Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông

Thị trấn nhỏ nép mình nơi miền rừng núi của tiểu bang Wisconsin không chỉ bị trận bão tuyết bất ngờ ập đến làm cho trấn động. Trong đêm bão, cả gia đình nhà Lacourt gồm 3 người bị sát hại hết sức dã man, ngôi nhà của họ bị thiêu rụi bởi một kẻ mang tên là Người Băng, chỉ vì hắn cần lấy một bức ảnh. Vụ việc xảy ra hết sức phức tạp, để truy tìm ra danh tính kẻ sát nhân, chàng thám tử đến từ thành phố  Minneapolis, tên là Lucas Davenport buộc phải dùng kì nghỉ đông dài ngày của mình khi được cảnh sát trưởng của thị trấn tin tưởng giao trọng trách điều tra vụ án bí ẩn này. Trong khi tham gia vào điều tra vụ án này Lucas Davenport đã quen với một nữ bác sĩ tên là Weather Karkinnen. Tại đây hai người đã nảy sinh tình cảm và cùng nhau đi tìm lời giải đáp của vụ án này. Trong lúc lần mò tháo từng nút thắt, Lucas Davenport không biết rằng, tên sát nhân Người Băng – kẻ thù nguy hiểm nhất của anh đang ẩn mình trong đêm tối như một con sói săn mồi, chực chờ thời cơ hòng hủy diệt mọi đầu mối dẫn đến những bí mật khủng khiếp hơn ẩn dưới lớp tuyết dày. “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một cuốn sách đầy lối cuốn với những tình tiết rùng rợn được đẩy lên cao trào, khiến người đọc như hòa vào dòng chảy của câu chuyện không thể dừng lại. Và khác so với nhiều cuốn tiểu thuyết khác, tác phẩm được xây dựng cốt truyện ngay từ khi được chắp bút của tác giả. *** Nhân vật nổi tiếng của John Sandford, Lucas Davenport, là điều tra viên chính của Cục điều tra tội phạm Minnesota. Davenport lần đầu tiên xuất hiện trong Rules of Prey năm 1989. Kể từ đó, Sandford đã viết hơn 20 cuốn tiểu thuyết của Lucas Davenport. Davenport là loại thám tử thích làm việc bên ngoài các quy tắc được thiết lập của lực lượng cảnh sát. Anh ta lái một chiếc Porsche và là một người lăng nhăng. Một số cuốn sách trong bộ này thay thế cho bộ khác của Sandford tập trung vào Hoa Virgil.   *** Trong số mười chín tiểu thuyết trong series Săn mồi tôi đã viết tính đến giờ, có một vài cuốn có cốt truyện đơn giản hơn, và thực lòng mà nói, cũng có một vài cuốn hay hơn những cuốn khác. Tôi không muốn kể tên chúng ra - thế lại làm giảm doanh thu bán sách của tôi mất - những những người đã theo dõi cả bộ tiểu thuyết nói với tôi rằng “Cuộc thanh trừng mùa đông” là một trong những cuốn xuất sắc hơn hẳn. Tôi cũng đồng ý với những nhận xét này. Và thường những tác phẩm hay lại là những cuốn truyện không tốn quá nhiều công sức của tác giả. Một câu chuyện với những nhân vật hay ho cùng tính cách phong phú, và với cốt truyện liền mạch ngay từ khi vừa chắp bút sẽ tự khai triển trong tâm trí tác giả như một cuốn phim vậy - ta gần như có thể xem được bộ phim đó khi ngồi viết bên bàn máy tính. Viết nên cuốn tiểu thuyết này giống như chép lại những câu chuyện trong đầu tôi vậy. Cũng có những cuốn kiểu như thế này. Bạn dự định viết một cuốn dài một trăm nghìn từ nhưng khi mới viết được năm mươi nghìn thì bạn lại nghĩ rằng câu chuyện chỉ có thể dừng ở mức năm mươi lăm nghìn từ. Sau cùng, thay vì viết tiểu thuyết, bạn lại viết nó thành một truyện ngắn. Và khi chuyện đó xảy ra, bạn cố tình tạo ra những bất ngờ hay những nút thắt thay đổi cốt truyện mà ngay từ đầu không hề dự định. Và điều này khiến nó trở thành một cuốn tiểu thuyết không xuất sắc. (Những ví dụ điển hình nhất cho thể loại này là những cuốn tiểu thuyết viễn tưởng chỉ dài có hai trăm năm mươi nghìn từ, loại tiểu thuyết bạn có thể đọc trên xe buýt trong vòng hai tuần. Đó là cái kiểu chuyện nói về một anh hùng cưỡi rồng tới Khu Rừng Hắc Ám để chiến đấu với đồ đệ của một phù thủy nào đó. Rồi sau cuộc chiến, anh ta lại tiếp tục đi sâu hơn vào khu rừng để chiến đấu với một tên đồ đệ phù thủy lợi hại hơn, vân vân… Khuấy các tình tiết lên cho đến khi chúng trộn lẫn vào nhau và thành một món dở sống dở chín). Khác với những tiểu thuyết này, cuộc THANH TRỪNG MÙA ĐÔNG được dựng cốt truyện ngay từ khi chắp bút. Ngay trước khi cầm bút, tôi đã có cơ hội được trải nghiệm mùa đông khắc nghiệt ở khu rừng North Woods. Mùa đông ấy vẫn hằn sâu trong tâm trí tôi, và nó đã trở thành một nhân vật trong cuốn sách, với những con hươu, con sói đói khát và những hiện trường vụ án lạnh lẽo đến thấu xương. Một người bạn của tôi nói rằng vợ anh ấy chưa từng đọc hết cuốn truyện vì nó quá rùng rợn. Cô ấy sống ở vùng nông thôn, và trong suốt mùa đông, khi mà anh bạn của tôi thường xuyên vắng nhà, cô ấy không muốn có bất kì ý niệm nào về những sinh vật hoạt động trong những đêm đông, cho dù đã nhét khẩu súng săn dưới giường… Đồng thời, trong Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi cũng đem đến một nhân vật mới, Weather Karkinnen. Cô là một bác sĩ, và không chỉ sưởi ấm cho Lucas Davenport trong cuốn sách này, cô sẽ trở thành tình yêu của đời anh trong những cuốn tiếp theo. Tôi đã từng thắc mắc mình sẽ làm gì với Weather sau khi cuốn truyện này kết thúc. Thực ra, tôi đã liên tục nhắc đến cô dưới cái tên “Harkinnen” ở những cuốn tiểu thuyết sau này. Tôi tin rằng Weather được khắc họa đậm nét nhất trong Cuộc thanh trừng mùa đông hơn bất kì một cuốn nào khác, dù trong một cuốn truyện, cô ấy trở thành nhân vật chính, và trong các cuốn tiểu thuyết khác cũng xuất hiện nhân vật này. MỘT ĐIỀU KHIẾN Cuộc thanh trừng mùa đông trở nên thành công chính là khi tôi viết cuốn sách này, tôi vẫn khá gần gũi với công tác báo chí. Ví dụ, cảnh hỏa hoạn ở phần mở đầu của cuốn sách thực ra được mô phỏng dựa trên hai vụ hỏa hoạn mà tôi đã đưa tin vào mùa đông ở Minnesota, một vụ cháy căn nhà di động và một vụ ở tòa nhà ở trung tâm Minneapolis. Vụ cháy tòa nhà ở Minneapolis diễn ra khi nhiệt độ xuống tới âm hai mươi bảy độ c với sức gió lên đến gần năm mươi km/h. Khi làm thử phép tính, sẽ cho ra “yếu tố gió lạnh”* tầm âm một trăm nghìn độ. Các anh lính cứu hỏa phải được “đục” ra theo đúng nghĩa đen khỏi những bộ đồng phục bị băng đá thổi ngược lại từ cái vòi cứu hỏa làm cho nặng trịch. Yếu tố gió lạnh (windchill factor), chỉ tình trạng vào mùa đông khi có gió thổi, con người sẽ cảm thấy lạnh hơn nhiệt độ thực tế đo được. Đó là những mẩu chuyện khá hay ho. Theo cá nhân tôi, những câu chuyện viễn tưởng “thực nhất” phải bao gồm những sự kiện được quan sát tận mắt chứ không phải chi được vẽ ra trong trí tưởng tượng của tác giả. Dù sao đi chăng nữa thì mùa đông (ở Hayward, Wisconsin, nơi tôi có một ngôi nhà gỗ để nghỉ hè) vẫn là một trong những nguồn cảm hứng dồi dào nhất của tôi. Một tên loạn trí cưỡi xe trượt tuyết, cùng một cô người yêu tuổi mới lớn lệch lạc tư tưởng và một đống xác chết - thảy hết chúng vào câu chuyện này, và ta chẳng còn cần gì hơn thế nữa. SAU KHI KẾT THÚC cuốn truyện và chỉnh sửa những chương đầu cùng chương cuối, tôi ngồi ngẫm lại và nhận ra rằng có lẽ mình đã trở thành một nhà văn chuyên nghiệp của dòng tiểu thuyết trinh thám rồi. Không chỉ không gặp nhiều khó khăn với cuốn này, mà sau sáu cuốn tiểu thuyết tôi đã từng chắp bút, có lẽ đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rằng tôi có thể điều khiển dòng chảy của câu chuyện từ đầu cho tới cuối. Không như những cuốn tôi đã viết trước đó, tôi không phải dừng lại giữa chừng để đọc lại và bỏ đi một nửa những gì mình đã viết, vì tôi đã dẫn dắt câu chuyện đi sai hướng, hoặc vì tôi đã phạm phải một lỗi cơ bản mà không nhận ra. Tôi có thể thấy được cái kết cho Cuộc thanh trừng mùa đông ngay từ khi bắt tay vào viết… Sau Cuộc thanh trừng mùa đông, tôi nghĩ rằng mình có thể viết đến cả trăm cuốn nữa cho bộ tiểu thuyết này, và chúng cũng sẽ xuất sắc, cô đọng và đầy chuyên nghiệp như thế này. Và rồi nghiệp viết văn của tôi sẽ trở nên dễ dàng hơn. Mọi chuyện chưa được như ý tôi muốn nhưng ít nhất đó là những gì tôi cảm nhận sau khi hoàn thành cuốn này. Mong bạn đọc sẽ yêu thích câu chuyện. JOHN SANDFORD *** GIÓ RÍT TỪNG CƠN dọc những lạch nước đã đóng băng của sông Shasta, giữa những bức tường đen kịt được tạo nên bởi rừng thông. Những rặng trăn trần trụi khẳng khiu nơi đầm lầy và những cây bạch dương mới nhú rủ xuống trước gió. Những bông tuyết nhọn hoắt như mũi kim cưỡi gió, tựa như hạt sạn trên tờ giấy nhám, tạc nên những đường xoắn ốc kiểu Ả Rập trên lớp tuyết đang lất phất bay. Người Băng men theo con sông dẫn tới hồ. Hắn ta định hướng chủ yếu dựa vào cảm tính và thời gian cũng tốt như bằng thị giác vậy. Khi sáu phút đã trôi qua trên cái mặt phát sáng của chiếc đồng hồ lặn, hắn bắt đầu đi tìm cây thông chết. Hai mươi giây sau, cái thân bị thời tiết mài cho trắng phớ của cây thông hiện ra dưới ánh đèn pha của chiếc xe máy tuyết, treo mình ở đó một lúc, rồi biến mất như một con ma vẫy xe xin quá giang. Chín ki lô mét, góc phương vị* hai trăm bảy mươi độ… Góc phương vị (compass bearing) là góc tạo bởi hướng Bắc và hướng muốn đi trên la bàn. Tích tắc tích tắc… Vấn đề duy nhất bây giờ là thời gian… Hắn suýt chút nữa đâm sầm vào bờ hồ phía tây nơi chân con dốc đổ xuống từ phía ngôi nhà. Ngôi nhà bị tuyết phủ tọa lạc trên tầng tầng tuyết trắng, hiện ra lù lù trước mắt. Hắn quẹo xe, giảm tốc rồi men theo bờ hồ. Thứ ánh sáng màu xanh nhân tạo phát ra từ đèn hiên xuyên rọi qua màn tuyết. Hắn chầm chậm nhích xe lên trên bờ hồ rồi tắt máy. Gạt cái kính mũ bảo hiểm lên, Người Băng ngồi xuống và lắng nghe. Hắn chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng tuyết khẽ táp vào bộ quần áo đang mặc và chiếc mũ bảo hiểm, những âm thanh thật khẽ của động cơ xe đang nguội dần, hơi thở của chính hắn và tiếng gió. Hắn đeo một chiếc mặt nạ trượt tuyết bằng len che kín cả mặt, chỉ còn chừa lại đôi mắt và miệng. Những bông tuyết len lỏi vào từng thớ len, rồi dần dần tan ra, nhỏ thành từng giọt từ khoảng hở chỗ đôi mắt xuống mặt dọc theo sống mũi hắn. Hắn ăn vận thật kĩ lưỡng cho chuyến đi trong cái thời tiết này, mặc trên người bộ đồ đi tuyết chống gió và cách nhiệt, chân mang đôi giày đi tuyết nặng trịch và tay thì xỏ găng trượt tuyết. Cái áo cao cổ làm bằng sợi PP dày cộp chờm lên cái mặt nạ và cổ áo của bộ đồ hắn mặc trên người thì được cài liền với chiếc mũ bảo hiểm màu đen. Hắn gần như được bao bọc bởi len và nylon, vậy mà hơi lạnh vẫn luồn vào từng kẽ hở, rút lấy từng hơi thở của hắn… Trên giá để đồ, đôi giày đi tuyết được cột sau ghế ngồi, bên cạnh con dao chặt ngô bọc trong một tờ báo. Xoay người ngồi nghiêng một bên, hắn tựa hẳn mình vào chiếc xe, tay lục tung túi áo parka để tìm chiếc đèn pin nhỏ bằng nhôm và soi về hướng giá để đồ. Đôi găng tay dày cộp lúc này trở nên thật vướng víu. Hắn tháo găng ra, mặc nó lủng lẳng trên nẹp cổ tay áo. Ngọn gió như một lưỡi rìu phá băng cứa sâu vào những ngón tay không đeo găng của hắn khi hắn rút đôi giày đi tuyết ra. Hắn ta bỏ đôi giày xuống nền tuyết trắng, xỏ chân vào cái nẹp nối thao tác nhanh, cài dây buộc rồi ngay lập tức lại luồn tay vào đôi găng. Mới có một phút mà tay hắn đã lạnh cóng, đông cứng lại. Sau khi xỏ lại đôi găng, hắn đứng dậy, kiểm tra bề mặt tuyết bên dưới. Lớp tuyết bên trên khá xốp nhưng cái lạnh cắt da cắt thịt đã làm lớp tuyết bên dưới cứng lại. Chân hắn chỉ bị lún xuống sáu đến tám xen ti mét. Tình hình khá khả quan. Tiếng chuông báo hiệu thời gian lại vang lên trong tâm trí hắn. Hắn dừng lại, tự trấn an mình. Cái bộ máy phức tạp vận hành sự tồn tại của hắn giờ đây đang trong hiểm nguy. Hắn đã từng ra tay hạ sát trước đây, nhưng đó gần như chỉ là một tai nạn. Hắn đã phải tạo hiện trường giả một vụ tự sát quanh tử thi của nạn nhân. Và nó gần như quá hoàn hảo. Ít nhất cũng đủ để cảnh sát không có lấy một cơ hội để bắt hắn. Ngày hôm đó đã thay đổi hắn hoàn toàn. Hắn đã được nếm mùi máu và hương vị thứ thiệt của quyền lực. Hắn ngửa đầu ra sau như một con chó đang lần theo mùi. Ngôi nhà cách bờ sông hơn ba trăm mét. Hắn bị bóng tối bao trùm, không thể nhìn thấy ngôi nhà ngoại trừ ánh sáng le lói rọi từ đèn sân. Hắn lôi con dao ra khỏi giá đựng đồ và bắt đầu leo lên dốc. Con dao chặt ngô là một vũ khí đơn giản nhưng hoàn hảo để phục kích trong một đêm đầy tuyết, nếu cơ may xuất hiện. Trong cơn bão, và đặc biệt về đêm, căn nhà của Claudia LaCourt dường như trôi ra nơi rìa thế giới. Tuyết rơi càng dày thì những ngọn đèn rọi từ hiên nhà qua dòng sông đóng băng càng mờ dần rồi từng ngọn, từng ngọn lụi tắt hẳn. Cùng lúc đó, khu rừng như tiến sát lại. Những cây thông và cây tùng khẽ nhón chân lại gần, đè hẳn mình lên ngôi nhà. Những cây trắc bách diệp như đang cạo vào cửa sổ, và những cành bạch dương trơ trụi thì như muốn cào nát diềm mái nhà. Tất thảy nghe như thể một sinh vật ác độc đang tiến lại gần, một con quái vật với vuốt nhọn và răng nanh, đập vào tấm ván che kêu rầm rầm hòng tìm kiếm một chỗ để bám vào. Nó dường như có thể thổi bay cả ngôi nhà. Khi ở nhà một mình hoặc ở cùng cô con gái Lisa, Claudia thường nghe những album cũ của Tammy Wynette hay xem các chương trình truyền hình giải trí. Nhưng cơn bão vẫn chứng minh sự hiện diện của mình bằng những cú sập cửa hoặc những tiếng gào rú trong đêm. Hoặc một đường dây dẫn điện có thể hỏng ở đâu đó. Lúc đó, những ngọn đèn chập chờn rồi vụt mất, nhạc tắt lịm, ai nấy đều nín thở lắng nghe cơn bão gầm gừ như muốn xé nát tất cả. Ánh nến càng làm cho mọi thứ trở nên tệ hại hơn và đèn bão thì cũng chẳng hữu ích là bao. Thứ duy nhất có thể chiến đấu với những điều xấu xa được tạo ra bởi trí tưởng tượng của con người trong một cơn bão đêm là sự hiện diện của khoa học hiện đại -truyền hình vệ tinh, radio, đĩa CD, điện thoại và trò chơi điện tử. Hoặc máy khoan. Những thứ tạo ra âm thanh của máy móc và xua đi những móng vuốt của thời kỳ tăm tối đang chực chờ lật tung ngôi nhà. Claudia đứng cạnh bồn, rửa cốc cà phê và treo chúng lên giá. Cửa sổ cạnh bồn rửa phản chiếu hình ảnh của cô như một tấm gương, nhưng đôi mắt và những đường nét trên gương mặt có vẻ tối hơn giống như trong những bức hình được chụp theo phương pháp Daguerre* vậy. Phương pháp Daguerre (Daguerreotype) là phương pháp chụp ảnh được phát minh bởi Louise Dagueưe (1787-1851), qua đó hình ảnh sẽ được ghi lại trên một tấm bảng kim loại. Nhìn từ bên ngoài, Claudia trông như nàng thánh mẫu trong một bức vẽ, là dấu hiệu duy nhất của ánh sáng và sự sống trong cơn bão, nhưng cô chưa từng nghĩ mình như vậy. Claudia là một bà mẹ với vòng ba săn chắc, mái tóc mang sắc đỏ, có khiếu hài hước và rất có gu uống bia. Cô có thể lái tàu đánh cá và chơi bóng mềm. Vào mùa đông, thỉnh thoảng, khi Lisa ngủ ở nhà bạn, cô và Frank lái xe tới Grant và thuê một phòng ở nhà nghỉ Holiday Inn, nơi có những tấm gương lớn, cao từ sàn tới tận trần nhà, được đặt trên cánh cửa tủ quần áo cạnh giường. Cô thích cái cảm giác ngồi trên hông của anh ngắm thân hình mình trong cơn khoái lạc, đầu ngả ra sau và ngực thì ửng hồng. Claudia cậy mảng vỏ bánh cháy cuối cùng ra khỏi khay nướng bánh, rửa sạch rồi cho nó vào giá đĩa để ráo nước. Cô nhìn ra ngoài, nơi một cành cây cào vào cửa sổ, nhưng không hề sợ hãi. Cô ngân nga một bài hát cũ rích nào đó, một bài hát từ thời trung học. Đêm nay ít ra thì không chỉ có mình cô và Lisa. Frank đang ở đây. Anh bước lên trên cầu thang và cũng đang ngân nga một bài hát nào đó. Họ thường hay cùng lúc làm một việc như vậy. “Ừm,” cô quay lại khi nghe thấy tiếng anh. Mái tóc đen mỏng của anh loà xoà trên đôi mắt đen. Anh trông như một chàng cao bồi với gò má cao và đôi bốt cao cổ cũ kĩ ló ra ngoài chiếc quần bò côn, Claudia nghĩ. Anh đang mặc một cái tạp dề làm bằng vải bò rách tả tơi bên ngoài chiếc áo phông, và tay thì cầm chiếc chổi sơn lấm lem nước sơn đỏ như máu. “Sao vậy, anh yêu?”cô lên tiếng. Đây là cuộc hôn nhân thứ hai của cả hai người. Họ đều đã trải qua nhiều chuyện và thực sự dành tình cảm cho nhau. Anh rầu rĩ, “Anh vừa mới bắt đầu sơn cái giá sách nhưng anh đã để cái lò sưởi cháy hết mất rồi.” Anh vung vẩy cái chổi sơn trước mặt cô. “Chắc anh sẽ mất cả tiếng đồng hồ để sơn xong cái giá sách mất. Anh thực sự rất thích việc này.” “Lạy Chúa, Frank…,” cô đảo mắt. “Anh xin lỗi,” anh ăn năn theo đúng kiểu một chàng cao bồi bảnh bao. “Thế về chuyện với cảnh sát trưởng thì sao?” Cô chuyển chủ đề. “Anh vẫn sẽ tiếp tục chuyện này sao?” “Anh sẽ gặp ông ấy vào ngày mai,” anh quay mặt đi, tránh ánh mắt của cô “Chỉ thêm rắc rối thôi.” Cuộc tranh luận vẫn đang âm ỉ giữa hai người họ. Cô bước ra xa khỏi bồn rửa và nghiêng người ra sau, đưa mắt về phía hành lang hướng phòng Lisa. Căn phòng vẫn đóng kín và tiếng nhạc của Guns ‘N Roses khe khẽ vọng ra. Giọng của Claudia trở nên gay gắt, đầy lo lắng. “Anh có thể im đi được không? Đó không phải việc của anh. Anh đã nói cho Harper nghe rồi. Jim là con trai của anh ta. Nếu đó là Jim.” “Chắc chắn là Jim, được chứ. Anh đã kể cho em cái cách mà Harper cư xử rồi mà.” Frank bặm chặt môi lại. Claudia nhận ra cái biểu cảm này và biết rằng anh sẽ không thay đổi quyết định của mình, cũng giống như cái gã trong bộ phim “High Noon.” Hắn tên gì nhỉ? Phải rồi, Gary Cooper. “Em ước là mình chưa bao giờ thấy bức hình đó,” cô cúi đầu, tay phải day thái dương. Lisa đã đưa lại bức hình cho mẹ mình trong phòng ngủ. Cô bé không muốn Frank thấy nó. “Chúng ta không thể để mọi chuyện cứ như thế được.” Frank năn nỉ. “Anh đã bảo với Harper rồi.” “Sẽ có rắc rối đó, Frank,” Claudia nói. “Pháp luật có thể giải quyết được mà. Chúng ta sẽ không bị liên lụy gì cả,” anh đoan chắc. Sau một hồi, Frank lên tiếng “Em bật cái lò sưởi lên nhé?” “Thôi được rồi. Em sẽ lo chuyện cái lò sưởi”. Claudia hướng mắt ra ngoài cửa sổ nơi ánh đèn thuỷ ngân ngoài hiên rọi xuống garage. Những bông tuyết dường như bắt đầu rơi từ một điểm ngay bên dưới ánh đèn, như thể được đổ xuống từ một cái phễu phía trên phía cửa sổ, chiếu thẳng vào đôi mắt cô như một viên đạn nhỏ. “Trông có vẻ như tuyết sẽ ngớt.” “Đáng nhẽ không có tuyết mới đúng.” Frank chửi tên dự báo thời tiết, “Mẹ kiếp.” Dự báo thời tiết nói rằng trời sẽ lạnh và quang quẻ ở hạt Ojibway, nhưng bây giờ thì tuyết đang rơi như trút. “Anh thử suy nghĩ về việc buông xuôi nó đi” cô nài xin “Hãy suy nghĩ lại một chút thôi.” “Anh sẽ suy nghĩ lại,” anh nói rồi quay lưng đi xuống hầm. Frank có thể nghĩ về nó, nhưng anh sẽ không bao giờ thay đổi quyết định của mình. Claudia ngẫm lại mọi chuyện, tròng mình vào chiếc áo len rồi bước ra gian ngoài. Đôi găng lái xe ướt nhẹp của Frank phơi trên lỗ thông hơi của lò sưởi khiến cả căn phòng có mùi như len sấy khô. Cô khoác lên người chiếc áo parka và chiếc mũ len với quả bông treo lủng lẳng phía sau. Claudia đeo găng rồi với tay tìm công tắc trong gian ngoài, bật đèn hiên và bước ra ngoài, hòa mình vào cơn bão. Bức ảnh đó. Bọn họ đáng lẽ có thể là bất cứ ai, từ Los Angeles đến Miami, nơi mà họ làm những việc như vậy. Nhưng không. Họ đến từ hạt Lincoln. Chất lượng in ấn thì tệ hại, giấy thì tồi đến mức có thể bở nát ra ngay khi cầm trong tay. Nhưng đó đúng là con trai của Harper. Nhìn kĩ bức ảnh, cô có thể thấy đốt tay cụt bên bàn tay trái bị gây ra bởi rìu chặt củi và đôi khuyên tai vòng của cậu bé. Trong bức ảnh, cậu ta đang khỏa thân trên giường, hông hướng về phía máy ảnh và ánh mắt thì đờ đẫn pha lẫn chút hoang mang. Cậu ta có gương mặt đang dần trưởng thành của một thanh niên trẻ tuổi, nhưng đâu đó vẫn ẩn chứa hình bóng của một cậu bé làm việc ở trạm xăng của cha. Cậu bé mà cô đã biết từ lâu. Phía trước bức ảnh là thân hình của một gã đàn ông ục ịch, ngực đầy lông. Hình ảnh đó nhanh chóng lướt qua tâm trí Qaudia. Cô đủ quen thuộc với đàn ông và cơ thể của họ, nhưng có một điều gì đó trong bức ảnh, một điều vô cùng tồi tệ… Mắt của cậu bé tối sầm lại trước đèn flash. Khi nhìn gần hơn nữa, đồng tử của cậu bé trông như thể ai đó ở tòa soạn của tờ tạp chí đã vẽ nó vào mắt cậu bằng một cây bút dạ. Claudia khẽ rùng mình nhưng hoàn toàn không phải vì lạnh. Cô nhanh chóng bước xuống đường hào bị phủ đầy tuyết dẫn tới garage và kho để gỗ. Mới đó mà tuyết rơi trong hầm đã dày tới mười centimet. Rồi sáng mai cô sẽ lại phải thổi tuyết ra. Cửa garage ở phía cuối đường hào. Cô đẩy mạnh cánh cửa rồi bước vào, bật đèn sáng choang và giậm mạnh chân theo quán tính. Garage được cách nhiệt và sưởi ấm bằng lò sưởi. Bốn khúc gỗ sồi cháy âm ỉ và tản ra đủ nhiệt để giữ nhiệt độ trong garage luôn trên mức đóng băng kể cả vào những đêm lạnh giá nhất, và cũng đủ để khởi động xe. Ở cái xứ Chequamegon này thì khởi động xe đúng là vấn đề sống còn. Lò sưởi vẫn còn ấm. Than đã cháy hết, nhưng Frank đã dọn lò tối hôm trước. Dù sao thì đó cũng không phải là việc của cô. Cô quay lại nhìn về phía đống gỗ gần cánh cửa. Chỉ còn đủ cho đêm nay. Cô ném vài thanh gỗ thông còn đầy nhựa to bằng cổ tay vào lò cùng với bốn khúc gỗ sồi để giữ lửa cháy. Cô thở dài nhìn về nơi mà đống gỗ đáng lẽ phải ở và quyết định mang thêm mấy thanh gỗ để tuyết bám trên chúng có thể tan ra trước sáng hôm sau. Rồi cô bước ra ngoài, đóng cửa lại nhưng không khóa, lần dọc về phía chái nhà để củi ở bên hông garage. Cô nhặt thêm bốn khúc gỗ sồi rồi loạng choạng quay về cửa garage, đẩy cửa bằng chân và thảy mấy khúc gỗ sồi xuống cạnh lò sưởi. Cô sẽ chỉ đi một lượt nữa thôi và phần còn lại sáng hôm sau là của Frank. Cô quay về phía hông garage, đi vào nhà kho đựng gỗ tối om lấy thêm hai khúc gỗ sồi. Đột nhiên tóc gáy cô dựng đứng… Không chỉ có cô, ai đó cũng đang ở đây. Claudia run rẩy đánh rơi những khúc gỗ, tay đưa lên cổ tự trấn an mình. Khu đất phía sau của garage tối đen như mực. Cô không thể nhìn thấy ai cả nhưng trực giác của cô thì mách bảo điều ngược lại. Tim cô đập dội vang trong lồng ngực và những bông tuyết rơi trên mũ trùm tạo thành từng tiếng đồm độp thật nhỏ. Không còn gì khác nữa, nhưng cô có linh cảm không lành. Cô lùi lại, nhưng chẳng có gì khác ngoài tuyết và ánh sáng xanh của đèn hiên. Bước đi trong đường hào đầy tuyết, cô bỗng khựng lại, chú mục vào bóng tối… rồi bỏ chạy thật nhanh về phía căn nhà. Ngay cả khi tới nơi, cô vẫn có cảm giác ai đó đang ở phía sau lưng mình. Hắn dường như sắp chạm tới cô. Cô túm lấy nắm tay cửa, giật thật mạnh, đẩy cửa bằng mu bàn tay rồi bước vào gian ngoài sáng choang và ấm áp. “Claudia?” Frank lên tiếng. Cô hét lên. Frank đứng thần ra ở đó với chiếc giẻ lau sơn, và đôi mắt mở to đầy ngạc nhiên “Xảy ra chuyện gì vậy?” “Chúa ơi!” Claudia kéo khóa áo bộ đồ đi tuyết xuống, vật lộn với cái khóa mũ trùm đầu. Mồm cô mấp máy nhưng không thể phát ra một lời nào. “Lạy Chúa, Frank, có ai đó ngoài garage.” “Gì cơ?” Frank khẽ nhíu mày và tiến về phía cửa sổ trong bếp. “Em có thấy hắn ta không?” “Không, nhưng em thề có Chúa là có ai đó ngoài kia. Em có thể cảm thấy hắn.” Cô bám lấy tay anh, đôi mắt hướng ra ngoài cửa sổ. “Gọi 911 đi!” “Anh không thấy gì cả,” Anh đi qua bếp, nghiêng người trên bồn rửa, nhìn chằm chằm về phía đèn hiên. “Anh không thể thấy được gì đâu,” Cô khóa chặt cửa lại rồi bước vào căn bếp, “Frank, em thề có Chúa đấy, chắc chắn là có ai đó ngoài kia…” “Thôi được rồi,” Anh trả lời một cách nghiêm túc “Anh sẽ đi kiểm tra xem sao.” “Tại sao chúng ta không gọi…” “Anh sẽ xem thử xem thế nào.” Anh nhắc lại. Rồi tiếp lời, “Cảnh sát sẽ không tới đây lúc trời bão thế này đâu. Khi mà thậm chí em còn không nhìn thấy ai cả.” Anh nói đúng. Claudia theo anh ra gian ngoài, mồm lắp bắp, “Em đã cho gỗ vào bếp sưởi, sau đó em vòng sang hông garage để lấy thêm vài khúc gỗ cho sáng mai.Vào lúc đó, cô tự nhủ rằng, đây không phải là cô của thường ngày. Frank ngồi trên chiếc ghế dài ở gian ngoài, kéo đôi bốt Tony Lamas ra khỏi chân. Mặc xong bộ đồ đi tuyết, Frank ngồi xuống, xỏ chân vào đôi ủng rồi buộc dây giày. Xong xuôi, anh kéo khóa áo khoác lên và với lấy đôi găng tay. “Anh sẽ quay lại ngay.” Anh tỏ vẻ tức giận nhưng anh biết rõ cô không phải là người dễ dàng hoảng sợ. Cô bật thốt lên, “Em sẽ đi cùng anh” “Không, em sẽ ở lại đây.” anh nói chắc nịch. Cô vội vã vòng ra sau bàn bếp và kéo mạnh cái ngăn kéo “Frank, mang súng theo đi.” Một khẩu Smith Wesson 357 cỡ lớn đã được nạp sẵn đạn nằm sâu trong hộc tủ, phía sau bức vách ngăn. “Đó có thể là Harper… Có thể…” Mời bạn đón đọc Cuộc Thanh Trừng Mùa Đông của tác giả John Sandford.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Hùn Vốn - Erle Stanley Gardner
Cuốn sách thứ 17 về Luật Sư Perry Mason. Một cô chủ cửa hàng hoa bất ngờ biết rằng đối thủ của mình chơi xấu và có khả năng dành quyền kiểm soát công ty của mình, do đó cô một mặt điều tra và một mặt nhờ tới sự giúp đỡ của Mason. Tuy nhiên, tình hình không dừng lại ở đó khi mà đã có án mạng xảy ra... *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Các tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963)   *** Trong phòng kính - làm việc của cửa hàng hoa Faulkner Mildreth Faulkner đang ngồi bên bàn, cẩn thận chọn một bông paxten(1) xanh. Cô luôn luôn dùng hoa paxten để điểm xuyết các kiểu xếp hoa của mình. Đặt bông hoa xuống bên trái tờ phác thảo phòng ăn của gia đình Ellsworth, cô bắt đầu nghiên cứu các mẫu xếp hài hòa với loại nến màu lá cây nhạt mà cô Ellsworth định dùng thắp sáng. Có tiếng gõ vào kính. Mildreth ngẩng lên và nhìn thấy Harry Peavis. Đẩy các bản vẽ sang một bên, cô ra hiệu mời khách vào. Ông khách nhận lời mời như một điều tất nhiên và không biểu lộ chút tình cảm nào. Đó là một người to lớn, xương xương, bắp thịt rắn chắc, vai và đôi bàn tay còn giữ được dấu vết của nghề chủ trại mà ông ta đã làm thời trai trẻ. Hiện tại, sau khi đã giàu có nhờ độc quyền gần như hoàn toàn ngành bán lẻ hoa; ông ta rất chịu khó phô mình trong tư thế một nhà kinh doanh vận đỏ. Những ngón tay bị biến dạng vì lao động nom thật lạc điệu với móng tay được gọt sửa và bộ com lê cắt quá đẹp của ông ta. ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Hùn Vốn của tác giả Erle Stanley Gardner.
Vị Giám Mục Nói Lắp - Erle Stanley Gardner
Erle Stanley Gardner sinh năm 1889 tại Malden, Massachusetts. Vì cha ông là một chuyên viên đào vàng nên ông phải đi theo đến các vùng khắc nghiệt suốt từ Klondike đến California. Là một gã con trai khỏe mạnh và hay gây gổ, ông đã tự tham dự một số cuộc đấu quyền anh nhà nghề được nhiều giải thưởng cho đến khi ông bị kẹt trong một vụ đấu bất hợp pháp và bị đưa ra trước pháp lý. Kinh nghiệm liên quan đến luật pháp này đã thúc đẩy ông trở thành một luật sư, và trong một thời gian ngắn làm việc ngày đêm, ông đã được chấp nhận là thành viên của Tòa án California khi ông vừa đúng 21 tuổi. Nhưng những ước vọng phiêu lưu của Gardner đã không thích hợp với đời sống bận rộn của một luật sư Tòa án, “Quá nhiều vụ án đến với tôi và tôi thấy mình chôn chân một chỗ” ông nói - “Vì vậy bên cạnh đó, tôi viết văn”. Năm đầu tiên ông kiếm được 974 đô-la, năm thứ năm là 6.627 đô-la. Trước khi ý thức được rằng ông đã tiến tới vị trí phải lựa chọn giữa viết văn và Luật pháp, ông đã bỏ ngành Luật pháp. Trong năm 1932 Gardner kiếm được 20.525 đô-la. Rồi sau chuyến đi Trung Quốc về, ông bắt đầu chăm chú viết nhiêu hơn, và kết quả là hai quyển sách đã được xuất bản vào năm đầu: Vụ án cô gái hay hờn dỗi (The Case of the Sulky Girl) và Vụ án móng vuốt bọc nhung (The Case of the Velvet Claws). Ngày nay các tác phẩm của Gardner rất được ưa chuộng tại Hoa Kỳ. Tất cả các ấn bản tổng cộng lại trên một triệu cuốn hàng năm. Sách của ông được in ra mười thứ tiếng và hầu như đều được dịch ra chữ Braille dùng cho người mù. Ông mất năm 1970. Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Các tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963)   *** Cặp mắt Perry Mason chăm chú nhìn vào con người vừa dừng lại trước cửa văn phòng. “Xin mời Giám mục vào,” Mason nói. Người ngoài cửa vào có dáng mập và lùn, trong bộ áo nhà dòng màu đen, rộng thùng thình. Ông ta hơi cúi đầu bước lại chiếc ghế Mason ra hiệu mời ngồi. Phía trên vòng cổ trắng của chiếc áo nhà dòng là khuôn mặt sạm nắng với cặp mắt lóng lánh. Ông ta có đôi chân ngắn, bước đi những bước vững chắc trên đôi giầy đen đã khá mòn. Nhìn bước đi của vị khách, Mason cảm thấy đó là bước đi của một con người đầy nghị lực. Vị Giám mục ngồi xuống và hướng về phía Perry Mason. “Mời Giám mục dùng thuốc lá,” Mason nói và đẩy hộp thuốc về phía khách. Vị Giám mục đưa tay chận lại và nói, “Ca… Ca… Ca… Cảm ơn, tôi đã hút rồi. Tôi chỉ rít được có hai hơi rồi phải… ngừ… ngừng.” Đôi môi người khách run run ở nửa chữ cuối cùng. Khi vừa nói hết câu, ông cố tự chủ và nói tiếp, “Xin phép ông tôi hút píp.” “Xin cứ tự nhiên,” Mason nói và để ý thấy vị khách móc trong túi bên trái ra một chiếc píp to và ngắn trông cũng giống như hình dáng của ông ta. “Cô thư ký của tôi có nói, ông là Giám mục William Mallory thuộc địa phận Sydney của Úc Đại Lợi, ông muốn gặp tôi về một vụ án gây chết người, có phải vậy không?” vị luật sư lên tiếng phá vỡ bầu không khí ngượng ngập đang bao trùm vị khách. Giám mục Mallory gật đầu, ông ta lấy túi thuốc nhét đầy vào píp và ngậm chặt cán píp giữa hai hàm răng, rồi bật quẹt. Nhìn cung cách hai tay chụm lại che lửa, Mason không hiểu đó có phải là hành động gượng gạo, hay chỉ là do thói quen của vị khách. Mason chăm chú nhìn khuôn mặt thông minh cương nghị của khách và nói, “Xin mời Giám mục cứ tiếp tục.” Giám mục Mallory rít vài hơi cho thuốc cháy đều. Cung cách của ông rất chững chạc, nhưng vẫn toát ra một điều gì đó có vẻ không bình thường. “Tôi e rằng,” vị Giám mục nói, “sự hiểu biết về luật pháp của tôi quá hạn hẹp. Tôi muốn được biết rõ về những giới hạn của một vụ án g… g… gây chết người.” Lần thứ hai, vị Giám mục lại nói lắp. Ông cắn chặt răng trên cán chiếc píp và rít nhanh những hơi thật ngắn như để che giấu sự bối rối của mình. ... Mời các bạn đón đọc Vị Giám Mục Nói Lắp của tác giả Erle Stanley Gardner.
Cháu Gái Người Mộng Du - Erle Stanley Gardner
Khi hai người kia đổi buồng ngủ trong một bữa tiệc thì ai cũng nghĩ rằng kẻ mộng du cầm dao đã giết nhầm người.... *** Các tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963)   *** Luật sư Perry Mason đi đi lại lại trong văn phòng, hai ngón tay cái móc vào nách áo ghi-lê, vầng trán nhăn lại. Ông hỏi người phụ tá của mình: - Jackson, anh bảo hai giờ phải không? - Thưa vâng, tôi có dặn cô ta phải đúng giờ. Mason xem đồng hồ và cằn nhằn: - Trễ mười lăm phút rồi. Cô thư ký Della Street rời mắt khỏi cuốn sổ lớn, ngước nhìn lên hỏi: - Sao ông không từ chối cho xong? Mason đáp: - Vì tôi muốn gặp cô ta. Nghề luật sư thường trải qua nhiều vụ giết người nhàm chán mới mong gặp được điều thú vị. Vụ án này rất bình thường. Tôi thấy cần quan tâm đến nó. - Có thể có vụ giết người nhàm chán sao? - Jackson hỏi. - Ấy là sau khi ta đã gặp quá nhiều vụ rồi. Những người chết luôn luôn là điều nhàm chán. Chính kẻ còn sống mới quan trọng. Della Street nhìn Mason bằng đôi mắt náo nức và nhận xét: - Nhưng đây không phải là một vụ giết người. - Thế mà vẫn không kém phần lôi cuốn - Mason nói - Tôi không thích được gọi đến sau khi mọi dữ kiện đã được phơi bày trong suốt như pha lê. Tôi muốn đụng độ với những động cơ thúc đẩy lòng người và những mối hận thù. Giết người là đỉnh cao của hận thù cũng như hôn nhân là tột đỉnh của tình yêu. Dẫu sao hận thù vẫn mạnh hơn tình yêu. ... Mời các bạn đón đọc Cháu Gái Người Mộng Du của tác giả Erle Stanley Gardner.
THƯ
Tegami – Thư là câu chuyện về những lá thư trong tù của phạm nhân cướp của giết người Takeshima Tsuyoshi đến người em trai Takeshima Naoki. Nhưng Naoki lại chẳng mong muốn những lá thư đó gửi đến. Bởi đấy là minh chứng cho quá khứ, cho vết nhớ trong cuộc đời, cho định kiến mà miệng lưỡi thế gian dành cho anh – người nhà của phạm nhân. Cũng như bao cuốn sách khác của Higashino Keigo, tiểu thuyết Tegami – Thư không đặt nặng ở yếu tố trinh thám. Các sự kiện xuất phát từ một vụ án, liên quan đến chất phá án chỉ là chất xúc tác, là tầng đá vỉa bên ngoài để tạo tiền đề cho câu chuyện phát triển. Tầng sâu ý nghĩa của tác phẩm nằm ở tâm lý, suy nghĩ nội tâm của từng nhân vật; là cách tác giả dẫn truyện, làm cho câu chuyện chảy trôi đầy tự nhiên song cũng vô cùng ám ảnh, day dứt. Như hơi thở cuộc sống: lặng lẽ trôi đi đầy vô tình mà khiến cả người trong cuộc lẫn những người xung quanh, ngay chính độc giả, nghĩ mãi chẳng thể dứt ra. Cũng vì câu chuyện nhẹ về yếu tố trinh thám, nặng về yếu tố tâm lý nên có thể nói, Tegami – Thư có một cốt truyện, nội dung hết sức đơn giản: Hai anh em nhà Takeshima mồ hôi cả cha lẫn mẹ. Người anh Tsuyoshi, để thực hiện khát vọng giúp em trai là Naoki vào đại học, đã làm việc cật lực đến nỗi sức khỏe kiệt quệ. Trong cơn tuyệt vọng vì thất nghiệp mà ngày thi đại học của em trai mỗi lúc một đến gần, Tsuyoshi đã gây ra tội ác: Cướp của giết người. Anh ta bị cảnh sát tóm gọn một cách nhanh chóng. Trong thời gian ở tù, Tsuyoshi được phép gửi cho em trai một lá thư vào mỗi tháng. Nhưng, một kẻ ở tù, cách xa với cuộc sống bên ngoài như Tsuyoshi, không biết được rằng sự tồn tại của anh ta, những lá thư mà anh ta gửi đã trở thành gánh nặng, bóng ma quá khứ mỗi lúc một đào sâu thêm sự định kiến mà người đời đối với Naoki, khiến cho Naoki, chẳng thể ngẩng mặt sống một cách chính trực trước cuộc đời.  Với một cốt truyện đơn giản như thế, cũng không đao to búa lớn như nhiều tác phẩm sau này hướng đến những gì quá vĩ mô như luật pháp của một đất nước, vấn đề bảo vệ môi trường hay sự tồn vong của cả nhân loại…; Higashino Keigo đã tạo dựng được một tuyến nhân vật, không quá đông nhưng lại rất người, rất đời và rất thực.  Đó là Takeshima Tsuyoshi, gần như không thấy bóng, không thấy hình nhưng lại luôn hiện hữu qua từng lá thư anh ta gửi. Vẫn nói, Tsuyoshi ở từng lá thư cứ hồn nhiên, vô tư, không nghĩ đến cảm nhận của những người bên ngoài, song, liệu điều đó có thật không? Sự cô đơn của kẻ chỉ biết nhìn thời gian qua đi, sự sám hối ăn mòn một con người hiện tại và mãi mãi về sau, sự ăn năn khi đã gây ra khó khăn cho người em ruột anh ta hằng yêu quý… Tsuyoshi vô tư ư? Hẳn là không phải. Mà anh ta chỉ cố tỏ ra vô tư bởi anh ta hiểu, anh ta không có quyền để thể hiện nỗi cô đơn để từ đó, đòi hỏi Naoki hay gia đình nạn nhân bất cứ điều gì.  Tuy vậy, những lá thư của Tsuyoshi thực sự cần thiết? Về điều này lại chẳng thể cắt nghĩa rõ ràng bởi nếu làm rõ trên khía cạnh nào, cũng đều thấy nó thật nghiệt ngã. Nhưng riêng với Tsuyoshi, viết thư là cần thiết. Bởi đó là cách duy nhất anh ta, một phạm nhân cướp của giết người, đã mất đi quyền công dân còn có thể liên hệ với thế giới bên ngoài, là cách duy nhất anh ta khẳng định được rằng mình vẫn đang sống, đang tồn tại. Đó là Takeshima Naoki, em trai của hung thủ, người đã cố vẫy vùng để vượt thoát khỏi vết nhơ trong quá khứ để làm lại cuộc đời, mà càng vẫy vùng, Naoki như càng chìm sâu thêm vào vũng lầy vô định. Vũng lầy đó có tên là định kiến, là miệng lưỡi thế gian về cái danh người ta gán cho anh “em trai của tội phạm cướp của giết người”. Mà không chỉ Naoki của hiện tại, gia đình anh sau này cũng là nạn nhân của định kiến ấy. Vì thế, Naoki có những hành động hết sức cực đoan, đã từng thử đối mặt với tất cả, những đến cuối cùng, thứ anh nhận về chỉ là trái đắng. Để rồi chính Naoki cũng kì thị bản thân mình. Để anh nhận ra, cuộc đời anh là một bản nhạc buồn đầy tuyệt vọng. Cũng như việc, dù anh có đoạn tuyệt, cũng chẳng thể thay đổi được sự thật Takeshima Naoki là em trai của Takeshima Tsuyoshi. Có thể nói chăng, Naoki, có gì đó thật giống với Ryoji hay Yukiho và rất nhiều nhân vật khác trong sáng tác của Keigo-sensei, dù ở hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác, mang số phận này hay số phận kia, tất cả đều như đang lần dần bước đi vào màn “đêm trắng” không lối thoát. Và mỗi chương truyện qua đi, lại xuất hiện những nhân vật, có thể chỉ thoáng qua, cũng có thể đóng vai trò chủ đạo trong chương đấy, dù là vô tình hay hữu ý, đang góp phần mỗi lúc một tô đậm thêm màn “đêm trắng” mà Naoki đang bước. Họ, có tên tuổi, danh tính, nhưng đều như đại diện cho hai chữ “định kiến”, hai tiếng “trừng phạt” cho tội ác mà Tsuyoshi gây ra. Đúng như ông Hirano đã từng nói: “Họ kì thị là lẽ đương nhiên”, “Tội phạm bắt buộc phải nhận thức được chuyện này. Vấn đề không phải cứ vào tù là xong. Họ phải hiểu rằng sự trừng phạt không chỉ nhắm vào mỗi mình họ”. Vì thế, đến cuối cùng, có lẽ chẳng thể trách cứ hay đổ lỗi cho bất cứ ai. Bởi mọi vấn đề, mọi suy nghĩ, mọi hành động của con người xuất hiện trên trang văn của Keigo-sensei đều hợp tình, hợp lý, hợp suy nghĩ mà một người bình thường sẽ nghĩ đến. Không thể yêu, không thể trách, không thể ghét hoàn toàn, chính vậy mà cõi lòng độc giả khi tiếp xúc với tuyến nhân vật trong Tegami – Thư lại càng thêm nặng nề, day dứt. Chẳng phải, con người vốn thích những gì rõ ràng sao? Nhưng bản chất đời sống lại chẳng khi nào rõ ràng, dễ dàng để người ta thấu hiểu, cắt nghĩa đến thế. Và mỗi bóng hình xuất hiện trong Thư, lại lần nữa xoáy sâu vào tâm trí những suy ngẫm, khắc khoải nhân sinh về hai tiếng con người, về hai chữ làm người giữa cuộc đời vốn thiện – ác đan xen như này. Tuy nhiên, giữa sắc màu u ám, trầm uất của Tegami – Thư, vẫn có những cá nhân như Kurata, Shiraishi Yumiko hay Terao Yusuke , để ít nhất, người đọc còn thấy điểm sáng giữa màn “đêm trắng”. Họ có thể là người cùng chung hoàn cảnh như Naoki nên dễ đồng cảm, thấu hiểu cho nỗi đau của anh từ tận đáy lòng. Đó có thể người bạn chơi với Naoki bằng tất cả sự vô tư, trong sáng, hào sảng, nghĩa hiệp nhất. Họ là tình đời, tình người, để đến tận cùng, Tegami – Thư có đau thương, tuyệt vọng, có nghiệt ngã, tăm tối đến thế nào cũng vẫn còn hi vọng le lói về tương lai hay ngày mai. Được viết vào năm 2003, có thể nói, mọi bối cảnh, không gian trong Tegami – Thư so với thời điểm hiện đại đều khá cổ kính. Nhưng chính sự cổ kính đó lại hợp với bầu không khí ngột ngạt, u ám như đêm trường bất tận đến lạ. Một không khí rất Nhật với những con người mất đi căn cước, đang vẫy vùng để có thể nói được lên tiếng nói cá nhân, để chứng minh rằng bản thân đang tồn tại giữa cuộc đời. Một Tsuyoshi mất quyền công dân vì làm điều ác vẫn cố níu giữ chút niềm con người cuối cùng qua việc anh ta viết thư đến những người xung quanh. Một Naoki muốn chối bỏ thân phận thật là em trai kẻ sát nhân để dựng lên căn cước mới, hi vọng có cuộc đời tươi đẹp hơn. Một Shiraishi luôn muốn Naoki sống thật mạnh mẽ, đường hoàng nhưng chính bản thân cô lại luôn sống trong cảnh lo âu, sợ sệt, chui lủi vì món nợ của người cha. Một Yusuke vật lộn trong ngành giải trí chỉ để khẳng định được cái tôi với quan điểm nghệ thuật: âm nhạc phải là âm nhạc, ở đó trước là chuyên chở tài năng của người nghệ sĩ, sau đấy mới đến thỏa mãn phục vụ số đông khán giả… Những con người của năm 2003, nhưng dưới ngòi bút của Keigo-sensei, lại hiện lên như con người Nhật Bản thời hiện đại nói riêng, như con người nói chung.  Ngoài một không khí cùng những con người rất Nhật để tạo nên cái riêng cho tác phẩm, Tegami – Thư còn là câu chuyện chung của con người trên thế giới, về tâm lý chung của loài người khi đối diện với những kẻ “lạc loài”, những ai thuộc về phần thiểu số. Phải, đó là tội phạm và người thân của tội phạm.  Nếu như trong Akui – Ác ý, thành kiến tạo nên ác ý, từ ác ý mà cấu thành tội ác; thành kiến đó, xuất phát từ sự đớn hèn, từ sự giáo dục của gia đình, nhà trường. Thì đến với Tegami – Thư, vẫn là câu chuyện thành kiến ấy nhưng định kiến bây giờ xuất phát từ chính tâm lý chung của người đời khi đứng trước tội ác. Kẻ phạm tội chịu sự phán xét của pháp luật, còn người thân của họ sẽ phải chịu phán xét của người đời: bị đối xử như người ngoài lề, bị xa lánh, kì thị… dù bản thân người đó không làm bất cứ điều gì sai. Keigo-sensei đã gọi đó là tâm lý tự bảo vệ, hành vi “chống phân biệt đối xử”, hay chính là phản xạ tự nhiên, không điều kiện của con người khi gặp phải một sự việc, trái với đường ray, quỹ đạo cuộc sống yên bình. Luật pháp, có thể chỉ là một thứ “thánh giá rỗng”, nhưng miệng lưỡi thế gian chính là thứ luật không tên, không văn bản ràng buộc tất cả những ai trong cuộc: cả kẻ phạm tội, gia đình tội phạm, và cả nạn nhân nữa. Nhưng vì thế mà thứ luật không thành văn đẩy người trong cuộc mãi chìm sâu vào vũng lầy, vào “đêm trắng” chẳng thấy ngày mai. Đó là sự trừng đầy nghiệt ngã, đau đớn với một bộ phận thiểu số kia. Đến nỗi, lúc Naoki đủ dũng khí đối diện với người anh trai sau khi đã trải qua đủ thương đau, vẫy vùng mọi cách để vượt thoát quá khứ, vẫn nghẹn lại mà thốt lên: “Anh ơi! Naoki thầm gọi trong tim. Tại sao chúng ta lại sinh ra trên đời này”. Bài hát Imagine Naoki đã từng cất tiếng hát, xuất hiện thấp thoáng, trở đi trở lại, làm thành kết cấu đầu cuối tương ứng cho Tegami – Thư như chính nguyện vọng Naoki đã từng: một thế giới không còn ranh giới, một thế giới chẳng có phân chia, định kiến. Để rồi, Naoki lại chẳng thể cất tiếng hát lên lần nữa, bởi anh đã hiểu, nguyện vọng đó mãi chỉ lại vọng tưởng trước hiện thực tăm tối, phũ phàng. Bên cạnh vấn đề : “Thành kiến trong lòng người khác như ngọn núi lớn, cho dù ngươi có cố dịch chuyển thế nào cũng chỉ là mơ mộng hão huyền.” (Thân Công Báo – Na Tra Ma đồng giáng thế), Tegami – Thư còn là câu chuyện về sự lựa chọn của con người trong cuộc đời đầy những sự kiện mà chẳng ai có thể lường đến. Ngay lúc gây ra tội ác, Tsuyoshi đã đứng trước muôn vàn chọn lựa: có tiếp tục việc trộm cắp không? Có nên ở lại lấy gói hạt dẻ rang đường, có nên ở lại xem tivi, có nên giết người? Khi vào tù lại là việc lựa chọn: gặp em trai hay là không, viết thư hay là không? Naoki phải lựa chọn cách sống làm sao với cái danh em trai của kẻ cướp của giết người: đánh đổi ước mơ, tình yêu, công việc, và cuối cùng là mối quan hệ đầy oan trái,… Và cả những người khác nữa. Không biết chọn lựa đó là đúng hay sai, có giải quyết được tận gốc vấn đề hay không nhưng con người vẫn phải không ngừng lựa chọn cách sống, lối sống, tâm thế trước trường đời.  Cuốn sách khép lại dưới hình thức mở, Higashino Keigo không nói tiếp đến cuộc đời Naoki, cũng không kể tiếp đến tương lai lúc Tsuyoshi ra tù. Chặng đường tiếp theo của hai anh em, vẫn tiếp tục là những phép thử và sai, bởi cuộc đời phía trước, còn nhiều lắm đau thương. Vì thế, với Tegami – Thư, độc giả có thể khóc khi người trong cuộc nói được lên tiếng nói từ tận đáy sâu tâm hồn họ, sau rất nhiều nghẹn ngào mà sáng tác của Keigo-sensei mang lại trước giờ. Tegami – Thư, câu chuyện được kể từ hai điểm nhìn, hai ngôi kể: điểm nhìn của Tsuyoshi với ngôi kể thứ nhất qua những lá thư hắn gửi; điểm nhìn của Naoki với ngôi kể thứ ba qua cuộc sống anh phải trải qua sau ngày Tsuyoshi bị bắt giữ. Bởi thế, Keigo-sensei đã tạo lên được hai không gian truyện, hai tâm thế con người rất khác biệt: không gian trong tù và không gian ngoài xã hội, tâm lý tội phạm và tâm lý người nhà phạm nhân; cùng với đó là các mối quan hệ xã hội không dễ gì có thể làm ngơ, chối bỏ. Một tác phẩm, tưởng rằng nói lên những vấn đề cá nhân hết sức nhỏ nhặt, mà lại day dứt, ám ảnh lòng người mãi không thôi. Một câu chuyện, chứa đựng những khắc khoải nhân sinh mà chẳng ai có thể phân rõ đúng – sai, thiện – ác. Để rồi, trang sách cuối còn mở, mà những nghẹn ngào đã chảy thành nước mắt từ khi nào chẳng rõ.  Mọt Mọt review *** Có vẻ cái tên Higashino Keigo không ít fan ở Việt Nam đâu nhỉ. Trả lời câu hỏi Sự cứu rỗi của thánh nữ có hay hay không? Câu trả lời là có hay. Có vẻ Nhã Nam vẫn là nhà chọn sách tốt trong rất nhiều các tác phẩm của Keigo. Sẽ chỉ nói về Thánh nữ chứ không so sánh nó với tác phẩm nào của Keigo. Cà phê, lại là cà phê. Mình nhớ trong Sự thật về Bebe Donge của Simenon thì người vợ cũng đã đầu độc chồng trong ly cà phê. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng liên quan đến cà phê. Thế nên các quý ông quý bà thích uống cà phê cẩn thận nha, có thể bị độc chết bất cứ lúc nào. Mashiba Yoshiaka, người chồng bị độc chết trên sàn nhà, thạch tín còn sót lại trong cốc cà phê lênh láng bên cạnh. Mọi nghi vấn được tập trung vào hai đối tượng: người vợ Ayane và cô người tình bí mật Hiromi. Vấn đề là cả hai người đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Bài toán đặt ra là làm thế nào để hạ độc Yoshitaka và đầu độc bằng cách nào? Vì trong thời điểm xảy ra vụ án không ai có khả năng tiếp cận nạn nhân. Thật ra, trong Sự cứu rỗi của thánh nữ, hung thủ có thể thấy ngay từ đầu. Vấn đề là nguyên nhân và cách thức gây án. Một bài toán vô cùng khó và có những cái không thể ngờ tới. Vẫn là những người phụ nữ. Nếu bạn nào ít nhiều đọc Keigo chắc hẳn sẽ rất ấn tượng với những người phụ nữ trong tác phẩm của ông. Họ thường đẹp và rất nguy hiểm. Sự cứu rỗi của thánh nữ cũng không ngoại lệ. Cô ấy đẹp, thu hút nhưng luôn treo cái chết trên đầu bạn. Thật sự rất nể người phụ nữ này luôn. Làm sao cô ấy có thể kiên trì sống và chịu đựng, chấp nhận cuộc sống với tình yêu và sự thù hận, treo cái chết lơ lửng từng ngày như vậy. Sự cứu rỗi của thánh nữ nằm trong series “Thám tử Galileo” Yukawa. Đọc đến nửa thì vị thám tử này mới nhập cuộc nhưng vô cùng thú vị. Có lẽ bài toán càng hóc búa thì càng thu hút vị thám tử này. Mặc dù khó tin, có thể là “đáp án ảo” chỉ “có thể chỉ xảy ra về mặt lý thuyết nhưng không hề tồn tại trong hiện thực” nhưng chứng minh đáp án đó là ảo lại cho ra một kết quả hết sức kinh ngạc của một sự thật chua xót. Và tất nhiên tác giả cũng có lồng ghép một số kiến thức rất thú vị vào trong vụ án vì thám tử Galileo là giáo sư dạy vật lý ở trường đại học mà. Cứ tưởng đâu đây là vụ án “hoàn hảo”, biết mười mươi mà không đủ bằng chứng để buộc tội gây “ức chế”, nhưng may quá, vẫn còn ánh sáng cuối đường hầm mặc dù sự thật là đau xót. Có một câu hỏi: Đàn ông quan niệm như nào về lập gia đình? Phải chăng họ lập gia đình chỉ vì cần người sinh con? Họ không cần tình yêu? Nếu không sinh được con thì người phụ nữ chẳng qua chỉ là vật trang trí trong ngôi nhà không hơn không kém? Tác phẩm: Phía Sau Nghi Can X Bạch Dạ Hành Bí mật của Naoko Thánh Giá Rỗng Điều Kỳ Diệu Của Tiệm Tạp Hóa Namiya Hoa Mộng Ảo Ngôi Nhà Của Người Cá Say Ngủ Trước Khi Nhắm Mắt Sự Cứu Rỗi Của Thánh Nữ Tên của trò chơi là bắt cóc Ác Ý Ảo Dạ Ma Nữ Của Laplace Phương Trình Hạ Chí Cáp Treo Tình Yêu Trứng Chim Cúc Cu Này Thuộc Về Ai Thư Ma Thuật Bị Cấm ... *** Tsuyoshi nhằm vào ngôi nhà đó không vì lý do gì đặc biệt, chẳng qua do hắn đã biết trước phần nào tình hình nơi ấy mà thôi. Nhưng khi quyết định phạm tội, hình ảnh đầu tiên thoáng qua trong đầu hắn lại là bà Ogata với mái tóc bạc trắng chải chuốt gọn gàng cùng lối ăn mặc thanh lịch quý phái. “Cảm ơn cậu nhé! Còn trẻ thế này mà đã đi làm. Tháo vát quá!” Bà lão vừa nói vừa chìa cho Tsuyoshi một phong bì nhỏ. Mở ra, hắn thấy bên trong là ba tờ 1000 yên. Từ ngày làm công nhân chuyển nhà đến giờ, đây là lần đầu tiên hắn được boa nhiều tới vậy. Nhìn nét mặt đủ biết bà là người tử tế. Khi bà mỉm cười, từng nếp nhăn cũng toát lên vẻ hiền hậu. Tsuyoshi gật đầu qua quýt tỏ ý cảm ơn, đàn anh đi cùng thấy vậy liền mắng, “Này, cảm ơn cho cẩn thận đi.” Đó là chuyện của bốn năm trước, khi Tsuyoshi vừa tròn 19 tuổi. Từ thời Edo, phố Kiba quận Koto đã có rất nhiều hàng buôn gỗ, cái tên Kiba có lẽ cũng bắt nguồn từ đó. Trên xe tải tới nhà bà Ogata, đàn anh kể với Tsuyoshi rằng gia đình Ogata một thời cũng từng buôn gỗ. Tuy nhiên, việc kinh doanh chỉ được thời gian đầu, hiện giờ thu nhập chủ yếu của nhà Ogata lại là tiền thu về khi sử dụng chính khu đất đã từng kinh doanh gỗ ngày trước vào việc khác. “Thế nên họ chẳng cần làm gì vẫn được ăn sung mặc sướng.” Đàn anh nói với giọng đầy thèm muốn. “Ngoài bãi đỗ xe, chắc chắn họ còn có cả chung cư và căn hộ cao cấp. Một mình bà lão làm sao tiêu hết, nên cứ mỗi tháng lại tích được một khoản. Anh con trai vừa đòi có nhà riêng là bà ấy rút ngay ra một xấp tiền lớn.” “Nhà mới của anh con trai là bà ấy mua cho ạ?” Tsuyoshi ngạc nhiên hỏi. “Chẳng biết nữa, nhưng chắc là vậy. Nghe nói anh ta không nối nghiệp gia đình. Nếu chỉ là người làm công ăn lương bình thường, làm sao mua nổi nhà.” Rõ ràng đàn anh tự suy diễn, nhưng khi tới nhà Ogata, Tsuyoshi nhận ra không phải tất cả suy diễn đều là vô căn cứ. Họ ở căn biệt thự một tầng trên khoảnh đất rất rộng, pha trộn phong cách Nhật và Tây ít thấy vào thời đó. Đối diện biệt thự là bãi đỗ xe thu phí tháng cũng treo biển hiệu Ogata. Phía Nam biệt thự là khoảnh vườn rộng đủ xây một ngôi nhà nhỏ, bên trong có một con chó to cỡ con bê đang đi đi lại lại. Bà lão nói nó thuộc giống chó núi Pyrenees. Con chó chưa nhìn thấy nhóm Tsuyoshi đã xồ lên sủa hung hãn. Chắc nó đánh hơi thấy người lạ trước cả khi người ta kịp xuất hiện. “Ồn ào quá, con kia!” Đàn anh vừa quát vừa bọc chống sốc quanh tủ. Tuy đã bị nhốt vào chuồng nhưng con chó vẫn sủa liên hồi suốt thời gian họ làm việc. Một đàn anh khác bảo, “Cũng nhờ có nó mà bà lão sẽ an tâm hơn khi sống một mình. Chắc bình thường không xích lại đâu. Tên trộm nào dám trèo tường vào nhà, nó sẽ nhào ra cắn ngay.” Công việc lần này là chuyển đồ cho gia đình người con trai cả ra ở riêng. Con trai bà cụ là một tên gầy gò ngoài bốn mươi tuổi, lầm lì ít nói, hoàn toàn thờ ơ với việc chuyển nhà. Trong khi đó chị vợ mập mạp lại hồ hởi ra mặt, đầu óc chỉ chăm chăm hướng về ngôi nhà mới chứ chẳng buồn bận tâm đến ngôi nhà mà họ sắp rời đi. Đàn anh lại bắt đầu suy diễn đủ điều, “Người chồng tính tình nhu nhược, bị vợ dắt mũi nên mới buộc phải chuyển đi. Thông thường cứ xây sửa lại nhà cũ là xong, nhưng như vậy bà lão sẽ tiếp tục sống chung với họ. Chắc hẳn người đứng tên ngôi nhà này cũng là bà lão, gia đình người con trai khác nào ăn nhờ ở đậu. Chị con dâu mập ú chẳng vui vẻ gì chuyện này nên mới bắt anh chồng phải mua nhà riêng. Cậu nhìn mà xem, vẻ mặt chị ta cứ như thể ‘từ nay thoát cũi sổ lồng’ vậy.” Đàn anh vừa nói vừa nhếch mép cười. Sau khi chất hết hành lý lên xe, nhóm Tsuyoshi tới chào bà lão. Bà không đi cùng sang nhà mới để giám sát việc dỡ đồ. Bà cổ vũ riêng Tsuyoshi, “Cố gắng lên nhé.” Chắc vì thấy hắn trẻ người nhất và cũng non dạ nhất. “Vâng!” Tsuyoshi khẽ gật đầu. Khoảng một năm sau, gần nhà Ogata lại có người muốn chuyển nhà. Buổi trưa, sau khi ăn xong cơm hộp mua ở cửa hàng tiện lợi gần đó, Tsuyoshi đi bộ tới nhà Ogata. Bức tường đá oai nghiêm không khác gì một năm trước. Nhưng khi bước lại gần cổng, tự nhiên hắn thấy khang khác mà chính hắn cũng không hiểu tại sao. Cho tới khi tiến về phía vườn, hắn mới nhận ra không còn tiếng sủa của con chó to ngày nọ nữa. Hắn đứng cạnh tường đá thử dòm vào trong vườn. Cái chuồng vẫn ở đó nhưng không thấy bóng dáng con chó đâu. Hắn chắc mẩm nó chỉ đang đi dạo loanh quanh cùng bà lão thôi. Bỗng hắn nhận ra ngay cạnh chuồng dựng một thanh gỗ dài, bên trên treo vòng cổ màu xanh. Tsuyoshi nhớ đó là vòng cổ của con Pyrenees. Tsuyoshi thầm nghĩ, hẳn bà lão phải rất cô đơn khi con trai rời khỏi nhà và con chó yêu quý cũng ra đi. Đây là điều duy nhất thoáng qua trong đầu hắn tại giây phút đó. Chỉ là những suy nghĩ tản mạn, chứ hắn tuyệt nhiên không có ý hãm hại bà lão giàu có sống một mình. Thậm chí suốt ba năm tiếp theo, hắn cũng chưa một lần nhớ về bà. Có lẽ nếu không lâm vào cảnh cùng cực như hiện giờ, suốt đời này hắn cũng chẳng nhớ tới bà nữa. Hắn tiến lại gần. Biệt thự với kiến trúc kết hợp hài hòa hai phong cách Đông-Tây nằm lặng lẽ giữa tường bao bằng đá. Gió mùa này bắt đầu se lạnh. Chỉ tầm một tháng nữa thôi, người ta sẽ phải co rúm vai lại cho bớt khó chịu khi đi trên đường. Tiếp đến sẽ là tháng Chạp, rồi tháng Giêng. Đến lúc ấy đường phố chắc chắn sẽ rất đông đúc, người người qua lại tấp nập. Vì có công việc nên họ mới chạy đây chạy đó. Vì có tiền nên họ mới hào hứng phấn khởi. Còn mình không có cả hai. Hắn không cần tiền mua bánh Giáng sinh hay mochi cho năm mới. Thứ mà Tsuyoshi muốn là khoản tiền đủ làm yên lòng Naoki, để thằng bé khỏi phải trăn trở về việc thi đại học nữa. Tsuyoshi bắt đầu mơ mộng hão huyền. Nếu có số tiền này trong tay, đầu tiên hắn sẽ đem gửi ngân hàng rồi cho Naoki xem sổ, “Thế nào, dù không kể với em nhưng anh đã tiết kiệm được bao nhiêu đây. Với chỗ tiền này anh cóc sợ phí dự thi hay phí nhập học nữa, em không việc gì phải lo lắng cả.” Tsuyoshi biết Naoki đang dần mất niềm tin vào việc thi lên đại học. Hắn cũng biết thằng bé bí mật đi làm thêm. Thằng bé sợ anh giận nên chưa dám nói, nhưng đã bắt đầu âm thầm tìm hiểu các công ty. Hắn biết nếu không mau mau nghĩ cách thì không kịp mất, nhưng hiện giờ, hắn không những không có tiền để gửi tiết kiệm, mà còn mất luôn cả cần câu cơm. Hắn nghỉ việc ở công ty chuyển nhà đã hai tháng nay. Nguyên nhân trực tiếp là bởi đau hông và đầu gối. Vốn dĩ hắn cũng không phải nhân viên chính thức nên không thể xin điều chuyển sang bộ phận khác. Ngoài ra, hắn còn làm nhân viên chuyển đồ nội thất, nhưng hợp đồng với bên đó cũng chấm dứt rồi. Hân là kẻ vụng về và có trí nhớ kém. Điều duy nhất hắn tự tin về bản thân là thể lực nên mới chọn những công việc kiểu này làm kế sinh nhai, rốt cuộc lại hủy hoại chính sức khỏe mình. Không có thể trạng tốt thì chẳng nơi nào chịu thuê. Cho đến tuần trước hắn vẫn còn đi giao đồ ăn, chẳng may đang giao hàng thì hông đau dữ dội, thùng đồ ăn rơi tung tóe, nên lại bị sa thải. Muốn đi làm ở công trường, e rằng sức không chịu nổi. Suy tính chán chê, hắn vẫn không tìm ra lối thoát nào. Người ta nói hiện giờ cả thế giới đều khó khăn, Tsuyoshi lại thấy ngoài hắn ra hình như ai cũng giàu có. Dạo này mấy cửa hàng giá rẻ rất được ưa chuộng, nhưng giá có rẻ hay không cũng chỉ quan trọng với người có khả năng mua được. Hắn cho rằng thực phẩm lành mạnh trở nên thịnh hành như vậy đều do người ta sống quá dư dả. Giá như họ chia cho hắn một phần nhỏ của sự dư dả đó thì tốt biết bao. Hắn không cổ xúy người nghèo nên đi ăn trộm, nhưng giờ hắn không nghĩ ra được cách nào khác. Dù có than thở hay cầu nguyện, tiền cũng không thể tự nhiên mà có, xem ra hắn chỉ còn cách tự thân vận động mà thôi. Trong đầu hắn hiện lên khuôn mặt hiền hậu của bà Ogata. Bà lão tiền nhiều vô kể, lấy trộm một ít cũng chẳng phải chuyện gì nghiêm trọng. Nếu biết kẻ trộm là một người khốn khổ như hắn, có khi bà lại tha thứ cũng nên. Nhưng tốt nhất vẫn không nên để bà phát hiện ra. Tsuyoshi đảo mắt nhìn quanh. Cả khu phố gồm toàn nhà dân xen lẫn vài công xưởng nhỏ, hầu như không có cửa hàng. Chắc vì vậy mới không thấy bóng dáng ai đi lại trên đường. Ngay bên cạnh có vài chung cư, nhưng cổng chính đều dẫn thẳng ra đường lớn nên cư dân ở đó rất ít khi bén mảng ra con phố phía sau. Cái bóng nhỏ thó của hắn đổ trên mặt đường nhựa. Hắn không rõ thời gian chính xác, chắc khoảng 3 giờ chiều gì đấy. Mười phút trước, hắn có xem giờ lúc vào cửa hàng tiện lợi. Hắn vào để mua găng tay. Trước khi tới đây, hắn đã quên khuấy mất chuyện sẽ để lại dấu vân tay. Hắn biết hiện giờ nhà Ogata đi vắng hết. Ban nãy hắn đã thử gọi bằng điện thoại công cộng ở bên ngoài cửa hàng tiện lợi. Hắn lấy số từ biển hiệu của bãi đỗ xe đối diện nhà Ogata. Điện thoại có kết nối, nhưng âm thanh vang lên lại là tiếng hệ thống trả lời tự động. Tsuyoshi từ từ tiếp cận cổng nhà Ogata. Tất nhiên hắn cũng do dự. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi trước khi đến được cổng, hắn tự hỏi tự đáp không biết bao lần. “Làm thế này có ổn thật không? Đương nhiên là không. Nhưng đâu còn cách nào khác. Đằng nào cũng chỉ có thể ăn trộm, thôi thì đi trộm của người giàu vậy. Nếu bị bắt thì phải làm sao? Không, không có chuyện bị bắt đâu. Trong ngôi nhà này chỉ có bà lão sống một mình, chẳng may bị phát hiện thì cứ chạy trốn là xong. Không thể nào bị tóm được.”   Mời các bạn đón đọc THƯ của tác giả Higashino Keigo.