pháp; ông là người lãnh đạo phong trào Nước Pháp Tự Do trong Thế chiến II và là nhà kiến trúc đại tài, người đã xây dựng nên Đệ ngũ Cộng hòa. Tư tưởng chính trị của ông – được gọi là “Gaullism”(chủ nghĩa De Gaulle) – đã và vẫn có những ảnh hưởng to lớn lên chính trường Pháp. Charles de Gaulle sinh ngày 22 tháng Mười một năm 1890 tại Lille và lớn lên tại Paris, nơi cha ông làm giáo sư sử học. Tuy nhiên, de Gaulle không nối nghiệp cha mà lựa chọn binh nghiệp. Ông đã chiến đấu can trường trong Thế chiến I. Trong thập kỷ 1930, de Gaulle viết sách và báo về các chủ đề quân sự, qua đó ông phê phán việc nước Pháp quá phụ thuộc vào Phòng tuyến Maginot để phòng thủ trước quân Đức và kêu gọi thành lập các quân đoàn thiết giáp cơ giới hóa. Nhưng những lời kêu gọi của ông đều rơi vào chân không. Tháng Sáu năm 1940, các lực lượng Đức Quốc xã đã đánh bại Pháp một cách dễ dàng. Không cam chịu chấp nhận thỏa thuận đình chiến của chính phủ với Đức, de Gaulle chạy sang London. Tại đây, ông đọc lời kêu gọi nhân dân Pháp đứng lên đánh đuổi quân xâm lược và tuyên bố thành lập chính phủ Pháp lưu vong. Ông trở thành người lãnh đạo phong trào Nước Pháp Tự Do. Sau khi Paris được tự do vào tháng Tám năm 1944, de Gaulle trở về và được chào đón như một vị anh hùng dân tộc. Trong những năm tháng tiếp theo, ông là trụ cột trong công cuộc khôi phục vị thế nước Pháp trên trường quốc tế cả về mặt kinh tế và quân sự. Bộ ba cuốn Hồi ký chiến tranh là những tâm sự chân thành của Tướng Charles de Gaulle về con đường ông đã trải qua để vực dậy nước Pháp. Qua ngòi bút bậc thầy, hiện thân của nền văn học hiện đại Pháp, chúng ta cảm nhận được lòng yêu nước sắt son của de Gaulle, sự đơn độc mà ông đã trải qua khi những dự đoán, phân tích và đề xuất thống thiết của ông với nhà nước đều bị chối bỏ, nỗi gian truân và cả sự thất vọng trong những ngày tháng tha hương. Với những ảnh hưởng lớn về tư tưởng mà ông đã để lại trên chính trường nước Pháp cho đến ngày nay, cuốn sách này là một kho tư liệu quý nhằm diễn giải những lý do đằng sau những hành động của vị tướng đồng thời cũng là một vị chính khách tài ba này. Không giống với những nhân vật của công chúng khác, de Gaulle tự tay viết nên cuốn hồi ký này. Và lối viết tao nhã đầy tính văn chương của một vị tướng từng vào sinh ra tử đã lập tức khiến Hồi ký chiến tranh được công nhận là cuốn sách kinh điển trong nền văn học hiện đại Pháp; không những thế, cuốn sách còn được đề cử giải thưởng Nobel Văn học năm 1963. Alpha Books trân trọng giới thiệu! *** Trọn đời tôi, tôi luôn nghĩ về nước Pháp với một niềm đinh ninh được vun bồi bằng cả tình cảm lẫn lý trí. Một cách tự nhiên, con người tình cảm trong tôi hình dung rằng nước Pháp, giống như nàng công chúa trong những câu chuyện cổ tích hay Đức Mẹ trên những bức bích họa, đã được định sẵn một số phận cao quý và phi thường. Bằng trực giác, tôi có cảm tưởng rằng Đấng Sáng Thế đã tạo nên Người cho những thành công tuyệt đích hoặc những nghịch cảnh tận cùng. Nếu trong hành động của Người có dấu vết của sự tầm thường thì với tôi, đó là một ngoại lệ kỳ quặc do lỗi của người Pháp gây nên chứ không nằm ở linh hồn Tổ quốc. Nhưng con người lý trí trong tôi cũng lại cho tôi thấy rằng nước Pháp chỉ thật sự là chính mình khi ở hàng đầu; rằng chỉ có những sự nghiệp lớn lao mới có thể bù đắp cho những mầm mống chia rẽ nơi bản thân dân tộc; rằng đất nước tôi, như Người vẫn thế, ở giữa những quốc gia khác, như họ vẫn vậy, trước những hiểm nguy chết người vẫn phải hiên ngang đứng thẳng và vươn cao. Tóm lại theo tôi, nước Pháp không thể là nước Pháp thiếu sự vĩ đại. Niềm tin này đã theo tôi lớn lên trong môi trường tôi ra đời. Cha tôi, con người của tư duy, của văn hóa, của truyền thống, đã thấm nhuần ý thức về phẩm cách của nước Pháp. Ông đã mở ra cho tôi lịch sử của tổ quốc. Mẹ tôi dành cho tổ quốc một niềm đam mê không gì lay chuyển nổi, sánh ngang với lòng sùng đạo. Đối với ba anh em trai của tôi, chị gái tôi, và bản thân tôi, lòng tự hào rộn ràng đối với tổ quốc tồn tại như một bản năng thứ hai vậy. Là chú bé gốc tỉnh Lille sống tại Paris, không gì gây ấn tượng cho tôi bằng những biểu tượng vinh quang của dân tộc chúng tôi: đêm xuống trên nhà thờ Đức Bà, vẻ huy hoàng của buổi chiều Versailles, Khải Hoàn Môn dưới ánh mặt trời, những lá cờ thuộc địa run rẩy trên vòm điện Invalides. Không gì khiến tôi xúc động hơn những bằng chứng về thành công của dân tộc chúng tôi: sự nhiệt tình của dân chúng lúc sa hoàng nước Nga đi qua, cuộc duyệt binh ở Trường đua Longchamp, những kỳ quan trong cuộc Triển lãm Quốc tế, những chuyến bay đầu tiên của các phi công của chúng tôi. Không gì khiến tôi buồn sâu sắc hơn những yếu đuối và sai lầm của dân tộc mà tuổi thơ tôi cảm nhận được qua những khuôn mặt và những câu chuyện của người lớn: sự kiện Fashoda [1], sự kiện Dreyfus [2], những xung đột xã hội, những bất đồng về tôn giáo. Không gì làm tôi xúc động bằng câu chuyện về những nỗi bất hạnh của chúng tôi trong quá khứ: cha tôi kể về cuộc phá vây vô vọng ở Le Bourget và Stains [3], nơi ông bị thương; mẹ tôi nhớ về nỗi thất vọng của bà khi còn là một đứa trẻ đứng nhìn cha mẹ nghẹn ngào: “Bazaine đã đầu hàng rồi [4]!” Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Chiến Tranh của tác giả Charles de Gaulle.
Napoleon Đại Đế - Andrew Roberts
NAPOLEON Đại Đế là sách đứng đầu bảng xếp hạng bán chạy nhất của New York Times nhiều tuần liên tiếp.The Telegraph (Anh) gọi cuốn sách là "số ít tác phẩm toát lên khí chất Napoleon" Napoleon là một nhân vật đặc biệt vĩ đại và hấp dẫn trong lịch sử Pháp cũng như lịch sửthế giới. Cuộc đời, sự nghiệp, quan điểm, tài năng của ông đã là chủ đề của hàng nghìncuốn sách trong suốt hai thế kỉ qua, và có lẽ sẽ còn được nghiên cứu tiếp trong nhiều thế kỉ sau nữa.Thuở nhỏ, cậu bé ham mê đọc sách, nhưng trình độ học vấn không cao. Pháp văn của ông rất tệ, ông thường bị trêu chọc ở trường vì chất giọng khôi hài. Napoleon chỉ tìm thấy mình khi vào quân đội, sau khi tốt nghiệp Trường Quân sự ở Paris và tìm được vị trí sĩ quan pháo binh. Tới năm 1793 Napoleon đóng vai trò nổi bật trong cuộc đánh bật quân Anh khỏi cảng Toulon và chiếm được thành phố này cho các lực lượng cộng hòa, nhờ đó ông được thăng cấp tướng. Khi cuộc cách mạng bao trùm nước Pháp, tài năng của Napoleon trên cương vị một người lính lên đến tột đỉnh. Ông từng gây tai tiếng khi dọn sạch các đường phố ở Paris bằng cách bắn đạn chùm vào quân nổi loạn. Ông đưa quân vào Italy và Ai Cập, nổi bật với một chuỗi những thành công ấn tượng cùng với uy danh về một thiên tài quân sự vô song. Ông trở thành người cai trị nước Pháp năm 1799. Năm 1804, ông tự phong mình làm Hoàng đế và vợ ông, Josephine lên ngôi Hoàng hậu. Napoleon được tôn sùng khi mới vừa qua độ tuổi hai mươi. *** Nói tới Napoleon đa số mọi người đều nghĩ tới một vị tướng, một Hoàng đế, những trận đánh. Nhưng không chỉ có thế. Trong bộ sách đồ sộ của mình về lịch sử văn minh phương Tây, sử gia, triết gia người Mỹ Will Durant cùng vợ ông, bà Anne Durant đã đặt tên cho tập cuối của bộ sách, viết về thời kỳ lịch sử đầy biến động 1789-1815 ở châu Âu là “Thời đại Napoleon”. Có lẽ đó là cách ghi nhận ngắn gọn và chính xác nhất vai trò của Napoleon Bonaparte trong việc định hình nên tiến trình lịch sử châu Âu của giai đoạn này, cũng như tạo ra tiền đề cho cơn bão cách mạng 1830-1848 sau đó. Chẳng vậy mà bất cứ ai ham tìm hiểu về lịch sử cũng sẽ thích tìm hiểu về con người đặc biệt này. Trong gần 200 năm qua, kể từ sau khi cuốn tiểu sử dài hơi đầu tiên về trọn vẹn cuộc đời, sự nghiệp của Napoleon được Walter Scott xuất bản năm 1827, thật khó lòng thống kê hết những cuốn sách đã viết về ông, và chắc chắn sẽ không có năm nào trôi qua trong một thời gian dài nữa mà lại không có thêm ít nhất một cuốn sách mới ra đời ở đâu đó trên thế giới bàn về một khía cạnh nào đó của cuộc đời, sự nghiệp Napoleon. Đọc hết cả “núi” sách theo đúng nghĩa đen này là việc bất khả thi, tuy nhiên chỉ cần một cuốn tiểu sử tóm lược khá toàn diện như Napoleon Đại đế của Andrew Roberts là đủ để những ai muốn tìm hiểu về nhân vật lịch sử có một không hai này, cho dù xuất phát từ bất cứ lý do nào, cũng tìm được cho mình một bức tranh tương đối ưng ý từ mọi góc độ, khía cạnh của một cuộc đời sôi nổi, phong phú và nhiều cung bậc thăng trầm đến mức chính chủ nhân của cuộc đời ấy đã phải thốt lên: “Đời ta quả là một cuốn tiểu thuyết.” Napoleon từng thích trở thành nhà văn, thích trở thành tác giả của những thiên tiểu thuyết khi còn trẻ. Ông đã không làm được điều đó bằng ngòi bút trên trang giấy, song đã viết được một cuốn tiểu thuyết trường thiên bi tráng qua chính cuộc đời mình. Mỗi trang của cuốn sách đó là một ngày đầy bận rộn ông đã trải qua từ khi là viên tướng trẻ 27 tuổi lên đường sang Italy bắt đầu chiến dịch đầu tiên của sự nghiệp cho tới khi ông ê chề rời khỏi chiến trường Waterloo ngổn ngang xác chết 19 năm sau để khép lại sự nghiệp đó. Nói tới Napoleon đa số mọi người đều nghĩ tới một vị tướng, một Hoàng đế, những trận đánh. Nhưng không chỉ có thế. Cuộc đời của Napoleon được Andrew Roberts lần lại qua từng giai đoạn trước hết là cuộc đời của một con người luôn muốn thách thức tất cả, luôn muốn tiến lên phía trước, không dừng lại trước bất cứ trở ngại nào cho tới khi kiệt sức.   Mời các bạn đón đọc Napoleon Đại Đế của tác giả Andrew Roberts.
Susan Boyle - Thiên Thần Xấu Xí - John Mcshane
Với tuổi 48, thân hình béo ú, đầu tóc bù xù, bận một chiếc váy rơm quê mùa bước lên sân khấu chương trình Britain's Got Talent, Susan Boyle đã nhận những cái nhìn diễu cợt, coi thường từ phía khán giả và cả chính những vị giám khảo nổi tiếng đang cầm chịch chương trình. Thế nhưng, khi ca khúc Tôi mơ một giấc mơ (I dreamed a dream) cất lên cùng với một giọng hát trời phú lảnh lót, cả khán phòng đã vỡ òa xúc cảm: Susan Boyle vô danh vụt sáng trở thành thần tượng âm nhạc chỉ sau một đêm, được hàng trăm triệu người biết tới. Cô trở thành ca sĩ chuyên nghiệp với hai album I dreamed a dream (album bán chạy nhất thế giới năm 2009, lập được kỷ lục Guiness cho album đầu tay bán chạy nhất với một nữ ca sĩ) và The gift. Năm 2011, cô còn được đề cử giải Grammy... Cuốn sách Susan Boyle thiên thần xấu xí tập trung vào giai đoạn từ khi Susan quyết định rời khỏi ngôi làng nhỏ của mình cho tới khi đạt được thành công cả về danh tiếng và tài chính, được cả thế giới nghiêng mình ngưỡng mộ. Tác giả John McShane đã tổng kết lại từ hàng nghìn bài báo, website, xem cả trăm chương trình truyền hình để dựng nên một chân dung chuẩn xác nhất về Susan Boyle. Gần như chẳng còn một thông tin nào về người phụ nữ này bị bỏ sót trong cuốn sách, từ những câu chuyện thời niên thiếu, cuộc sống gia đình và cả khát vọng vươn tới những điều tốt đẹp... Ngoài ra, tác giả còn mô tả lại cách giới truyền thông đã phản ứng như thế nào trước hiện tượng Susan Boyle - khi họ chợt giật mình nhận ra, một tài năng tuyệt vời không buộc phải đi cùng một ngoại hình đẹp. Chính vì vậy, Susan Boyle thiên thần xấu xí là một cuốn sách cổ vũ cho những giấc mơ, dẫu biết rằng cô chỉ là một tài năng hiếm hoi trong hàng triệu người. *** Người phụ nữ trung tuổi bước khoảng chục bước lên sân khấu. Những bước chân vừa dè dặt, lo lắng lại vừa dứt khoát, quyết tâm. Nửa chừng, khi tiến vào giữa ánh đèn, bà đặt bàn tay trái lên hông trong chốc lát, một cử chỉ vừa mang vẻ duyên dáng cực kỳ nữ tính vừa có phần không phù hợp và vụng về. Bà mặc bộ váy viền ren với cái màu mà nếu châm chước lắm thì cũng chỉ gọi được là “vàng xỉn”, dáng vẻ và phần nào hình dạng của nó dễ gợi liên tưởng đến một chiếc khăn trải bàn dùng cho bữa trà chiều vào cái thời xa xăm khi phòng khách thường chỉ được dành cho những dịp “trọng đại”. Bà thắt quanh eo một chiếc nơ con bướm to tướng giống hệt kiểu nơ người ta vẫn thường đính trên các hộp sô cô la hạ giá tại cửa hàng giảm giá trong khu phố nghèo. Với vóc dáng thấp, đậm, quá cân, người phụ nữ ấy đã tạo nên một hình ảnh mà ít lâu sau bị so sánh với “miếng thịt lợn trên chiếc khăn lót cốc”. Bà có khuôn mặt vuông, mái tóc màu nâu đục bù xù như chưa chải, lốm đốm xám bạc như bị rắc quá nhiều muối tiêu. Bà đi tất màu tối, giày màu sáng. Trên cánh tay phải, bà đeo một chiếc đồng hồ rẻ tiền, mặt đồng hồ thô kệch xoay xuống dưới cổ tay, còn bàn tay phải bà nắm chặt chiếc micro cỡ đại trong cung cách gần như sẵn sàng trực chiến, như thể chiếc micro ấy là một thứ vũ khí mà bà sẽ không ngần ngại sử dụng để tự vệ. Cuốn Từ điển Oxford rút gọn định nghĩa “frump” là một danh từ chỉ “người phụ nữ ăn mặc luộm thuộm, lỗi mốt”. Khi bà dừng bước ở trung tâm sân khấu, cái hình dáng tầm thường ấy dường như trở thành định nghĩa sống của chính từ đó: một con người không chỉ toát lên vẻ già trước tuổi mà còn tạo ấn tượng là đã già sẵn ngay từ khi sinh ra. Chỉ cần nhìn bà người ta cũng có thể thấy được hình ảnh một người lao động chân tay sầu muộn đầy tham vọng đang trên đà lão hóa, với những ý tưởng và hoài bão quá xa vời so với môi trường của mình đến độ nếu không đậm chất ảo tưởng tới mức đáng buồn thì hẳn chúng đã khiến người ta thấy thật khôi hài. Rõ ràng bà là một người thường xuyên thất bại trong cuộc sống, và chỉ có sự pha trộn của lòng thương hại và ái ngại mới ngăn được 3.000 khán giả cuồng nhiệt tại Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Scotland khỏi phá lên cười rầm rĩ. Một bầu không khí thiếu thoải mái bao trùm - cảm giác hân hoan khi ý thức được một thảm họa sắp xảy ra trộn lẫn với sự phấn khích tọc mạch khi dự cảm được nỗi xấu hổ của một con người khác. Không ít người trong hội trường bồn chồn chuyển mình trên ghế, liếc mắt về phía bạn bè với vẻ hiểu biết; phương án giải quyết của họ chỉ là hoặc cười thật to, hoặc im lặng, hoặc quan sát không chớp mắt, hoặc chỉ hé mắt qua kẽ ngón tay hầu giảm thiểu tác động. Nó cũng không khác gì khi ta đứng trên lối đi dạo ven bờ trong một ngày bão giông, nhìn ra biển khơi nơi sóng nước sắp nuốt chửng những tay bơi tuyệt vọng. Quá khủng khiếp khó lòng chứng kiến, nhưng quá thu hút chẳng dễ quay mặt đi. Người phụ nữ đeo quanh cổ một sợi dây chuyền mảnh, ngay trên miếng bìa đề rõ các con số 43212. Bên cạnh chúng, trên tấm thẻ tên là dòng chữ “Britain’s Got Talent”. Ở giữa người phụ nữ và đám khán giả đang háo hức là một chiếc bàn rộng không khác gì bàn của nhân vật phản diện trong phim James Bond, phía sau bàn là ba vị giám khảo: hai đàn ông, một phụ nữ, một bộ tam đầu chế của Caesar[1] thời hiện đại, những người sẽ bật đèn tín hiệu quyết định các đấu sĩ trước mặt họ sẽ được sống hay phải chết. Người đàn ông có mái tóc ngắn sẫm màu ngồi ở phía cuối đoàn giám khảo gãi gãi chóp mũi, lơ đãng nghịch nghịch cây bút và hướng ánh mắt vào tờ thông tin đặt trước mặt. Ông hỏi với vẻ thông thạo công việc, “Vậy, tên bà là gì?” Câu hỏi được thốt ra không phải bằng giọng buồn chán mà với vẻ chỉ muốn chuyện này kết thúc - và kết thúc cho nhanh. Xét cho cùng, kéo dài cơn hấp hối cũng chẳng có nghĩa lý gì. “Tôi tên là Susan Boyle,” câu trả lời cất lên, chất giọng Scotland không lẫn vào đâu được, cao và rõ ràng. Kẻ thẩm vấn ăn mặc xuề xòa, đang hờ hững tựa vào lưng ghế ấy là Simon Cowell. Đó cũng chính là người đàn ông quyền lực nhất giới showbiz Anh, một tỉ phú với đế chế không ngừng mở rộng. Ông là hình ảnh của kẻ không có thói quen đối xử tử tế với kẻ ngốc, có thể thô lỗ đến cay độc với những màn trình diễn ông không đánh giá cao. Không lời sáo rỗng, không uyển ngữ - không khoan nhượng. Ngồi ngay cạnh ông là nữ diễn viên Amanda Holden. Vốn là một nhân vật nổi tiếng trên màn ảnh nhỏ nước Anh, vai trò đồng giám khảo của chương trình truyền hình tìm kiếm tài năng - cộng thêm phản ứng thường tràn đầy cảm xúc của cô trước các màn trình diễn cũng như chuyện đời của các thí sinh mà cô được nghe - đã nâng cô lên một tầm cao danh tiếng khác. Và mảnh ghép cuối cùng để hoàn thiện bộ ba ấy là Piers Morgan, cựu biên tập viên Fleet Street[2], từng có một sự nghiệp báo chí nổi như cồn ghi dấu ấn bằng các bài viết gây tranh cãi và sau đó xuất sắc lột xác thành một ngôi sao truyền hình. Tất cả đều có vai trò trong sự kiện sắp diễn ra, nhưng vào cái ngày tháng Giêng năm 2009 đó, không ai trong số họ có thể dự đoán được rồi sẽ có chuyện gì xảy ra. Cowell vẫn tiếp tục đưa ra các câu hỏi theo một cung cách dường như tỏ rõ rằng ông sẽ vận hết khả năng lịch sự và chuyên nghiệp cần thiết để giải quyết nhanh gọn việc này. “Được rồi, Susan, bà quê ở đâu?” ông hỏi. “Tôi quê ở Blackburn, gần Bathgate, Tây Lothian,” bà trả lời. Cho đến lúc này thì mọi việc đều ổn. Nhưng rắc rối đang trực chờ phía trước. “Đó có phải một thành phố lớn không?” Cowell tiếp tục. Không hẳn là Susan Boyle bị câu hỏi gây khó dễ, nhưng bà vẫn không trả lời ngay, có lẽ bà có cái cảm giác lo lắng mà ta hoàn toàn có thể hiểu được khi nhất cử nhất động của mình đang bị hàng nghìn khán giả trong hội trường và không biết bao nhiêu ống kính truyền hình đang dõi theo. “Đó là một tập hợp... đó là một tập hợp... ờ...” bà cất lời, rồi dừng lại như không biết nên nói thế nào, vật lộn suy nghĩ tìm cách diễn đạt câu trả lời thật rõ, “... một tập hợp các ngôi làng.” Rồi bà thêm vào một cách không cần thiết, “Về điểm đó tôi còn phải suy nghĩ.” Có lẽ bà đã mệt rồi. Xét cho cùng, bà đã phải bắt sáu tuyến xe buýt từ nhà mới tới được hội trường. “Và bà bao nhiêu tuổi, Susan?” Cowell hỏi. Câu trả lời vang lên, “Tôi 47.” Cowell, khi đó 49 tuổi, đảo tròn mắt. Có thể nghe thấy từ phía sau ông rộ lên cả tiếng cười lẫn tiếng lầm bầm chê bai của khán giả. Một tiếng huýt sáo độc địa vang lên đâu đó giữa đám đông. Các khán giả đang theo dõi trực tiếp tại nhà hát, và cả hàng triệu người ngồi tại nhà xem buổi thi tài của Susan Boyle sau đó, chắc hẳn đều e rằng mình đang xem một chương trình về các vụ tai nạn giao thông. Mời các bạn đón đọc Susan Boyle - Thiên Thần Xấu Xí của tác giả John Mcshane.
Seoul Đến Và Yêu - Quỳnh In Seoul
Một cuốn sách du ký chắc chắn sẽ khiến cảm hứng Đi, Chơi và Yêu của bạn tăng vọt. Một cuốn sách nhất định sẽ khiến bạn “yêu Seoul như yêu một anh chàng mắt híp”! Vì sao ư? Vì Seoul trong cuốn sách này không chỉ là một thành phố, mà đó chắc chắn là một anh chàng! Một anh chàng ăn mặc rất sành điệu, có chút khó đoán nhưng cực kỳ galant, đã thế lại hay nói ngọt, điểm cộng rất lớn của “chàng” là chàng có đến cả tỉ thứ ngon lành và xinh đẹp, khiến bạn yêu một lần rồi là cứ muốn yêu mãi chẳng ngừng, chẳng muốn về, chẳng muốn yêu ai khác nữa! Cuốn sách được Quỳnh in Seoul viết từ 7 năm kinh nghiệm sống ở Hàn Quốc, với tất cả tình yêu dành cho thành phố mà Quỳnh “luôn giữ cho mình một lý do để quay lại”. Một cuốn guidebook vô cùng thiết thực, bởi chỉ cần có quyển sách này, bạn sẽ chinh phục cả Seoul, bạn sẽ có thể đi, ăn, chơi như một người dân bản địa. Nhưng đây tuyệt đối không phải là một cuốn guidebook thông thường – bởi bạn thử tưởng tượng xem – với nó, bạn có thể đến từng ngóc ngách, từng “hẻm xéo” thú vị của thành phố này. (Có cuốn sách nào sẽ “bật mí” cho bợi nơi có thể uống ly cocktail rượu gạo ngon nhất kia chứ?) Nó cho bạn rất nhiều trải nghiệm khác nhau về Seoul, đưa bạn đến khu Gangnam sầm uất và thượng lưu, nhưng cũng không quên chỉ cho bạn thấy khu ổ chuột dưới chân Cửu Long Sơn ngay gần đấy… Đây còn là cuốn “nhật ký Seoul” của Quỳnh – nơi mọi địa danh, mọi lễ hội và mùa đều có những ký ức và kỷ niệm rất riêng của tuổi trẻ. Bạn sẽ bắt gặp trong sách thứ tình yêu đầu đời trong sáng, lửng lơ trong những cơn mưa mùa hè vần vũ với chiếc ô trong. Câu chuyện về kem cá ấm áp và ngọt ngào. Và cả lần đi lạc đầu tiên, lần hẹn hò đầu tiên nữa… Bạn không chỉ khám phá Seoul thôi đâu, mà còn khám phá cả một phần tuổi trẻ của Quỳnh nữa đó.  Vậy thì, bạn đã sẵn sàng để yêu Seoul như yêu một anh chàng mắt híp chưa? À, và tại sao lại là mắt híp nhỉ? Bởi vì “Mắt của anh bé xíu, chỉ nhìn thấy mỗi một mình em, yêu một mình em xinh đẹp!” *** Thế là chúng ta đã kết thúc chuyến phiêu lưu này rồi, cảm giác của bạn lúc này thế nào? Bạn có thấy gắn bó, thân thương với đất nước này và còn rất lưu luyến, như thể chuyến đi này vẫn chưa đủ? Nếu bạn yêu một thành phố nào đó, hãy giữ cho mình một lý do để trở lại. Người ta vẫn nói, bạn sẽ hối tiếc vì những gì mình chưa làm, hơn là những gì mình đã làm. Bạn sẽ hối tiếc hơn vì chưa ăn những món mình muốn, đến những nơi mình muốn, làm những điều mình muốn và gặp những người mình muốn. Từng có bảy năm ở Hàn Quốc, vẫn còn rất nhiều mình chưa làm đối với đất nước này. Đúng hơn, mình luôn dành bản thân mình một "cái cớ" để luôn có thể trở lại Hàn Quốc, để luôn nghĩ về nơi này như "À, lần tới mình sẽ làm như vậy". Suy nghĩ "lần sau" ấy luôn là một loại động lực để đi tiếp, chứ không phải là một lý do để trở nên biếng nhác. Hãy trở lại một nơi bạn muốn, làm những điều bạn thích, cùng những người bạn yêu quý. Hãy "chừa" lại Cho mình một cái cớ Để quay lại một nơi mà bạn yêu, cho dù chỉ đơn giản là có thể đi bộ trên một con đường, nhìn ngắm người ta đi dạo, xem hoa, xem lá rụng. Hãy làm một quyển sổ nhỏ, bất cứ khi nào bạn hiền thấy cái gì thú vị trên mạng, hoặc một lý tưởng và chuyến phiêu lưu nào đó, hãy ghi lại. Nhắc nhở bản thân về những điều bạn muốn làm. Có một sự thật là cơ thể chúng ta ra đi theo năm tháng, nhưng đừng để điều đó làm cằn cỗi tâm hồn chúng ta theo thời gian. Hãy trở lại một nơi bạn yêu quý, vì bạn luôn luôn có một lý do. Hãy luôn tìm ra một thú vui trong cuộc sống, để có thể trông đợi vào ngày mai. Hãy mỉm cười nếu ai nói với bạn câu " tới đó mà chưa làm/đi/ăn cái này à, phí thế!" Hãy nói rằng "Ừ, lần này chưa đi được, nhưng lần tới sẽ làm!" Vì bạn sẽ trở lại mà, đúng không? Quỳnh in Seoul. TÁC GIẢ Quỳnh in Seoul • Tên thật là Vũ Hương Quỳnh, sinh năm 1993. Quỳnh từng sinh sống ở Seoul 7 năm. Trong thời gian đó, cô đã tốt nghiệp Đại học Hàn Quốc – Korea University, khoa Quốc Tế Học. • Quỳnh bắt đầu viết blog Quỳnh in Seoul từ tháng 3 năm 2015, nói về du học, du lịch, văn hoá, cuộc sống Hàn Quốc. Hiện nay, blog của Quỳnh đã có hơn 53.000 người theo dõi. • Năm 2015, Quỳnh cộng tác với Hoa Hoc Tro Magazine, ra mắt chuyên mục độc quyền "Thư từ Seoul" và đặc san sách "Hàn Quốc: đi về phía Bình Minh" chuyên về du học Hàn Quốc, và giành vị trí best-seller của #Fahasa trên toàn quốc trong suốt 7 tháng liên tiếp. Những tác phẩm của Quỳnh: "Trẻ và vụng về" "Hàn Quốc đi về phía bình minh" - cô là một trong những thành viên đóng góp để hoàn thiện tác phẩm này. Facebook: Quỳnh in Seoul Instagram:https://www.instagram.com/quynhinseoul Trang blog:https://quynhinseoul.ypworks.vn/ LINE: quynhpate Gmail:[email protected] Ask.fm:https://ask.fm/quynhpate   Mời các bạn đón đọc Seoul Đến Và Yêu của tác giả Quỳnh In Seoul.