Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Tây Không Có Gì Lạ (Erich Maria Remarque)

Erich Maria Remarque (1898-1970) đã phục vụ trong Thế chiến thứ nhất và đã bị thương tất cả năm lần. Những hình ảnh ghê rợn của cuộc chiến trong giao thông hào đã để lại những vết sẹo không phai mờ trong tâm trí Remarque nên ông cố xua đuổi những bóng ma đó qua các sáng tác văn học. “Phía Tây không có gì lạ” là tác phẩm hay nhất của ông dù chín tác phẩm khác ông cũng viết về những đau đớn, khổ cực trong chiến tranh.

“Phía Tây không có gì lạ" là câu chuyện về Pôn Baomơ, một người lính Đức trẻ, xung phong vào quân đội vì Căntôrec, vị giáo sư của anh, đã thuyết phục cả lớp tham gia quân đội để làm cho nước Đức được vẻ vang. Sau một thời kỳ huấn luyện gian khổ dưới quyền của Himmenxtôt, một phu trạm, Baomơ và các bạn ra tiền tuyến. Dù được vẽ vời trong nhà trường với những hình ảnh huy hoàng của các anh hùng, Baomơ nhanh chóng nhận thức được rằng những chiến hào đầy máu của Mặt trận phía Tây là một sa lầy của những khổ đau và chết chóc. Ngay khi những quả đạn pháo đầu tiên nổ tung trong bùn lầy, Baomơ và các bạn thấy rằng tất cả những người ở lại nhà đều dối trá: chiến tranh không phải là một thay đổi vinh quang, chiến tranh không làm cho các cậu con trai trưởng thành mà nó hủy diệt một cách có hệ thống tất cả những ai khỏe mạnh và lịch sự. Tất cả các bạn của Baomơ đều chết, bị thương, hoặc đào ngũ. Pôn Baomơ bắt đầu tự vấn về cuộc đời mình và băn khoăn không biết mình có sống sót được sau cuộc chiến hay thậm chí có sống được trong một thế giới không có chiến tranh hay không.

Xuyên suốt câu chuyện, Remarque thường dùng từ “chúng tôi” để nói lên tình đồng đội - cái quý nhất mà chiến tranh tạo nên. Những người lính ấy đã trải qua những giây phút cận kề cái chết cùng nhau nên họ gắn bó với nhau, chia sẻ với nhau tất cả những gì họ có. “Chúng tôi không nói nhiều nhưng chúng tôi để ý săn sóc nhau từng ly từng tí, thiết tưởng còn hơn cả những cặp tình nhân. Chúng tôi là hai con người, hai tàn lửa sống nhỏ bé, và ngoài kia, là đêm tối, là vòng vây của thần chết.”

*** húng tôi nằm sau chiến tuyến chín cây số. Đại đội vừa được thay phiên hôm qua; lúc này cả bọn vừa ăn căng rốn món đậu trắng hầm thịt bò, no nê và hài lòng. Thậm chí mỗi thằng còn được thêm một cà mèn đầy dành cho bữa tối; đã vậy còn lĩnh cả khẩu phần kép xúc xích và bánh mì - thật là quá đã. Lâu lắm rồi chẳng có bữa nào thỏa thuê như thế này: gã đầu bếp với tấm thân bò mộng và cái đầu cà chua đỏ lựng đích thân đem đồ ăn ra mời anh em; ai đi ngang qua gã cũng vẫy vẫy cái muỗng gọi lại và úp cho một muỗng đầy tú hụ. Gã đang tuyệt vọng lắm, vì không biết làm cách nào trút cho hết cái nồi quân dụng to vật này. Tjaden và Müller lôi đâu đến mấy cái chậu và để gã múc cho đầy phè đến tận miệng chậu. Tjaden làm thế vì háu ăn, còn Müller vì lo xa. Mọi người chịu không hiểu Tjaden tọng rõ lắm mà chả biết thức ăn chui đằng nào hết. Trước nay lúc nào cậu ta cũng gầy đét như con cá mắm.

Nhưng quan trọng nhất là có cả khẩu phần kép thuốc hút. Mỗi người được mười điếu xì gà, hai mươi điếu thuốc lá và hai miếng thuốc lá nhai, quả là rất đàng hoàng lịch sự! Tôi đổi chỗ thuốc nhai của mình lấy thuốc lá của Katczinsky, thế là tôi có bốn mươi điếu. Đủ xài cho cả ngày. Tìm mua: Phía Tây Không Có Gì Lạ TiKi Lazada Shopee

Thật ra thì tất cả những món quà bất ngờ này không dành cho chúng tôi. Người Phổ đâu có hào phóng thế. Chúng tôi vớ bở chỉ nhờ một sự nhầm lẫn.

Mười bốn ngày trước chúng tôi phải lên tuyến đầu vì đến phiên giữ chốt. Khu vực chúng tôi cắm quân khá yên tĩnh, và vì vậy để chuẩn bị cho ngày chúng tôi trở về viên quản lý đã lĩnh khẩu phần ăn thông thường đủ cho cả một trăm năm mươi lính toàn đại đội. Nhưng đúng vào ngày cuối cùng, với số lượng pháo nòng dài và pháo hạng nặng nhiều đến kinh ngạc, quân Anh đã liên tục nã đạn vào vị trí của chúng tôi, khiến chúng tôi chịu tổn thất nặng nề tới mức chỉ còn tám chục mống quay về.

Chúng tôi rút quân vào ban đêm và lập tức lăn ra đánh một giấc cho đã đời; vì Katczinsky nói đúng: chỉ cần lính tráng được ngủ nhiều hơn thì chiến tranh cũng chẳng đến nỗi nào. Thế nhưng ở tiền tuyến có bao giờ được ngủ cho ra giấc đâu, và mỗi phiên chốt mười lăm ngày lại quá là lâu.

Khi những thằng đầu tiên trong chúng tôi bò ra khỏi các lán trú quân thì trời đã trưa. Nửa giờ sau, mọi người đều vớ lấy cà mèn, kéo nhau đến tụ trước nồi thịt hầm vừa chín tới đang tỏa mùi béo ngậy. Đứng đầu tiên cố nhiên là những thằng háu đói nhất: Albert Kropp nhỏ thó, suy nghĩ sáng suốt nhất bọn nên vừa mới được lên binh nhất; Müller V, vẫn tha theo những cuốn sách giáo khoa bên mình và mơ tới kỳ thi tranh thủ ngày về phép, dưới màn đạn lửa vẫn cày các định luật vật lý; Leer, râu quai nón, rất thích các cô gái trong nhà thổ dành cho sĩ quan thề sống thề chết rằng theo lệnh nhà binh thì các cô có nghĩa vụ phải mặc áo sơ mi lụa và phải tắm trước nếu tiếp khách từ cấp đại úy trở lên; và người thứ tư là tôi, Paul Bäumer. Cả bốn thằng cùng mười chín tuổi, cả bốn thằng cùng từ một lớp học đi thẳng vào cuộc chiến.

Ngay sau lưng bọn tôi là đám bạn thân, Tjaden, một thợ khóa gầy gò, trạc tuổi bọn tôi, chén khỏe nhất đại đội. Cậu ta ngồi xuống bàn ăn người mảnh như que tăm, nhưng khi đứng dậy thì bụng kệnh như con rệp chửa; Haie Westhus, bằng tuổi, thợ than bùn, có thể dễ dàng nắm gọn một ổ bánh mì lính trong lòng bàn tay mà đố: “Đoán xem, trong tay tớ có gì?”; Detering, nông dân, chỉ nghĩ đến nông trại và vợ của mình; và cuối cùng là Stanislaus Katczinsky, thủ lĩnh của nhóm chúng tôi, gan lì, láu lỉnh, dày dạn, tuổi đã tứ tuần, mặt nâu như đất thó, mắt xanh lơ, vai xuôi thõng và có khứu giác kỳ diệu, ngửi ra ngay những mối nguy hiểm, những món ăn ngon, những chỗ nấp tốt. Nhóm chúng tôi đứng đầu đội quân xếp hàng rồng rắn trước quầy bếp lưu động. Chúng tôi bắt đầu sốt ruột, vì gã đầu bếp thẫn thờ vẫn còn đứng ì ra đấy mà đợi. Cuối cùng Katczinsky réo về phía gã: “Mở thùng súp của cậu ra đi chứ, Heinrich! Ai cũng thấy là đậu nhừ rồi kìa.”

Gã kia lắc đầu như ngái ngủ. “Các cậu phải có mặt đông đủ đã.”

Tjaden nhe răng cười. “Bọn tôi đến đủ rồi.”

Gã hạ sĩ quan anh nuôi vẫn chưa mảy may biết gì. “Các cậu đừng có tưởng bở! Thế còn những người khác đâu cả?”

“Hôm nay họ không xơi cơm của cậu! Họ đang nằm ở quân y viện và dưới mồ chung rồi.”

Con bò nấu bếp như bị một đòn chí mạng khi biết được sự thật. Gã lảo đảo.

“Thế mà tôi lại nấu cho những một trăm năm mươi người.”

Kropp huých vào sườn gã. “Vậy thì bọn này cuối cùng cũng được một bữa no. Thôi, bắt đầu đi!”

Nhưng trong đầu Tjaden chợt lóe lên một ý nghĩ. Cái mặt chuột nhọn hoắt của cậu ta sáng rỡ lên, cặp mắt nheo lại đầy vẻ láu cá, hai gò má giật giật, cậu ta sán đến gần gã đầu bếp hơn: “Này nhóc, vậy là cậu cũng đã lĩnh cả phần bánh mì cho một trăm năm mươi người, hả?” Gã kia gật đầu trong lúc còn chưa hết choáng váng và hồn vía vẫn ở trên mây. Tjaden túm lấy áo gã. “Cả xúc xích à?”

Cái đầu cà chua lại gật.

Xương quai hàm Tjaden run lên. “Cả thuốc lá nữa chứ?”

“Phải, tất tần tật.”

Tjaden mặt mày sáng rỡ ngó ra xung quanh. “Mẹ kiếp, thế này gọi là đỏ hơn son đây! Vậy là tất cả dành cho anh em ta! Mỗi thằng sẽ được… xem nào… đúng rồi, chính xác là gấp đôi khẩu phần!”

Nhưng lúc này gã cà chua đã hoàn hồn, gã tuyên bố: “Thế không được.”

Giờ thì cả bọn chúng tôi cũng phấn chấn hẳn lên, xô nhau sấn gần lại.

“Sao lại không được, cái đồ óc bã đậu kia?” Katczinsky vặn.

“Tiêu chuẩn cho một trăm năm mươi người, không thể chia cho tám mươi người được.”

“Rồi chúng tao sẽ cho mày biết,” Müller gầm gừ.

“Thức ăn thì còn được, chứ những thứ khác tôi chỉ có thể phát đủ tám mươi suất,” gã cà chua khăng khăng một mực.

Katczinsky nổi cáu: “Xem chừng phải thuyên chuyển mày khỏi đây, hả? Mày đã lĩnh khẩu phần không phải cho tám mươi lính, mà cho đại đội hai, vậy thôi. Giờ bỏ cả ra đây! Đại đội hai là chúng tao đây này!”

Chúng tôi áp sát gã đầu bếp. Chẳng ai chịu nổi gã, đã nhiều phen do lỗi của gã mà ở ngoài chiến hào chúng tôi phải nhận bữa ăn vừa quá muộn vừa nguội ngắt, vì đạn pháo chỉ mới đùng đoàng một tí là gã đã không dám bê nồi thức ăn lại gần hơn, cho nên anh em đại đội chúng tôi đi lấy đồ ăn phải đánh đường xa hơn anh em các đại đội khác rất nhiều. Bulcke ở đại đội một chẳng hạn là một đầu bếp khá hơn hẳn. Tuy béo như con chuột đồng, nhưng khi cần, anh ta vẫn tự tay lễ mễ tha thức ăn lên tận tuyến đầu.

Chúng tôi đang bức xúc ghê gớm, và nếu viên chỉ huy đại đội không xuất hiện đúng lúc thì thế nào cũng có thằng bị chẻ nhỏ như chẻ củi. Ông ta hỏi lý do cuộc cãi vã và chỉ nói: “Phải, ngày hôm qua chúng ta đã có những tổn thất nặng nề…”

Rồi ông ta ngó vào chiếc nồi lớn. “Món đậu này trông có vẻ ngon đây.”

Gã cà chua gật đầu. “Hầm với mỡ và thịt đấy ạ.”

Viên trung úy nhìn chúng tôi. Ông ta biết chúng tôi đang nghĩ gì. Ông ta cũng biết nhiều chuyện khác nữa, vì ông ta đã trưởng thành giữa chúng tôi, khi đến đại đội ông ta mới chỉ là hạ sĩ quan. Ông ta lại nhấc vung nồi lên một lần nữa và hít hít. Trước khi bỏ đi, ông ta bảo: “Nhớ mang cả cho tôi một đĩa đầy nhé. Và chia tất cả các khẩu phần đi. Chúng ta có thể cần đến chúng.”

Gã cà chua thộn mặt ra. Tjaden nhảy nhót quanh gã.

“Cậu có thiệt gì đâu kia chứ! Cứ làm như cả kho lương thực là của mình không bằng… Nào thôi bắt đầu đi, đồ săn mỡ già đời, và đừng có đếm nhầm đấy…”

“Treo cổ mày lên!” gã cà chua gầm gừ. Gã tức nổ mắt, chuyện như thế này đi ngược với lý trí của gã. Gã không còn hiểu cái thế giới này nữa. Và để tỏ ra giờ đây gã cũng bất cần tất cả, gã còn tự động chia thêm cho mỗi người hai lạng rưỡi mật ong nhân tạo.

Hôm nay quả là một ngày đẹp. Lại có cả quà của quân bưu, hầu như ai cũng nhận được vài lá thư và báo. Lúc này chúng tôi thong thả đi về phía đồng cỏ sau lán trú quân. Kropp cắp dưới nách cái nắp tròn của thùng bơ thực vật.

Người ta đã xây bên rìa phải đồng cỏ một chuồng xí công cộng to đoành - một ngôi nhà chắc chắn, lợp mái đàng hoàng. Nhưng chỗ ấy chỉ dành cho bọn lính mới tò te chưa học được cách rút tỉa những điều hay ho từ mỗi việc dù nhỏ nhất. Bọn tôi tìm cái gì khác thú vị hơn kia. Số là nơi đây rải rác những cái thùng nho nhỏ với cùng một mục đích sử dụng - hình vuông, sạch sẽ, đóng toàn bằng gỗ, bốn bề bịt kín, bên trên là bệ ngồi thuận tiện, không chê vào đâu được. Hai bên thùng gắn quai xách, nên có thể dịch chuyển thoải mái.

Bọn tôi kê ba cái thùng châu vào nhau và khoan khoái ngồi xuống. Bét ra phải hai tiếng nữa cả bọn mới chịu đứng lên.

Tôi vẫn nhớ hồi còn là tân binh vừa chân ướt chân ráo đến doanh trại, cả bọn đã xấu hổ như thế nào khi lần đầu tiên phải dùng chuồng xí công cộng. Chẳng có cửa nẻo gì cả, hai chục thằng ngồi kề bên nhau như trong toa tàu. Chỉ lướt mắt một phát là bao quát cả lũ… thì lính tráng cần được giám sát thường xuyên mà.

Từ bấy đến nay chúng tôi đã học được cách vượt qua nhiều thứ hơn là vượt qua chỉ một nỗi xấu hổ cỏn con đó. Thời gian trôi đi, chúng tôi đã quen với những điều còn đáng xấu hổ hơn.

Nhưng làm chuyện này giữa trời đất quả thật là quá sướng. Tôi không còn nhớ tại sao trước kia lúc nào bọn tôi cũng ngại ngùng khi đi ngang qua những cái thùng này, vì chúng cũng tự nhiên như ăn uống thôi mà. Và có lẽ cũng không cần phải nhiều lời về chúng, nếu như chúng không đóng một vai trò quan trọng với bọn tôi, và nếu chúng chẳng mới lạ ngay với chính bọn tôi như thế… vì thực ra từ lâu chúng đã quá đương nhiên.

Tiêu hóa và bài tiết là những vấn đề thiết thân với người lính hơn với bất cứ người nào khác. Ba phần tư từ vựng của người lính từ đó mà ra, và khi thể hiện niềm vui sướng cực độ hay nỗi căm giận sâu sắc nhất thì từ ngữ anh ta dùng đều bắt nguồn từ chỗ này. Quả là không có cách nào khác để biểu lộ cảm xúc một cách ngắn gọn và rõ ràng đến thế. Cha mẹ và các thầy cô giáo hẳn sẽ lạ lùng lắm khi chúng tôi trở về nhà với lời ăn tiếng nói như vậy, nhưng ở ngoài mặt trận thì nó quá là quen tai.

Đối với chúng tôi, toàn bộ những tiến trình này đã lấy lại được đặc tính ngây thơ, vì chúng bắt buộc phải diễn ra giữa chốn công cộng. Hơn thế nữa: chúng tôi xem chúng đương nhiên đến nỗi việc hoàn thành chúng cũng khoan khoái ngang với thắng một ván bài ở mức đặt cược cao nhất. Không phải tự nhiên lại sinh ra cái từ “khẩu ngữ cầu tiêu” để chỉ đủ loại chuyện tán nhảm. Những chỗ giải quyết “nỗi buồn” là góc buôn chuyện, là nơi tụ bạ quen thuộc của lính.

Khoảnh khắc này đây bọn tôi đang cảm thấy thoải mái hơn là ngồi trong buồng vệ sinh sang trọng lát gạch men trắng. Nơi đó chỉ có thể sạch sẽ, chứ ở đây mới khoan khoái dễ chịu.

Đó là những thời khắc vô tư lự tuyệt vời. Bên trên chúng tôi bầu trời xanh biếc. Xa xa phía chân trời lơ lửng những quả khinh khí cầu màu vàng rực sáng trong nắng và những vệt khói nhỏ màu trắng của những viên đạn cao xạ. Đôi khi chúng vọt lên thành chùm để rượt theo một phi cơ.

Tiếng gầm của đạn pháo vẳng về đây chỉ ì ầm tựa một cơn dông từ nơi xa lắm. Những con ong đất vo ve bay ngang cũng đủ át hết cả.

Và bao quanh chúng tôi là cánh đồng cỏ đầy hoa. Những ngọn cỏ non đu đưa, những cánh bướm trắng rập rờn đến gần, chúng chao liệng trong làn gió êm ái, ấm áp cuối hạ; còn chúng tôi đọc thư, đọc báo và hút thuốc, chúng tôi bỏ mũ ca lô đặt xuống bên cạnh mình, làn gió đùa trên mái tóc chúng tôi, đùa với những lời nói, những ý nghĩ của chúng tôi.

Ba cái thùng của ba thằng đứng giữa đám hoa anh túc đỏ rực…Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Erich Maria Remarque":Ba Người BạnBia Mộ ĐenKhải Hoàn MônLửa Yêu Thương Lửa Ngục TùPhía Tây Không Có Gì LạThời Gian Để Sống Và Thời Gian Để ChếtTuyển Tập Erich Maria Remarque

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Phía Tây Không Có Gì Lạ PDF của tác giả Erich Maria Remarque nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Bước Mở Đầu Của Sự Mở Rộng Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (Nguyễn Xuân Thọ)
Đây là cuốn sách được phát triển từ một phần luận án Tiến sĩ của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thọ. Nhận xét về công trình/ tác phẩn của TS Nguyễn Xuân Thọ, Ông Maurice Beaumont, thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, Giáo sư danh dự Đại học Sorbonne ngày 15/11/1966 đã viết: “Về phương diện trí thức, ông [Nguyễn Xuân Thọ] đã bắt đầu sưu tập ở Pháp và ở Tây Ban Nha (cũng gọi là Y Pha Nho), tư liệu cho một luận án Tiến sĩ, mà ông đã thuyết trình và bảo vệ tại Đại học Sorbonne, vào tháng 7 năm 1956, về "Cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha tại Nam bộ Việt Nam (mà người Pháp gọi là Cochichine) nam 1858-1862". Cuộc sưu tập ấy như công trình của một sử gia, chính xác về phương pháp, tao nhã về hình thức (cách trình bày). Lúc ấy, tôi là một thành viên trong ban khảo thí, có trách nhiệm sát hạch và đánh giá luận án đó, luận án đã được xếp hạng Tối Ưu (Très Honorable). Và ông Thọ đã tiếp tục công trình của ông, bằng cuộc nghiên cứu này, về sự thâm nhập của người Pháp vào Việt Nam (1858-1897). Công trình này, trong đó, ông Nguyễn Xuân Thọ đã dành một phần lớn cho các tài liệu chính thức, phần nhiều là chưa được tiết lộ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn, một số giai đoạn trong lịch sử những liên hệ giữa Pháp và Việt Nam vào thế kỷ vừa qua. Đồng thời, công trình này cũng soi sáng chúng ta về tấn thảm kịch đang chia cắt mảnh đất đau khổ này của Á Châu, trên cả hai bình diện chính trị và tôn giáo.” “Bằng cách đưa vào quyền sách này những văn kiện ngoại giao, mà phần lớn chưa được tiết lộ, tác giả cố gắng góp phần xác định một số giai đoạn lịch sử những buổi đầu trong sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam. Tác phẩm này sẽ không chú trọng nhiều đến phương pháp tổ chức hành chánh địa phương, do tay người Pháp, tại Việt Nam, mà chỉ nhấn mạnh về bình diện chánh trị, ngoại giao và quốc tế của công cuộc thâm nhập này. Một công tác rất có giá trị. Bản thảo này quả là độc đáo, hơn hết các công trình nghiên cứu của các sử gia khác…” - Hoàng Xuân Hãn Tìm mua: Bước Mở Đầu Của Sự Mở Rộng Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam TiKi Lazada Shopee ***Paris, ngày 15 tháng 11, năm 1966 Quen biết rõ ông Nguyễn Xuân Thọ, từ nhiều năm, tôi đã có thể đánh giá cao, một cách liên tục, những đức tánh về trí thức và đạo đức của ông ấy. Về phương diện trí thức, ông đã bắt đầu sưu tập ở Pháp và ở Tây Ban Nha (còn gọi là Y-Pha-Nho), tư liệu của một luận án Tiến sĩ, mà ông đã thuyết trình và bảo vệ tại Đại học Sorbonne, vào tháng Bảy năm 1956, về “Cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha tại Nam bộ Việt Nam(1) năm 1858-1862.” Cuộc sưu tập ấy đã cho thấy như công trình của một sử gia đủ tư cách, cả về mặt chính xác của phương pháp, lẫn về mặt tao nhã của hình thức (cách trình bày). Lúc ấy, tôi là một thành viên trong ban khảo thí, có trách nhiệm sát hạch và đánh giá luận án đó, luận án đã được xếp hạng “Très Honorable” (Tối ưu). Và ông Thọ đã tiếp tục công trình của ông, bằng cuộc nghiên cứu này, về sự thâm nhập của người Pháp vào Việt Nam (1858-1897). Công trình này, trong đó, ông Nguyễn Xuân Thọ đã dành một phần lớn cho các tài liệu chính thức, phần nhiều là chưa được tiết lộ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn, một số giai đoạn trong lịch sử những liên hệ giữa Pháp và Việt Nam vào thế kỷ vừa qua. Đồng thời, công trình này cũng soi sáng chúng ta về tấn thảm kịch đang chia cắt mảnh đất đau khổ này của Á châu, trên cả hai bình diện chánh trị và tôn giáo. Về phương diện đạo đức, ông Nguyễn Xuân Thọ đã chứng tỏ với tôi một đức tánh trung thực vẹn toàn. Theo nhãn quang tôi, ông là một trong số những người Việt Nam có khả năng đảm trách công cuộc phục hưng đất nước của ông, bằng cách sử dụng văn hóa Pháp, mà ông đã khéo kết hợp được, trong một tinh thần độc lập dân tộc và khách quan khoa học. Maurice BAUMONT Thành viên Viện Hàn Lâm Pháp,Giáo sư danh dự Đại học Sorbonne.Connaissant M.NGUYEN XUAN THO depuis plusieurs années. j’ai pu apprécier d’une facon continue ses qualités intellectuelles et morales. Au point de vue intellectuel, il a commencé de réunir, en France et en Espagne, la documentation d’une thèse de doctorat, soutenue à la Sorbonne en juillet 1956, sur “L’expédition franco espagnole de Cochinchine (1858-1862)”, et qui s’est révélée l’oeuvre d’un historien qualifié tant par la rigueur de la méthode que l’élégance de la forme. Je faisais partie du jury chargé d’examiner et de côter cette thèse qui lui a valu la mention “Très Honorable”. Il a continué son travail par cette étude de la pénétration francaise au Viet Nam (1858-1897). Ce travail, dans lequel M. NGUYEN XUAN THO a réservé une large place aux documents officiels pour la plupart inédits, nous aide à mieux comprendre certains épisodes de l’histoire des relations entre la France et le Viet Nam au siècle dernier, en même temps qu’il nous éclaire sur le drame qui déchire actuellement ce malheureux pays d’Asie tant sur le plan politique que religieux. Au point de vue moral, M. NGUYEN XUAN THO m’a toujours donné la preuve d’une honnêteté intégrale; il est à mes yeux l’un des Vietnamiens susceptibles d’assurer le relèvement de son pays en utilisant la culture francaise qu’il a su s’incorporer dans un esprit d’indépendance nationale et d’objectivité scientifique.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bước Mở Đầu Của Sự Mở Rộng Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam PDF của tác giả Nguyễn Xuân Thọ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bùn Pha Sắc Xám (Anthony Grey)
Cho đến khi người Anh trao miền Nam Việt Nam lại cho người Pháp đầu năm 1946, thì đã có hơn hai ngàn người Việt bị quân Anh sát hại. Tại miền Bắc, lực lượng giải giới Trung Hoa cuối cùng chịu rút khỏi Việt Nam vào tháng 3 năm 1946 qua một thỏa ước mà họ đã ký kết với Pháp, theo đó Trung Hoa nhường cho Pháp đưa một số quân vào miền Bắc Việt Nam, ngược lại người Pháp phải trả cho Trung Hoa tất cả những Tô giới mà họ đang chiếm giữ. Chính phủ Hồ Chí Minh lúc này vẫn còn yên ổn đóng tại Hà Nội, và mặc dù Paris đã chính thức công nhận chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ của Việt Minh trong Liên Hiệp Pháp, nhưng Việt Minh vẫn hết sức dè dặt chào đón sự trở lại của lực lượng Pháp. Trước đó, đã có nhiều cuộc thảo luận giữa Hồ Chí Minh và Pháp diễn ra, cho mãi đến mùa Thu năm này, nhưng Pháp vẫn ù lỳ cương quyết không chịu trao trả nền Độc Lập hoàn toàn cho Việt Nam. Cũng kể từ đó, việc xung đột giữa đôi bên không còn cách nào tránh khỏi được. Việt Nam lúc bấy giờ vẫn không được thế giới bên ngoài chú ý tới, trong khi đó Nga Xô lại nới rộng vùng ảnh hưởng của mình tại Đông Âu và Trung Âu. Tổng Thống Harry Truman của Hoa Kỳ quyết định ủng hộ nước Pháp, vì Pháp hiện đang đóng một vai trò rất quan trọng trong lãnh vực chiến tranh lạnh tại Âu Châu. Hồ Chí Minh đã nhiều lần viết thơ cho Tổng Thống Truman để xin Hoa Kỳ ủng hộ mình, nhưng tất cả thư từ đó, đều không được Hoa Kỳ phúc đáp. Việc Hoa Kỳ ủng hộ Pháp thật ra đối với bộ Ngoại Giao của quốc gia này vẫn không có gì thay đổi, nhưng vì lúc bấy giờ sự thắm thiết giữa cơ quan OSS (Cơ Quan Tình Báo Chiến Lược của Hoa Kỳ) và Việt Minh vào những ngày chót của cuộc chiến tranh thứ hai vừa qua đã làm cho nhiều nhà ngoại giao của Hoa Kỳ phải khó chịu. Washington đã bất ngờ chính thức tuyên bố là Hoa Kỳ sẽ tôn trọng chủ quyền của người Pháp tại Đông Dương và chấm dứt nhiệm vụ của OSS tại Việt Nam, đồng thời cho rút khỏi Hà Nội vào tháng 10 năm 1945. Mãi cho đến về sau này, các nhà lãnh đạọ Hoa Kỳ mới thấy tiếc rẻ là họ đã bỏ mất một cơ hội bằng vàng để có thể biến Hồ Chí Minh thành một Tito của Á Châu thân Tây Phương. Trong thời gian lên cầm quyền, Hồ Chí Minh đã nắm vững tình hình của dân chúng và khi cuộc chiến tranh với Pháp bộc phát trở lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào ngày 19 tháng 11 năm 1946, Hồ Chí Minh lại một lần nữa rút vào các hang núi đá vôi miền thượng du Bắc Việt, nơi mà cách đây mười sáu tháng trước ông ta đã bỏ nơi này để nhảy ra cướp chính quyền. Trong khoảng thời gian ngắn đó, chính phủ Hồ Chí Minh đã khắc phục được nạn đói tại miền Bắc bằng cách vận động toàn dân tức tốc trồng trọt trên bất cứ khoảnh đất trống nào, và chính phủ của ông ta đã thắng được dễ dàng cuộc bầu cử tại Nam và Trung phần. Ưu thế của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đã khiến cho Việt Minh không ngần ngại cho áp dụng các chiến thuật khủng bố đối với những người Quốc Gia chống đối với họ. Cộng Sản đã mưu sát hầu hết các lãnh tụ thù nghịch nổi tiếng của họ vào những ngày đầu của cuộc hỗn loạn này. Điều rõ ràng nhứt là Việt Minh đã được đại đa số quần chúng chấp nhận, cho nên sau khi chiến tranh với Pháp bộc khởi trở lại, người Pháp đã thấy rằng dù với một trăm năm chục ngàn quân có mặt tại đây, thì họ cũng chỉ có thể kiểm soát được các vùng trung tâm thị tứ và các trục giao thông chính mà thôi, trong khi đó Việt Minh đặt thế lực của họ tại các làng mạc hẻo lánh, các đồng ruộng và các vùng rừng rú. Sau khi Pháp thắng được vài trận trên các chiến trường thì tình hình quân sự của Pháp được nới rộng hơn và kéo dài cho đến tháng 10 năm 1949, khi mà Cộng Sản Mao Trạch Đông thắng thế tại Trung Hoa thì người ta thấy cục diện thế giới có nhiều thay đổi. Chỉ trong vòng một đêm, bỗng dưng lãnh thổ của Trung Hoa đã trở thành căn cứ an toàn cho Hồ Chí Minh ém quân và là nơi huấn luyện lý tưởng cho các binh sĩ dưới quyền của Tướng Võ Nguyên Giáp. Chỉ trong vòng vài tháng, lực lượng của Việt Minh bành trướng thành một quân đội được trang bị với đại bác tối tân của Hoa Kỳ do Cộng Sản Trung Hoa tịch thu được của tàn quân Tưởng Giới Thạch. Cũng từ đó trở đi, việc Pháp có thể chiến thắng Việt Minh trên các chiến trường đã trở nên không còn cách nào thực hiện được nữa. Tìm mua: Bùn Pha Sắc Xám TiKi Lazada Shopee Cuối năm 1950, Việt Minh tung bốn mươi ba Tiểu Đoàn mới vừa thành lập vượt biên giới Trung Hoa và Việt Nam, đánh thốc vào các tiền đồn yếu ớt của Pháp, gây nên một sự thất bại nhục nhã cho Pháp chưa từng thấy kể từ khi Tướng Montcalm của Pháp bị bại trận và bị giết dưới tay quân Anh ở Québec vào năm 1795. Sáu ngàn quân Pháp bị giết và một số lớn quân xa, vũ khí bị lọt vào tay quân đội Việt Minh. Từ đó, dưới sự ủng hộ của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, Việt Minh kiểm soát được một khu vực từ biên giới Hoa Việt cho tới gần một trăm dặm chung quanh Sài Gòn, chỉ trừ một vài vùng tại châu thổ sông Hồng và Hà Nội là quân Pháp còn giữ được mà thôi. Lúc bấy giờ thế giới bên ngoài, ai nấy đều lo ngại trước cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông và lo sợ cuộc chiến thắng này sẽ ảnh hưởng đến chủ nghĩa Cộng Sản hiện đang trên đà bành trướng mạnh trên thế giới, cho nên cuộc chiến tranh ở Đông Dương mà từ trước đến giờ hầu như không làm một ai chú ý tới, nhưng trước đà thuận lợi cho Cộng Sản hiện tại ở Đông Dương đã khiến cho một số các quốc gia tư bản khác trên thế giới phải để tâm vào. Tháng Giêng năm 1950, Nga Sô và Trung Cộng thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh lúc này đang có mặt tại các căn cứ địa của họ trên vùng thượng du Bắc Việt, và chính điều này đã làm cho Hoa Kỳ vội vã lên tiếng công nhận một chính phủ Việt Nam do Pháp đỡ đầu và do Bảo Đại lãnh đạo. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Ancherson cho biết là Nga Sô và Bắc Kinh đã kéo lá bài chót để đưa ra cái ảo ảnh giả vờ của Hồ Chí Minh trong tư thế quốc gia, cho thấy y là một kẻ thù không đội trời chung của Hoa Kỳ, để từ đó Hoa Kỳ bắt đầu ồ ạt viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam cũng như các quốc gia khác tại Đông Dương nhằm giúp Pháp ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản. Kể từ đó, Pháp biến cuộc chiến tranh Thuộc Địa của mình thành một cuộc chiến tranh với sứ mạng ngăn chặn Cộng Sản bành trướng tại Á Châu. Đầu tháng 6 năm 1950, thế giới Tây Phương bắt đầu chú ý đến phần đất này nhiều hơn khi Bắc Hàn xua quân tấn chiếm Nam Hàn, và các lực lượng Tây Phương đã cùng chung nhau phục vụ dưới cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào vòng chiến đối đầu với quân Cộng Sản gồm Bắc Hàn và Trung Cộng. Song song với nhiệm vụ này, Tổng Thống Truman bắt đầu gửi một phái bộ quân sự từ Washington qua Sài Gòn vào mùa hè năm đó để sát cánh với Pháp, và chính hành động này đã đưa tới sự liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau này: Dưới hĩnh thức viện trợ kiểu lăn banh tuyết, tính cho đến năm 1954 thì Hoa Kỳ đã đổ vào cho Pháp ba tỷ mỹ kim để Pháp tự đào lỗ chôn mình tại Đông Dương. Năm 1953, cuộc ngưng bắn tại Đại Hàn làm cho Cộng Sản rảnh tay tập trung hết nỗ lực quân sự vào Đông Dương với sự viện trợ hùng hậu của Nga và Trung Cộng cho lực lượng của Võ Nguyên Giáp. Để đáp ứng với tình thế hiện tại, chính quyền thứ 19 tại Pháp, sau chín năm đầy khủng hoảng tại Paris, họ đã đưa ra nỗ lực cuối cùng để cứu vãn danh dự của mình, hầu thoát được cuộc chiến tranh đầy vô vọng này. Pháp đã chấp thuận một kế hoạch do các tay lãnh đạo quân sự đưa ra, theo đó Pháp sẽ dụ lực lượng chính quy của Võ Nguyên Giáp vào một trận chiến quyết liệt bên sau phòng tuyến của Việt Minh tại lòng chảo Điện Biên Phủ hoang vu, hẻo lánh ở Bắc phần, nơi mà Pháp nghĩ rằng với ưu thế thượng phong của Không Quân và uy thế về sức mạnh quân sự của họ, họ có thể tiêu diệt dễ dàng địch quân khi Cộng Sản không có khả năng gì về chiến xa và Không quân hết cả, ngoại trừ một số ít quân dụng vận tải mà thôi. Trước khi lâm trận tại Điện Biên Phủ, Pháp đã đưa ra một đòn nhử bằng cách cho thả dù binh lính xuống một lòng chảo bên sau tuyến của Việt Minh ở Na Sản. Võ Nguyên Giáp không chuẩn bị kịp cho cuộc tấn công này nên đã nướng trọn một Tiểu đoàn giữa các bãi mìn và hàng rào kẽm gai tại đây, vì vậy Pháp vô cùng tự tin là một trận đánh tương tự trong tương lai cũng sẽ đưa tới kết quả tốt đẹp như thế này. Nhưng điều hy vọng đó đã không thành công dễ dàng như người Pháp đã trù định. Và Điện Biên Phủ đã đưa họ tới một sự thất bại chua cay nhất trong lịch sử giữa Đông và Tây.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Anthony Grey":Bùn Pha Sắc XámHai Trăm Năm CũMột Chốn Để ThươngMột Nơi Để NhớTrăng HuyếtVịnh TokyoĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bùn Pha Sắc Xám PDF của tác giả Anthony Grey nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bọn Chiếm Đóng (Kobo Abe)
Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách. Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Tìm mua: Bọn Chiếm Đóng TiKi Lazada Shopee Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Kobo Abe":Bọn Chiếm ĐóngChiếc Thuyền Nô-ÊKhuôn Mặt Người KhácNgười Đàn Bà Trong Cồn CátĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bọn Chiếm Đóng PDF của tác giả Kobo Abe nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bộ Tổng Tham Mưu Xô Viết Trong Chiến Tranh (Sergei Matveevich Shtemenko)
Đã 6 năm trôi qua kể từ khi cuốn sách này được xuất bản lần đầu tiên. Tác giả đã nhận được nhiều thư của bạn đọc đánh giá cuốn sách, trao đổi những cảm tưởng của mình về các sự kiện được trình bày trên các trang sách, làm rõ thêm một số sự việc và thiết tha đề nghị nên tiếp tục kể về hoạt động của Bộ tổng tham mưu trong những năm chiến tranh đã qua. Để đáp ứng những nguyện vọng đó, tôi đã viết hồi ký quyển hai, được Nhà xuất bản quân đội xuất bản năm 1973. Và bây giờ tôi cho ra lần xuất bản thứ hai của quyển một “Bộ tổng tham mưu xô-viết trong chiến tranh”, có bổ sung và sửa chữa căn cứ vào những ý kiến nhận xét và đề nghị của bạn đọc. Cần nhận thấy rằng trong những năm gần đây, số người viết hồi ký tăng lên đáng kể. Hồi ký của các vị thống soái lừng danh của chúng ta - Gh. C. Giu-cốp, A. M. Va-xi-lép-xki, C. C. Rô-cô-xốp-xki, I. X. Cô-nép, K. A. Mê-rét-xcốp cũng như A. A. Grê-xcô, C. X. Mô-xca-len-cô và các tướng lĩnh khác - đã được công bố, trong đó có dành một vị trí xứng đáng cho hoạt động của Đại bản doanh, của tư lệnh các phương diện quân và tập đoàn quân. Thế nhưng các tác phẩm hấp dẫn ấy cũng không viết hết được đề tài về ban lãnh đạo quân sự tối cao của Liên Xô và không lặp lại những gì đã được viết ra trước đây. Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao và cơ quan công tác của nó - Bộ tổng tham mưu - đã hoàn thành nhiệm vụ đầy trọng trách của mình trong thời kỳ chiến tranh gay go đó. Họ đã nắm chắc việc vạch kế hoạch và chỉ đạo các chiến dịch, đã tổ chức những lực lượng dự bị, đã chăm chú theo dõi sự phát triển của các sự kiện trong không gian rộng lớn của toàn cuộc chiến tranh: Không một chuyển biến nào của một mặt trận hoặc của một binh đoàn đã diễn ra mà họ lại không biết. Không một phút nào những mối quan hệ sinh động giữa họ với bộ đội lại bị đứt quãng. Các đại diện của Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu thường xuyên có mặt tại những khu vực quyết định ở các binh đoàn đang tác chiến, kiểm tra việc chấp hành những chỉ thị, mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao và đóng góp ý kiến của mình trong quá trình chiến đấu Những thắng lợi của cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại chứng minh rõ ràng rằng Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu đã hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ của mình. Trong cuộc đọ trí, đọ tài và nghệ thuật chỉ huy bộ đội, các tướng lĩnh Liên Xô đã hơn hẳn bộ máy lãnh đạo quân sự tối cao của cái Đế chế thứ ba khét tiếng. Chúng ta đã giành được thắng lợi đó bằng cách nào? Trong những năm chiến tranh, tập thể Bộ tổng tham mưu, trước hết là những tướng lĩnh và sĩ quan trợ lý, đã sang và làm việc ra sao? Đó là những vấn đề tôi muốn kể lại trong cuốn sách này. Sách chủ yếu viết về tập thể, vì chỉ có trí tuệ và kinh nghiệm của tập thể mới có thể thực sự hoàn toàn bao quát được các sự kiện trong chiến tranh và tìm ra nhưng con đường giải quyết đúng đắn những nhiệm vụ khó khăn nhất được đặt ra cho các Lực lượng vũ trang. Nhưng vì một tập thể nào cũng được hợp thành từ những con người cá biệt - những người lãnh đạo và những người chấp hành, tôi thấy mình không có quyền bỏ qua công việc của những người mà hồi đó mình đã tiếp xúc gần gũi. Tìm mua: Bộ Tổng Tham Mưu Xô Viết Trong Chiến Tranh TiKi Lazada Shopee Một lần nữa, tôi cần nói rõ trước rằng: không nên hiểu nhan đề cuốn sách theo nguyên từng chữ của nó. Sách không miêu tả (và lại càng không nghiên cứu) toàn diện và chi tiết hoạt động quả là bao trùm mọi mặt của Bộ tổng tham mưu. Tác giả không đặt cho mình một nhiệm vụ rộng lớn như thế... Sách cũng không miêu tả một cách nhất quán theo thứ tự thời gian toàn bộ quá trình đấu tranh vũ trang của nhân dân Liên Xô chống nước Đức Hít-le và bọn chư hầu của nó, mặc dầu cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại là cơ sở cho những hồi ức của tôi. Các bạn đọc! Bạn còn trẻ hay bạn đã từng trải nhiều bão tố trong cuộc đời, cũng như trước đây, tôi hy vọng cuốn sách sẽ được các bạn quan tâm và rất biết ơn mọi ý kiến nhận xét và phê bình của các bạn đối với lần xuất bản thứ hai của cuốn sách này. Năm 1975 ***Đảng và nhân dân ngợi khen những người con xứng đáng. - Bàn về những phần thưởng hàng đầu và những chiến sĩ có công đầu. - Nhật lệnh chào mừng đầu tiên. - Loạt súng chào ở Mát-xcơ-va, lịch sử và sự kế tục truyền thống. - Duyệt binh Chiến thắng. - Tiệc ở Cung lớn điện Crem-li. - Vài lời về những vị chỉ huy quân sự. Việc gì cũng có lúc phải kết thúc và tôi đã đi tới phần cuối tập hồi ký của mình viết về bốn năm chiến tranh. Tôi mong muốn được kết thúc tập hối ký này bằng những dòng chữ nói về những con người đã lấy ngực mình ra bảo vệ Tổ quốc Xô-viết Vì lẽ ấy mà đã có chương này, hơi khác với các chương khác đôi chút. Trong chương này, hồi ức của tác giả quyện chặt với những tư liệu giới thiệu rõ nét việc Đảng và Chính phủ đã ghi công một cách xứng đáng chiến công của các anh hùng và những người chiến thắng. Tôi lại phải tham khảo những tư liệu có nói tới Bộ tổng tham mưu và trong chừng mực nào đó, đã phản ánh một phần những công việc hàng ngày của Bộ tổng tham mưu. Chúng tôi, trong Bộ tổng tham mưu, khi xây dựng kế hoạch các chiến dịch, theo dõi diễn biến và phân tích kết cục các chiến dịch ấy, đã tiếp xúc với đông đảo quần chúng bộ đội với khả năng chiến đấu của các tập đoàn chiến dịch lớn mà ta cần phải sử dụng tốt nhất đế chiến thắng quân thù theo đúng tất cả những nguyên tắc và quy luật của chiến tranh. Dường như ở đây khó mà có thể lo nghĩ được tới từng người một. Mới nhìn, thì Bộ tổng tham mưu là một cơ quan cách xa người chiến sĩ và người chỉ huy đơn vị. Không có gì phải tranh luận nữa, đúng là giữa các đơn vị bộ đội với Bộ tổng tham mưu có những điểm khác nhau về tình hình và đặc điểm hoạt động. Và, tất nhiên lại còn khác xa nữa. Nhưng, trong thực tế thì giữa bộ đội với Bộ tổng tham mưu lại không có gì ngăn cách. Ở đây ta không đề cập tới vấn đề sâu xa của triết học về vai trò con người trong chiến tranh, nhưng tôi cần phải nói là chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy thấm thía rằng mọi dự định và kế hoạch của chúng tôi, rốt cuộc phải phụ thuộc vào người chiến sĩ xô-viết, phụ thuộc vào khát vọng chiến thắng kẻ thù của họ. Qua những dòng chữ ít ỏi trong các thông báo tác chiến và báo cáo chiến đấu ngắn gọn, cuộc sống đã nhắc nhở chúng tôi hàng ngày nhớ đến những điều ấy Những khái niệm như “gan dạ”, “dũng cảm”, “anh hùng” mà Bộ tổng tham mưu hằng cảm thụ được, như sờ thấy, như trông thấy, cả bằng mắt lẫn bằng tay. Ngày 24 tháng Sáu 1941, Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sán (b) toàn Liên bang đã quyết nghị thành lập Phòng Thông tin Liên Xô, một cơ quan thông tấn riêng về tình hình các mặt trận và tinh thần dũng cảm của bộ đội ta. Nhiều nơi gửi tài liệu đến đây và một trong nhưng nơi đó là Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu. Đảng giao cho chúng tôi trách nhiệm chuẩn bị tài liệu cho Phòng Thông tin Liên Xô củng cố mối liên hệ giữa chúng tôi với bộ đội thêm chặt chẽ, buộc chúng tôi phải chú ý đến con người đang xông lên chiến đấu vì Đảng và sẵn sàng xả thân vì tự do, độc lập của đất nước thân yêu của mình và của nhân dân mình.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bộ Tổng Tham Mưu Xô Viết Trong Chiến Tranh PDF của tác giả Sergei Matveevich Shtemenko nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.