Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bằng Chứng

Tiểu thuyết Cuốn Sổ Lớn (Le Grand Cahier) được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi]) Đó chính là cái bút pháp độc đáo của cuốn tiểu thuyết Le Grand Cahier: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. *** Tiểu thuyết được viết dưới hình thức một cuốn sổ ghi chép của hai cậu bé sinh đôi. Trong thời gian về miền quê để tránh chiến tranh, hai cậu bé tự học cách mô tả những sự kiện xảy ra chung quanh và ở chính mình. Hai cậu tập làm văn trên những tờ giấy rời. Khi nào viết được một bài hoàn chỉnh, thì hai cậu chép nó vào một cuốn sổ lớn. Các chương của cuốn tiểu thuyết chính là những bài tập làm văn ấy. Hai cậu bé sinh đôi đã tự quy định cho mình một nguyên tắc hành văn như sau: "Les mots qui définissent les sentiments sont très vagues; il vaut mieux éviter leur emploi et s'en tenir à la description des objets, des êtres humains et de soi-même, c'est-à-dire à la description fidèle des faits." [Những chữ định tính các xúc cảm thì rất mơ hồ. Tốt hơn nên tránh dùng chúng, và hãy chú tâm vào việc miêu tả các vật thể, con người, và chính mình, nghĩa là miêu tả trung thành các sự kiện.] (trang 34, chương “Nos études” [Việc học của chúng tôi] - tập 1 - Cuốn sổ lớn.) * Đó chính là cái bút pháp độc đáo của bộ 3 cuốn tiểu thuyết của Agota Kristof: đơn giản và vô cảm. Mọi sự kiện đều được nhìn qua con mắt của hai đứa trẻ, ghi lại bằng ngòi bút của hai đứa trẻ, và không bị diễn dịch theo bất cứ một định kiến nào. Và chính vì thế, độc giả sẽ thấy cuộc sống bày ra tất cả những góc cạnh lạ lùng nhất của nó. Một điểm độc đáo khác: suốt cả cuốn tiểu thuyết, hai đứa trẻ sinh đôi luôn luôn có cái nhìn hoàn toàn đồng nhất, luôn luôn có hành động hoàn toàn đồng nhất, và luôn luôn phát ngôn hoàn toàn đồng nhất. "Chúng tôi", chứ không bao giờ "tôi". "Chúng tôi thấy", "chúng tôi làm", "chúng tôi nói"... Điều này có nghĩa là gì? Phải chăng đó là một ẩn dụ? Câu trả lời sẽ dần dần hiện ra trong hai cuốn tiểu thuyết tiếp theo. Bộ sách Twins Trilogy gồm có: Cuốn Sổ Lớn Bằng Chứng Lời Nói Dối Thứ Ba *** Agota Kristof sinh năm 1935 tại Hungary, rời bỏ quê hương năm 1956 khi quân đội Liên-Xô tràn vào đàn áp cuộc nổi dậy của sinh viên và công nhân ở Budapest. Cùng chồng và đứa con gái 4 tuổi, bà sang tỵ nạn ở Neuchâtel, Thụy-sĩ. Sau 5 năm sống với cảm thức cô đơn và đau đớn của một người lưu vong, bà quyết định từ bỏ việc làm của một công nhân, ly dị với chồng, rồi bắt đầu học tiếng Pháp và viết truyện, viết kịch, viết tiểu thuyết và làm thơ. Sau nhiều năm vật vã với ngòi bút, Agota Kristof cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay Le Grand Cahier [Cuốn sổ lớn] năm 1986. Tác phẩm này là một thành công, đoạt giải "Prix du Livre Européen", và thúc đẩy bà tiếp tục viết thêm hai cuốn tiểu thuyết nữa để hoàn tất một bộ ba. Cuốn thứ nhì La Preuve [Bằng chứng] được xuất bản năm 1988, và cuốn cuối cùng của bộ ba tiểu thuyết là Le Troisième Mensonge [Lời nói dối thứ ba] được xuất bản năm 1991 và đoạt giải "Prix du Livre Inter" năm 1992. Sau đó, bà xuất bản tiểu thuyết Hier [Hôm qua] năm 1995, rồi tiểu thuyết L'Analphabète [Người Đàn Bà Mù Chữ] năm 2004. Hoàng Ngọc-Tuấn Sydney, 14/08/2006 *** Trở về ngôi nhà của bà, Lucas nằm xuống gần cái barie trong vườn, dưới bóng các bụi cây. Anh đợi. Một chiếc xe quân đội dừng trước tòa nhà bộ đội biên phòng. Vài chiến sĩ xuống xe và đặt xuống đất một cái xác bọc trong vải bạt ngụy trạng. Một viên trung sĩ ra khỏi tòa nhà, làm hiệu cho các chiến sĩ mở tấm bạt. Viên trung sĩ huýt sáo : - Muốn nhận dạng không phải dễ dàng gì đâu! Thật là ngu xuẩn mới đi vượt cái biên giới khốn kiếp này giữa ban ngày ban mặt. Một chiến sĩ nói: - Lẽ ra chúng ta phải biết rằng làm thế là không thể được. Một chiến sĩ khác nói: - Mọi người ở đây đều biết điều đó. Chính những người ở nơi khác đến mới ngu thế. Trung sĩ nói: - Thôi được, ta hãy đến gặp cái thằng ngốc ở kia xem sao. Có lẽ nó biết chút ít gì đó chăng. Lucas vào nhà. Anh ngồi trên chiếc ghế trong nhà bếp. Anh cắt bánh mì, đặt một chai rượu vang và pho mát sữa dê lên bàn. Có tiếng gõ cửa. Viên trung sĩ và một người kính bước vào. Lucas nói: - Tôi đang đợi các ông đây. Mời các ông dùng rượu vang và pho mát chứ. Người lính nói: - Rất sẵn sàng. Hắn lấy bánh mì và pho mát, Lucas rót rượu. Trung sĩ hỏi: - Cậu đang đợi chúng tôi à? Tại sao vậy? - Tôi nghe thấy có tiếng nổ. Sau tiếng nổ, nhất định thế nào cũng có người đến hỏi xem tôi có nhìn thấy ai đó không. - Thế cậu có nhìn thấy ai không? - Không. - Như mọi lần? - Vâng, như mọi lần, chẳng có ai đến báo cho tôi biết ý định vượt qua biên giới cả. Viên trung sĩ cười, rồi hắn cũng dùng rượu và pho mát: - Lẽ ra cậu phải thấy một kẻ nào đó lảng vảng quanh đây hoặc trong rừng chứ. - Tôi không hề trông thấy ai cả. - Nếu cậu trông thấy kẻ nào đó thì cậu có nói không? - Nếu tôi có nói cho ông biết thì ông cũng không tin tôi. Viên trung sĩ lại cười: - Đôi khi tôi tự hỏi tại sao người ta lại gọi cậu là thằng ngốc.- Tôi cũng tự hỏi như vậy. Chả là thời niên thiếu, trong chiến tranh tôi bị thần kinh do một chấn thương. Người lính hỏi: - Đó là bệnh gì vậy? Ý cậu muốn nói gì? Lucas giải thích: - Các cuộc ném bom đã làm cho cái đầu của tôi trục trặc. Điều đó xảy ra với tôi khi còn nhỏ. Trung sĩ nói: - Pho mát của cậu rất ngon. Cảm ơn, cậu hãy đi với chúng tôi. Lucas đi theo họ. Chỉ cái xác, trung sĩ hỏi: - Cậu có biết người đàn ông này không? Cậu đã trông thấy hắn bao giờ chưa? Lucas ngắm nhìn cái xác tan tác của bố anh: - Nó hoàn toàn biến dạng rồi. Trung sĩ nói: - Có thể nhận ra một người nào đó nhờ quần áo, giày dép hoặc nhờ bàn tay, hoặc tóc của người đó. Lucas nói: - Tôi thấy rõ là người này không ở thành phố chúng ta. Quần áo của hắn không phải của vùng này. Trong thành phố chúng ta không ai mặc quần áo lịch sự như vậy. Trung sĩ nói: - Cảm ơn cậu. Tất cả cái đó, chúng tôi cũng không ngu đâu. Tôi chỉ muốn hỏi xem cậu có nhìn thấy hoặc thoáng thấy hắn ở đâu đó không thôi. - Không, không thấy ở đâu cả. Nhưng tôi thấy móng tay của hắn bị dứt ra. Hắn đã ngồi tù. - Nhà tù của chúng tôi không tra tấn ai cả. Có điều lạ là trong túi của hắn hoàn toàn trống rỗng, ngay cả một tấm ảnh, một cái chìa khóa hoặc một cái ví cũng không có. Tuy nhiên để vào được khu biên giới hắn phải có thẻ căn cước và giấy thông hành chứ. - Chắc là hắn đã vứt trong rừng rồi. - Tôi cũng nghĩ vậy. Hắn không muốn bị nhận dạng. Tôi tự hỏi hắn muốn bảo vệ ai. Nếu tình cờ trong khi đi hái nấm cậu có tìm được cái gì khác thì cậu hãy mang đến cho chúng tôi nhé. - Hãy tin tôi đi, thưa trung sĩ. ° Lucas ngồi trên ghế dài trong vườn, tựa đầu vào bức tường trắng của ngôi nhà. Mặt trời làm anh chói mắt. Anh nhắm mắt lại: - Làm thế nào bây giờ? - Như trước kia thôi. Phải tiếp tục thức giấc buổi sáng, đi ngủ buổi tối, và làm cái phải làm để mà sống. - Sẽ lâu đấy. - Có lẽ là suốt đời. Tiếng kêu của gia súc đánh thức Lucas. Anh đứng dậy và đi chăm sóc chúng. Anh cho lợn, gà, thỏ ăn. Anh đi tìm dê bên bờ sông, đưa chúng về và vắt sữa, rồi mang vào nhà bếp. Anh ngồi xuống ghế và ở đó cho đên khi trời tối. Rồi anh đứng dậy, ra khỏi nhà, và đi tưới vườn. Đêm trăng rằm. Khi trở vào nhà bếp, anh ăn một chút pho mát và uống rượu vang. Anh nghiêng người nôn qua cửa sổ. Anh dọn lại bàn, vào buống bà và mở cửa sổ cho thoáng khí. Anh ngồi trước bàn trang điểm và soi mình trong gương. Một lát sau Lucas mở cửa buồng. Anh nhìn cái giường to, đóng cửa lại và đi ra thành phố. Phố xa vắng tanh. Lucas bước nhanh. Anh dừng chân trước một cửa sổ mở và có ánh đèn. Đó là một nhà bếp. Một gia đình đang dùngbuwax tối, có một bà mẹ và ba đứa con chung quanh bàn, hai đứa trai và một bé gái. Họ ăn súp khoai tây. Người cha không có đó, Có lẽ hắn đi làm, hoặc ngồi tù hoặc trong trại tập trung. Hoặc nữa hắn đã không trở về sau chiến tranh. Lucas đi ngang các quán rượu ồn ào mà cách đây không lâu, đôi khi anh đã từng chơi kèn harmonica. Anh không vào mà tiếp tục đi. Anh theo cái phố tối tăm dẫn đến nghĩa trang. Anh dừng lại trước mộ ông và mộ bà. Bà chết năm ngoái sau một trận tai biến não thứ hai. Ông thì chết đã lau lắm rồi. Người trong thành phố kể rằng ông đã bị vợ đầu độc. Cha Lucas hôm nay chết khi cố vượt biên giới, và rồi Lucas sẽ không bao giờ biết được nấm mộ của ông. Lucas về nhà. Bằng một sợi thừng, anh leo lên buồng áp mái. Trên đó có một ổ rơm, một cái chăn nhà binh cũ, một cái hòm. Lucas mở hòm, anh lấy ra một quyển vở học sinh và viết vào đó vài dòng. Anh đóng quyển vở lại, nằm xuống ổ rơm. Mẹ và em gái Lucas chết vì đạn trái phá, cách đây năm năm, chỉ vài ngày trước khi chiến tranh kết thúc, tại đây, trong vườn nhà bà. ° Lucas ngồi trên chiếc ghế dài trong vườn, mắt nhắm, Một chiếc xe tải ngựa kéo dừng trước nhà. Tiếng động làm Lucas thức giấc. Joseph, người trồng rau đi vào vườn. Lucas nhìn ông: - Bác Joseph, bác cần gì vậy? - Tôi cần gì ư? Hôm nay là phiên chợ. Tôi đã đợi cậu đến tận bây giờ. Lucas nói: - Cháu xin lỗi bác. Cháu quên mất hôm nay là phiên chợ. Nếu bác muốn thì chúng ta có thể nhanh chóng chất hàng lên xe. - Cậu không đùa chứ? Hai giờ chiều rồi. Tôi đến không phải để chất hàng, mà để hỏi xem cậu có còn muốn tôi bán hàng cho cậu không. Nếu không thì phải bảo tôi. Tôi thì thế nào cũng xong. Tôi làm thế chỉ là để giúp cậu tôi. - Tất nhiên là thế, bác Joseph. Chỉ là cháu quên mất phiên chợ. - Không chỉ có hôm nay cậu quên. Cậu còn quên cả tuần trước và tuần trước nữa kia. - Ba tuần kia ư? Cháu không nhận ra đấy.   Mời các bạn đón đọc Bằng Chứng của tác giả Agota Kristof.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiếng Cười Trong Bóng Tối
Tên eBook: Tiếng Cười Trong Bóng Tối (full prc, pdf, epub)  Tác giả: Vladimir Nabokov   Công ty phát hành: Nhã Nam   Nhà xuất bản: NXB Văn Học   Kích thước: 14 x 20.5 cm   Số trang: 269   Ngày xuất bản: 12/2014   Giá bìa: 75.000 đ   Chụp pic: Viễn Ảnh   Type: minh thúy phạm, Prince Ashitaka, Thanh Hoa   Beta: Tear   Tạo prc: Annabelle Tran   Nguồn: Hội chăm chỉ làm ebook free   Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Tiếng cười trong bóng tối xoay quanh chuyện của một nhà phê bình nghệ thuật đứng tuổi, giàu có tên là Bruno Krechmar. Ông là hình mẫu thành đạt mà nhiều người trong xã hội hướng tới. Nhưng trong những con người mẫu mực dường như luôn ẩn chứa những bế tắc. Chuyện ngoại tình của nhà phê bình là tâm điểm của tiểu thuyết Tiếng cười trong bóng tối. Bruno trở thành nạn nhân của những đam mê bị kìm nén do chính mình tạo ra. Để rồi, ông rơi vào bẫy của cặp tình nhân trẻ tuổi. Họ biến ông thành diễn viên chính trong vở hài kịch mà họ vừa là đạo diễn vừa là khán giả. Cuộc đời Bruno kết thúc trong thảm họa đúng như tác giả đã báo trước ngay đầu tác phẩm.   Ngoại tình vốn là câu chuyện đầy rẫy trong đời thường, và là đề tài quen thuộc trong văn chương. Nhưng Tiếng cười trong bóng tối đã kể một câu chuyện ngoại tình với tất cả chiều sâu nội tâm phức tạp, đầy màu sắc trong diễn biến được xem là phổ biến đến tẻ nhạt. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, tác giả đẩy giác quan người đọc đến cấp độ nhạy cảm nhất, đưa tới một trải nghiệm về nỗi thống khổ hài hước của con người.   Albinus, người đàn ông đứng tuổi, có gia đình, thành đạt trong sự nghiệp, tình cờ gặp Margot, một cô gái trẻ măng trong nhà hát, và cuộc gặp đó làm thay đổi số phận ông mãi mãi. Lúc đó, làm sao ông có thể biết được sự tươi mát nhường ấy, ngọt ngào dường ấy của tuổi xuân và sắc đẹp rồi sẽ dẫn ông đến đâu?   Nếu như Lolita  - tải eBook được tác giả Vladimir Nabokov dịch từ tiếng Anh sang tiếng Nga, thì Tiếng cười trong bóng tối lại được dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh. Trong quá trình chuyển ngữ, tác giả Nabokov đã nảy sinh ra nhiều tình tiết mới cho tác phẩm, và ông đã viết lại thành một Tiếng cười trong bóng tối hoàn toàn mới bằng tiếng Anh. Mời các bạn đón đọc.
Cõi Âm
Tên Ebook: Cõi Âm (full prc, pdf, epub) Bộ Sách: Nữ Thần Báo Tử-Soul Screamers (Tập 7) Tác Giả: Rachel Vincent Thể Loại: Best Seller,  Kỳ Ảo, Tiểu Thuyết, Tình Cảm, Văn học phương Tây Người dịch: Thanh Nga Công ty phát hành: Báo Sinh Viên VN - Hoa Học Trò Nhà xuất bản: NXB Trẻ Trọng lượng vận chuyển: 450 grams Kích thước: 15 x 24 cm Số trang: 300 Ngày xuất bản: 10/2013 Đánh máy: Đào Tiểu Vũ Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - http://www.dtv-ebook.com   Bìa sách Nữ Thần Báo Tử tập 7: Cõi Âm Giới thiệu: Cuộc hành trình của Rachel cùng hai chàng trai Nash-Tod và nhóm bạn chống các Tà Ma cuối cùng cũng đến chặng cuối. Vào ngày 30/10 tới đây, SOUL SCREAMERS tập 7 do tác giả Rachel Vincent chấp bút viết sẽ ra mắt phiên bản tiếng Việt do Hoa Học Trò phát hành. Tập 7 của SOUL SCREAMERS với tựa tiếng Anh “Will All My Soul” mới được tác giả Rachel Vincent cho ra mắt vào ngày 26/3 năm nay. Và Hoa Học Trò đã rất nhanh chóng mua bản quyền tác phẩm để sớm cho ra mắt bản dịch, đáp ứng mong muốn được đọc trọn bộ tác phẩm của cộng đồng teen yêu sách. Bạn nghĩ sao khi trường học của bạn được bầu là ngôi trường nguy hiểm nhất nước Mỹ? Đã đến lúc dạy cho đám tà ma một bài học… Sau cái chết không hề mong muốn của bản thân và cô bạn thân nhất, Kaylee Cavanaugh thề sẽ giành lại trường trung học Eastlake từ tay đám tà ma hắc ám Cõi Âm và trả lại sự bình yên cho ngôi trường. Cô sẽ tìm mọi cách để khiến cho đám hiện thân của Lòng Tham, Sự Đố Kỵ và Phù Hoa kia quay ra chống lại nhau, nhờ đó bảo vệ cho các bạn của mình và kết thúc cuộc chiến tranh này, một lần và mãi mãi. Nhưng rồi cô gặp hiện thân của Sự Phẫn Nộ và hiểu rằng mình đang lâm vào tình thế nguy hiểm hơn bao giờ hết. Và chỉ sau khi mất đi thêm một người thân nữa, Kaylee mới nhận ra rằng cô sẽ không thể cứu được tất cả những người thân yêu của mình nếu không mạo hiểm đánh đổi tất cả những gì cô có… Mời các bạn đón đọc.
Quy Luật của Muôn Đời - Nodar Dumbatze
Tên eBook: Quy Luật Của Muôn Đời (full prc, pdf, epub) Tác giả: Nodar Dumbatze Thể loại: Tiểu thuyết, Kinh điển, Văn học phương Tây Nhà xuất bản Cầu vồng Maxcơva – 1987 In theo bản dịch của Nhà xuất bản văn học Hà nội Người dịch: Phạm Mạnh Hùng Hiệu đính: Lê Anh Hiển File scan: Cải Đánh máy: notrinos Soát lỗi lần cuối: notrinos Chế bản: Tây Phong Lĩnh Nguồn: tve-4u.org Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Quy luật của Muôn Đời là một tác phẩm nổi tiếng của Dumbatzé. Nhân vật chính trong tác phẩm là Batsana, một nhà văn nhà báo lớn, Câu chuyện diễn ra khi ông bị nhồi máu cơ tim, phải nằm trong bệnh viện. “Con người ta cần ốm nặng ít nhất một lần trong đời. Như vậy sẽ có dịp phân tích và đánh giá lại toàn bộ quãng đường đã qua..” (Lời Batsana)   Thân thể nằm bất động trên gường bệnh, bằng suy tưởng, hồi ức, bằng trò chuyện với 2 người bệnh cùng phòng là Đức Cha Iôram và bác thợ giày Bulika, Batsana tìm lời giải đáp cho những câu hỏi: Ta sinh ra đời để làm gì? Hạnh phúc là thế nào? Bản chất của cái Thiện là gì? Cuối cùng ông đã tìm ra câu trả lời: Đó chính là Quy luật của Muôn đời. Mời các bạn đón đọc Quy luật muôn đời của tác giả Dumbatza.  
Kho báu của vua Solomon - H. Rider Haggard
Henry Rider Haggard (1856 - 1925) là một trong những nhà văn nổi tiếng trong lịch sử văn học Anh. Những tác phẩm nổi tiếng với những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn của ông được đông đảo bạn đọc khắp nơi trên thế giới yêu thích và tìm đọc.   Chính từ những cuộc phiêu lưu từ thơ ấu đã giúp cho ông có được kinh nghiệm quý báu trong mảng văn học này. Vào năm 1875, với tư cách là thư ký riêng của Toàn quyền Anh tại thuộc địa Natan, bản thân ông đã trực tiếp gặp không ít cuộc phiêu lưu mạo hiểm, và chính những cuộc mạo hiểm này đã tạo cho ông nguồn cảm hứng để viết tiểu thuyết "Kho báu của vua Solomon". Cuốn tiểu thuyết nhanh chóng thu hút và lôi cuốn được độc giả bởi chuyến phiêu lưu kỳ thú. Tên tuổi của ông đã đi xa khỏi biên giới nước Anh và đến với hầu hết các bạn đọc trên thế giới.   Tác phẩm "Kho báu của vua Solomon" được coi là "tiểu thuyết thuộc địa" rất phổ biến tại văn học Tây Âu những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trong tác phẩm, ông đã giúp những người bản xứ, những người thời đó bị coi là "mọi đen" lên án sự áp bức bóc lột của tộc người da trắng. Ngay từ trang đầu ông đã viết: "Trong đời, tôi đã gặp nhiều mọi đen. Không, tôi xin xóa chữ ấy, tôi không thích dùng nó. Tôi đã gặp nhiều người bản xứ thực sự là những người tử tế, đáng kính. Tôi cũng biết không ít những người da trắng đểu cáng, tồi tệ và chẳng bao giờ là người tử tế, dù họ có rất nhiều tiền...".   *** Theo truyền thuyết lịch sử và văn hóa cổ đại, Solomon thường được gọi là một Quốc Vương lý tưởng, một ông vua thánh hiền. Thực ra ông ta là một bạo chúa, ông ta đánh thuế nặng nề, thực thi cưỡng bức lao động, bắt thần dân phải xây dựng một cung điện và miếu thần vô cùng tráng lệ trên Núi Jerusalem. Trong Kinh Thánh đã ghi lại chân thực câu chuyện Solomon xây dựng thần Jéhova: "Solomon cho là cần phải xây cho Thần Jéhova một cung điện thờ, cho mình một cung điện. Thế là Salomon cho tuyển 8 vạn phu khuân vác, 8 vạn thợ đục đá và 3600 đốc công đến xây dựng".   Theo Kinh Thánh viết: Solomon ra lệnh 20 vạn người xây dựng miếu thần đều không phải là người Israel. Ông ta lại chọn trong người Israel được 5 vạn nhân công làm lao dịch. Công trình đó kéo dài đến 7 năm. Điện thần này hướng từ Đông sang Tây dài 250m, rộng hơn 90m được xây dựng cẩn trọng chặt chẽ, nguy nga tráng lệ, phía bên trong trang trí vô cùng hoa mỹ. Thật là một tác phẩm kiến trúc tuyệt vời. Điện thần này đã trở thành trung tâm tôn giáo và hoạt động chính trị của người Do Thái Cổ, đồng thời cũng là biểu tượng của họ.   Hàng ngày, các giáo đồ đến đây để bái yết và hiến tế thần linh. Đá Thánh A La được đặt giữa điện thần. Đá Thánh cao 20m rộng 15m, là một tảng đá hoa cương, được dỡ bởi hai trụ đá cẩm thạch tròn. Phía dưới Đá Thánh là Nham Đường cao 35m, bên trong có bàn thờ, trên bàn thờ đặt một hòm thánh có khắc dòng chữ "Maxi Thập giới" còn gọi là "Mười lời răn của Thánh Jéhova", Jéhova là giáo chủ của Đạo Do Thái. Trong hòm thánh, ngoài những điều răn của Thánh còn có Tây Nại pháp điển. Hòm Thánh được làm bằng vàng ròng, gọi là Hòm của Jéhova cũng còn gọi là Hòm ước vàng. Nó được người Do Thái cổ đại coi là Bảo vật giữ nước liên quan đến việc tồn vong hưng thịnh của dân tộc Do Thái. Ở phía dưới Đá Thánh A La, Solomon cho xây một căn hầm và một đường hầm bí mật. Theo truyền thuyết Solomon đã cất giấu ở căn hầm và đường hầm này rất nhiều châu báu và các đồ vật quý giá. Đó chính là Kho báu của vua Solomon mà cả Thế giới đều đã được nghe nói tới.   Mời các bạn đón đọc Kho báu của vua Solomon của tác giả Henry Rider Haggard.