Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phía Núi Bên Kia

Xuân Sách (4 tháng 7 năm 1932 – 2 tháng 6 năm 2008) tên thật là Ngô Xuân Sách, ngoài ra ông còn bút danh Lê Hoài Đăng, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông được biết tới khi là tác giả phần lời các ca khúc nổi tiếng Đường chúng ta đi (dựa trên tứ thơ của Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên), Cùng anh tiến quân trên đường dài (nhạc Huy Du), đặc biệt nổi bật qua tập thơ Chân dung nhà văn. Cuốn sách Phía Núi Bên Kia nói về câu chuyện của một cậu bé thường nhìn về phía rặng núi xanh mờ của quê mình mà đoán xem phía núi bên kia ấy có những gì. Tác giả viết về những biến cố lịch sử đất nước năm 1945, nhất là nạn đói Ất Dậu, qua con mắt của một chú bé - vừa thương vừa không buồn thảm, lại rất thực. Rồi theo chân bố, cậu cũng đi kháng chiến, phục vụ trong đoàn Văn công thiếu nhi. Hai bố con gặp lại nhau ngày chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng. *** K hi có điều gì không bằng lòng về tôi, mẹ tôi thường nói: - Tao nuôi mày ba sống một chết, qua năm lần bảy bận khốn đốn gian nan. Tôi sinh năm con hổ. Nhưng tôi ra đời lại như một con mèo ốm. Bà mụ cắt rốn tôi bằng cái lưỡi hái, tắm tôi trong cái bầu đài bằng mo cau. Bà trao cái thằng bé dăn dúm đỏ hỏn cho mẹ tôi: “Trời cho chị một thằng cu, nhưng chị sẽ vất vả vì nó.” Tôi khóc, khóc ngày này qua đêm khác. Đầy cữ, đầy tháng, đầy năm tôi vẫn khóc. Bú được chút sữa mẹ nào, tôi đều biến thành nước mắt. Khó nói hết nỗi vất vả cực nhọc của mẹ tôi. Sau này khi lớn lên, nhìn những nếp nhăn trên mặt mẹ, vẻ gầy guộc dầu dãi của mẹ, tôi vẫn nghĩ đó là dấu vết những năm tháng mẹ nuôi tôi, những năm tháng mà “nước mắt mẹ dài hơn nước mắt con”. Tôi sống quặt quẹo cho đến năm lên ba thì bị giáng một trận ốm kịch liệt. Một buổi chiều tháng mười ảm đạm, bệnh tôi đã hết phương cứu chữa. Mẹ bế tôi từ trong buồng ra đặt trên cái chõng kề cửa sổ. Tôi thôi khóc, mắt lờ đờ và mồm ngáp như cá đớp mồi khan, bụng chướng lên như cái trống. Chị Lụa năm ấy lên sáu, thấy tôi há mồm liền cầm củ khoai chấm vào: - Em ơi dậy chị cho ăn khoai. Mẹ tôi ngồi canh chừng ủ rũ. Bố tôi lặng lẽ sắp sẵn một manh chiếu, ba cái lạt tre, cái thuổng cái cuốc dựng đầu hè cùng với một bó đuốc. Chờ tôi tắt thở là bố mượn người đưa tôi đi. Trên lớp da bụng căng như mặt trống, ông bác tôi viết vào một chữ “Sát”, chữ nho có nghĩa là giết. Làm vậy là khi tôi chết rồi biến thành ma thì cũng tìm đường cuốn xéo đừng quay lộn về đầu thai vào gia đình làm khổ cha mẹ nữa. Vào thời ấy ở một làng quê hẻo lánh, chuyện thuốc thang thật khó khăn. Bố mẹ tôi đã bán một sào ruộng hiếm hoi của mình để cứu tôi, nhưng lúc này thì coi như tôi sắp vỡ nợ cha mę. Vào đúng lúc ấy, trời nhá nhem tối, có một người lạ vào nhà tôi. Ông khách kỳ dị mặc bộ quần áo nâu cũ, vai khoác cái bị cói, đầu đội cái nón rách úp sụp xuống mặt. Trông chẳng khác gì một người ăn mày, thuở ấy ăn mày không thiếu. Ông khách vào ngõ là đi sục luôn vào nhà. Bố tôi sửng sốt, nhưng khi chủ khách nhận ra nhau thì lập tức khép kín cửa lại. Ông khách thăm tôi rồi nói vội: - Cho tôi cái bát và ít nước. Ông moi trong người ra một khúc gỗ đen bóng bằng đầu ngón tay cái, rồi mài vào bát nước vối. Bố tôi lấy đũa cả ngáng mồm tôi cho ông khách đồ bát nước ấy vào. Ông khách lấy tay xoa nhẹ bụng tôi. Cái bàn tay mầu nhiệm của ông khách bí ẩn đã làm cho cái bụng căng cứng của tôi bỗng chốc mềm ra và sôi lên ùng ục như biển động. Rồi tất cả những thứ gì chứa trong cái bụng ấy được tống ra ngoài làm nồng nặc cả ba gian nhà. Cái thằng tôi do quá thiết tha với cuộc đời đã cựa mình, mở mắt và cất tiếng khóc. Có lẽ đó là tiếng khóc mà bố mẹ tôi nghe một cách sung sướng kể từ sau tiếng khóc chào đời của tôi. Chị Lụa níu tay mẹ tôi: - Không chôn em nữa chứ mẹ? Mẹ tôi mắng chị qua nước mắt: - Mày chỉ dại mồm dại miệng. Chị vui lên, em sẽ sống và ăn khoai với chị. Bố tôi bê nồi cơm nguội và một đĩa thức ăn xoàng xĩnh bày mâm mời ông khách ăn. Ông vừa bỏ nón để lộ cái đầu trọc, ngồi lên giường bê bát cơm thì nghe phía nhà lý trường có hồi trống thúc gọi tuần đinh một cách hối hả, ông khách đặt bát cơm xuống nhìn bố tôi. Bố tôi nói khẽ: - Để lắng xem thế nào đã anh. Ông khách ngần ngừ một lát rồi vớ vội cái nón: - Tôi phải đi. Bố tôi lo lắng vặn nhỏ ngọn đèn. Ông khách đeo bị, đưa cho bố tôi cục gỗ mài cho tôi uống ban nãy: - Anh cầm lấy. Đây là miếng kỳ, vị thuốc quí của gia đình tôi còn lại, anh giữ lấy mà dùng cho cháu. Mẹ tôi xúc động: - Ơn anh đã cứu cháu. - Tôi chịu ơn anh chị nhiều, dịp khác tôi lại về. Bố tôi còn kịp đổ ít cơm nguội vào trong bị và đưa ông khách ra cửa sau. Trước khi từ giã, ông nói: - Dạo này bọn chó đánh hơi gớm lắm, anh phải cần thận. Bố tôi mở rào cho ông khách đi ra, xóa vết chân rồi quay vào nhà, chưa kịp nói gì thì lý trưởng đến. - Chào cụ lý. - Bố tôi lễ phép mời lão ngồi. - Nhà có chuyện gì đấy ? - Lý trưởng vừa hỏi vừa đảo mắt nhìn khắp nhà. Biết ông khách đã đi thoát, bố tôi bình tĩnh. - Dạ thưa cụ, nhà có thằng cháu ươn người, đã tưởng là không qua được, nhưng may mà bệnh cháu đã chuyển. - Thuốc gì mà chuyển? Mẹ tôi đã bưng lên một đĩa trầu, đỡ lời: - Thưa cụ, cùng quá cũng vơ nhăng vơ quàng mớ rễ mớ lá, may nhờ phúc cụ lý nó lại hợp với bệnh cháu. - Tôi làm gì mà phúc với đức. - Lão lý vẫn chân ngồi chân đứng, tai ngóng ra ngoài ngõ, lão vớ miếng trầu nhai rồi nói lúng búng: - Đêm hôm tôi cũng đi dạo một vòng, thấy nhà có việc tôi ghé vào, thôi tôi về. Bố tôi tiễn lý trưởng ra ngõ. Lão nói nhỏ: - Anh phải biết rằng nếu tôi không đánh hồi trống gọi tuần đinh thì sự việc đã khác. Tại sao tôi lại đánh trống, anh hiểu chứ ? - Đội ơn cụ. - Ơn huệ gì. Liệu đấy, đầu anh không giữ được đã đành, mà tôi rồi cũng không còn chỗ đội nón vì anh đấy. Quá lắm thì tôi không thể dung được đâu. - Dạ. - Dạo này có túng bấn lắm không? - Sống ra sao mà cụ chẳng biết, cũng cố chèo chống cho qua. - Này, Nhật vào Đông Dương rồi anh biết không ? - Dạ. - Làng trên đã có truyền đơn của Việt Minh rồi đấy, bao giờ thì đến lượt làng này? - Dạ. - Ối giời ơi! - Lão lý phát cáu - Anh cứ vờ vờ vịt vịt. Thời buổi rối như mớ bòng bong, chẳng biết đâu mà lần. - Cụ lại nhà.   Sau trận ốm ấy, tôi thay đổi hẳn. Tôi khỏe lên và ăn trả bữa. Bây giờ thì bố mẹ lại vất vả lo cho tôi ăn. Tôi ăn không biết no, biết chán. Lúc nào cũng ăn được, lúc nào cũng quấy khóc đòi ăn. Lên năm, lên sáu vẫn thế. Ăn ở nhà, rồi mò đi ăn chực hàng xóm. Ăn chực một bát lại đòi hai. Trẻ con trong xóm cho em ăn thường dọa: “Mày không ăn, thằng Đen đến nó ăn hết bây giờ”. Thằng Đen chính là tôi. Tên tôi là Hòe kia, nhưng vì tôi đen nên người ta gọi như thế. Sau này người ta vẫn gọi tôi là thằng Hòe đen. Bố tôi đi làm thuê, hôm nào làm ở trong làng mà tôi biết, tôi cũng mò đến. Mùa gặt, tối về bố tôi trục lúa cho nhà chủ, tôi đến nằm ở gốc rơm đánh một giấc, và lạ lùng thay khi làm lúa xong, thợ gặt dọn mâm bát ăn cơm là tôi vùng dậy ngay, tỉnh như sáo mon men kiếm một bát cơm. Một lần ăn xong, hai bố con về nhà, tôi nói líu ríu, bố tôi giận: - Lần sau tao cấm mày đi. - Sao thế bố ? - Sao nữa, lần sau mày theo đi tao đập chết. - Rồi bất ngờ bố tôi thở dài dịu giọng - miếng ăn nhục nhã lắm con ơi!   Mời các bạn đón đọc Phía Núi Bên Kia của tác giả Xuân Sách.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Hoa Tiêu trên Sông Danube - Jules Verne
  *** Jules Verne sinh ngày 8 tháng hai năm 1828 tại Nantes, mất ngày 24 tháng Ba năm 1905 tại Amiens (Pháp). Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, người đi tiên phong trong lịch sử thể loại Khoa học viễn tưởng. Năm 1863, cuốn tiểu thuyết đầu tay Năm tuần trên khinh khí cầu của Jules Verne được xuất bản tại nhà xuất bản Pierre- Jules hetzel, một trong những nhân vật quan trọng nhất trong ngành xuất bản Pháp thời bấy giờ và đã gặt hái thành công vang dội vượt ra ngoài biên giới nước Pháp. Sau thắng lợi đầu tiên đó, Jules Verne đã ký với hetzel hợp đồng 20 năm sáng tác các tiểu thuyết cho tờ Tạp chí giáo dục và giải trí chuyên dành cho giới trẻ. Trong vòng 40 năm, Jules Verne đã sáng tác loạt tiểu thuyết Những chuyến du hành kỳ thú (Voyages extraordinaires) bao gồm 62 tiểu thuyết và 18 truyện ngắn. Các tiểu thuyết của Jules Verne được đánh giá rất cao; chúng tiên đoán về cuộc sống hiện đại và các thành tựu khoa học kỹ thuật. Jules Verne đã viết về những chuyến du hành bằng máy bay hay tàu ngầm trong không gian, dưới lòng đất hay dưới nước... trước khi những phương tiện này được phát minh. Theo Index Translationum, ông là tác giả thứ hai được dịch nhiều nhất trên thế giới với tổng số 4.702 bản dịch các thứ tiếng, chỉ sau Agatha Christie. Năm 2011, ông là tác giả Pháp được dịch nhiều nhất trên thế giới. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của tác giả, năm 2005 được gọi là “Năm Jules Verne”. *** Vào ngày đó, thứ bảy 5 tháng tám 1876, cả một đám đông người ồn ào tụ tập tại quán rượu “Cuộc gặp mặt của các ngư dân”. Những tiếng hát, tiếng ly tách, tiếng hoan nghênh, tiếng la hét trộn lẫn thành sự ồn ào kiinh khủng, chốc chốc lại bật lên những tiếng thét to: “Hô!” bộc lộ niềm vui tràn ứ. Những ô cửa sổ nhỏ của quán rượu trông thẳng ra sông Danube, ven sông là một thành phố nhỏ tuyệt diệu của Ditmaringen, thủ phủ cua triều đại Phổ, tọa lạc bên nguồn sông vĩ đại vùng Trung Âu. Sau khi đeo xong tấm biển, được kẻ bằng những kiểu chữ Gô-tích thật đẹp, treo trên cửa ra vào, các hội viên của “Hội vùng sông Danube” đi vào quán rượu. Đây là một hội quốc tế bao gồm những ngư dân thuộc nhiều quốc gia khác nhau nằm ở ven sông Danube. Nếu không có sự đánh chén thì cuộc nhóm họp nào cũng mất đi phần náo nhiệt vui tươi – thức uống phải ngon nhất hạng. Thế nên ở đây người ta uống bia Huyn-khen hảo hạng và rượu ngon Hungary – ly cốc nào cũng luôn đầy tràn. Họ phì phà thuốc lá và những ống điếu dài lúc nào cũng nhả khói thơm lựng ngập tràn cả gian phòng lớn mời tố. Nếu những người nói chuyện không nhìn thấy mặt nhau, ắt họ cũng nghe được tiếng nhau, nhất là đối với những người không bị nặng tai. Là những con người điềm tĩnh và lặng lẽ khi bắt tay vào việc, những ngư dân này sẽ hóa thành những người ồn ào nhất trên đời, khi họ đã xếp mọi dụng cụ đồ lề của mình sang một bên. Họ không chịu thua bọn thợ săn trong các câu chuyện về những chiến công vĩ đại, mà đây là điểm mạnh của cánh săn bắn. Đến lúc tàn tiệc sáng khá là ngon lành, mà tụ hội quanh những cái bàn là hàng trăm khách được mời đến – những dũng sĩ của cái cần câu, những người ủng hộ nhiệt tình con nước, những lẻ si mê cái móc câu. Khỏi phải nói, những chiến công giờ sáng này đã hong khô cổ họng của họ, cứ theo số lượng chai đặt ra trong phiên tráng miệng. Sau đó đến lượt hàng lố chai rượu mùi được quyết định dùng đồ uống thay cho cà phê. Đồng hồ gõ ba tiếng – khi khách khứa rời bàn. Thật tình mà nói, trong số họ đã có vài người loạng choạng và họ không thể cất bước nổi nếu không có tay dìu của bạn bè. Nhưng số đông vẫn còn cứng cựa, như những vị khách quen mắt dũng mãnh và bướng bỉnh của các phiên họp thần thánh kéo dài mà hàng năm đều tái diễn vài lần nhân các cuộc thi của “Hội vùng sông Danube”. Danh tiếng của những cuộc thi (đã chuyển thành những cuộc chè chén) này vang dội trên suốt chiều dài con sông trứ danh, không kém gì những âm điệu luân vũ của Strauss. Tụ hội lại đây là các đấu thủ từ công địa Bađanh, từ Vuốctemhéc, Bavaria, Áo, Hungary, từ Rumani, Xecbi và thậm chí từ những tỉnh thuộc Thổ - Bungary và Bexarabia. Hội đoàn này tồn tại đã năm năm. Dưới sự cai quản của vị chủ tích Micletxcô, người Hungary, hội đoàn rất phát đạt. Tài lực của Hội tăng tiến đã cho phép đưa ra những giải thưởng lớn tại các hội thi, và lá cờ của hội nổi bật lên nhờ vô số những huy chương giành được trong sự đấu tranh bền bỉ với các hội đoàn những người câu cá khác. Ban chấp hành các giám đốc của hội, những người rất am hiểu các đạo luật về sự câu cá trên các vùng sông, đã ủng hộ những người đồng chí khi thì chống lại nhà nước, lúc lại chống phía tư nhân và bảo vệ các quyền hạn, đặc lợi của họ bằng một sự kiên trì đáng kể, dám nói rằng, bằng một sự bướng bỉnh hết sức chuyên nghiệp, vốn là đặc tính của giống hai chân trội hẳn trong giống người đặc biệt say mê sự đánh bắt cá bằng cần câu. Cuộc thi vừa được diễn ra, đây là lần thứ hai trong năm 1876. Vào lúc 5 giờ sáng, những đối thủ đã rời khỏi thị trấn và tụ tập trên bờ trái sông Danube gần Ditmarigen. Họ thảy đều ăn bận theo đồng phục của hội đoàn: áo choàng ngắn không làm gò bó các cử động, quần dài được nhét ống vào đôi ủng đế cao, mũ với phần lưỡi trai lớn. Đương nhiên, họ có trong tay cả bộ các loại dụng cụ khác nhau mà đã được liệt kê trong “Sách chỉ nam của người câu cá”. Những cần câu, những vợt phụ, chỉ câu được bó lại trong các túi da nai, những cái phao đủ mọi độ sâu, những hạt chì đủ mọi kích thước cho hòn chì, những con ruồi nhân táo, những sợi dây nhỏ, dây gân Florentina. Sự câu cá được tự do, bất cứ con cáo nào câu được cũng được tính điểm, và mỗi người câu cá đều có thể cho nó ăn thêm gì cũng được. Khi đồng hồ điểm sáu giờ, chín mươi bảy đấu thủ đều vào chỗ với cần câu trên tay, chuẩn bị ném móc câu. Khi kèn trỗi nhạc hiệu, thí chín mươi bảy sợ chỉ câu đồng loạt vút lên trên mặt sông. Vài giải thưởng đã được công bố tại hội thi, hai giải đầu, mội người được 100 phloring, được quy định phát cho người câu cá câu được số cá nhiều nhất, và cho người câu được con cá lớn nhất. Hoàn toàn không có diễn biến gì xảy ra cho đến hồi kèn hiệu thứ hai. Hội thi kết thúc vào lúc 11g. Số cá câu được của mỗi người đều được giao lại cho ban giám khảo gồm chủ tịch Micletxco và bốn hội viên của “Hội vùng sông Danube”. Dù rằng những người đánh cá bằng cần câu là những người nóng nảy nhất trên đời, song hoàn toàn không có một ai nghi ngờ đến sự hết sức công bằng của những nhân vật cao cấp và có uy thế này, nên không có một sự phản kháng nào xảy ra. Chỉ phải trang bị bằng lòng kiên nhẫn để nhận biết kết quả của cuộc thẩm xét tận tâm: sự phân chia các giải thưởng khác nhau căn cứ theo số cân hay số lượng cần phải đươc giữ trong bí mật cho đến tận lúc phát giải mà trước đó là bữa tiệc hữu nghị giữa những người dự thi. Giờ ấy đã đến. Những người câu cá – đó là không nói đến những người Ditmaringen tò mò – ngồi yên lặng chờ đợi trước bục diễn đàn gồm vị chủ tịch và các hội viên khác của hội đoàn. Quả thật, nếu có đủ ghế tựa, ghế dài và ghế đẩu, thì sẽ có khá đủ những chiếc bàn, mà trên cac bàn đã bày ra những vại bia, những chai rượu đủ các loại, những ly, cốc đủ cỡ lớn và nhỏ. Khi mọi người đã yên vị, và các ống tẩu đã bắt đầu nhả khói, vị chủ tịch đứng lên. - Nghe nào! Nghe nào! Những tiếng hoan hô vang động. Ngài Micletxco uống cạn cốc bia, bọt bia vẫn còn lòng thòng trên ria mép ông ta. - Thưa các bạn đồng nghiệp – ông nói bằng tiếng Đức, thứ ngôn ngữ mà các hội viên đều biết; không phân biệt các dân tộc – các bạn đừng mong mỏi ở tôi lời lập luận cấu trúc theo cách cổ điển với lời vào đề, phần nội dung chính, rồi đến đoạn kết bài. Không, chúng ta có mặt ở đây không phải để thưởng thức những ngôn từ nghi thức trang trọng mà tôi sẽ chỉ nói đến các công việc nhỏ bé của chúng ta theo tình bằng hữu, thậm chí sẽ nói, theo tình anh em, nếu như cách diễn đạt như thế lại thích hợp hơn đối với một hội đoàn quốc tế. Đáp lại hai câu nói quá dài này – như thường lệ mỗi khi bắt đầu diễn từ, thậm chí khi người phát ngôn không muốn làm người lắm lời – là tràng vỗ tay đồng lòng vang lên kèm theo với hàng loạt những tiếng la “Hay lắm!”, “Hô!” bị đứt quãng bởi những tiếng nấc cục. Tiếp đó ngài chủ tịch nâng cốc và toàn bộ những cái cốc cùng cạn sạch. Tiếp tục bài diễn văn, ngài Micletxco đã sắp xếp những người đánh cá bằng cần câu lên hàng đầu của nhân loại. Ông ta nhấn mạnh tất cả những phẩm chất, tất cả những đức tính mà những người câu cá đã được thiên nhiên hào phóng ban cho, ông ta chỉ rõ ràng phải cần đến biết bao nhiêu là sự nhẫn nại chịu đựng, sự nhanh trí, tính lạnh lùng, trình độ trí thức cao, để đạt được thành tích trong nghệ thuật bắt cá, bởi lẽ đây là cái lớn hơn nghề nghiệp, đây chính là nghệ thuật, và nó còn cao hơn nhiều so với các chiến công mà những thợ săn đã huênh hoang một cách vô ích. - Có thể so sánh nghề đi săn với sự đánh bắt cá được hay sao? – ông ta lớn tiếng. - Không! Không! – những cử tọa đồng loạt ứng tiếng. - Công trạng như thế nào khi phải giết một chú gà gô hay một cô thỏ, khi các ngài nhìn thấy chúng trong tầm bắn và khi con chó – mà chẳng lẽ chúng ta có con chó? – đi tìm thú săn cho các ngài? Các ngài nhận định con thú săn ấy từ xa, các ngài không bắn ngay nó vội, và các ngài sẽ vãi ra một số lượng đạn chì không đếm xuể, phần lớn những viên đạn chì ấy bay đi một cách vô ích… Trái lại, để đánh bắt con cá thì các ngài sẽ không thể theo dõi bằng cái nhìn… con cá ẩn náu dưới mặt nước… Phải nhờ đến rất nhiều kỹ xảo, mưu mẹo, trí tuệ và sự lém lỉnh để buộc con cá phải cắn câu, để giật nó, để lôi nó lên khỏi mặt nước, lúc thì nó treo lơ lửng bất động trên đầu sợi cước, lúc thì rung rung giãu giụa tựa như đang hoan nghênh các ngài vì chiến thắng. Lời này, lời đáp lại là những tiếng hô muốn vỡ phòng: “Hoan hô!”. Nhất định la ngài chủ tịch biết làm rung nảy lên tình cảm của các hội viên. Hiểu rằng không thể đi quá xa trong những lời tán dương các bạn đồng nghiệp của mình, ông ta đã đánh bạo mà không sợ bị buộc tội cường điệu – đặt ra cho họ phần công việc tao nhã cao hơn mọi người khác, tâng bốc lên tận trời xanh các nghề đánh cá khoa học của những người nhiệt thành và thậm chí ông ta còn quay lại để tưởng nhớ vị nữ thần tuyệt vời được đưa lên hàng đầu bởi những người hâm một trẻ tuổi của cổ La Mã tại các kỳ hội lớn của những người đánh cá. Những điều ám chỉ này có hiểu ra được hay không? Có lẽ thế, bởi vì họ đã gây nên làn sóng phấn khởi thật tình. Sau đó, vừa lấy lại hơi thở và sau khi uống cạn thêm một cốc vại bia sủi bọt nữa. Ông ta tiếp tục; - Tôi chỉ còn một điều là chúc mừng các bạn nhân sự phát đạt của hội đoàn mà hang năm đều được bổ sung thêm nhiều hội viên mới và tiếng tăm của hội đã được lặp nên một cách vững chãi trên toàn Trung Âu. Tôi sẽ không nói với các bạn về thành tích của chúng ta. Các bạn đã biết rõ chúng, cac bạn đã tham gia làm nên chúng, và đó là vinh dự lớn để nhập cuộc thi. Báo cí Đức, Tiệp, Rumani đều không tiếc lời ca ngợi, đánh giá hết sức cao, và tôi xin nói thêm là, hết sức xứng đáng! Tôi xin nâng cốc chúc mừng, và xin các bạn hãy ủng hộ với tôi, các nhà báo đã hết sức tận tụy với công việc quốc tế của “Hội vùng sông Danube”! Tất nhiên, mọi người đồng thanh đáp lại lời của ngài chủ tích. Những chai rượu được dốc cạn vào các cốc, còn những cái cốc thì được lật úp vào những cái cổ họng cũng hết sức nhẹ nhàng như thế, như nước sông vĩ đại và ngọn nguồn của nó tuôn ra biển cả. Có thể chấm dứt được vào chỗ này, nếu như bài diễn văn của ngài chủ tịch đã được kết thúc bằng lời chúc rượu sau cùng. Nhưng những lời chúc rượu khác được tuôn ra có lẽ là rất ư hợp thời. ... Mời các bạn đón đọc Người Hoa Tiêu trên Sông Danube của tác giả Jules Verne.
Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời - Jules Verne
Jules Verne là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Pháp trong thể loại "Tiểu thuyết khoa học viễn tưởng”. Bạn đọc Việt Nam, ai là người chẳng từng đọc qua các tác phẩm tiêu biểu của ông về đề tài này như Vòng quanh thế giới trong 80 ngày, 20. 000 dặm dưới đáy biển, Năm tuần trên khinh khí cầu. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, ngòi bút của ông cũng không kém phần sắc sảo. Bạn đọc nào ưa thích thể loại này hẳn đã phải đọc qua: Những đứa con của thuyền trưởng Grant, Phiêu lưu vào vùng mỏ Aberfoyle của ông, cũng do Nhà Xuất bản Trẻ xuất bản. Lần ấn hành này, chúng tôi cho ra mắt bạn đọc cuốn Ngọn hải đăng nơi cuối trời, một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm của Jules Verne để đóng góp thêm vào tủ sách Văn học dịch của Việt Nam. Chuyện xoay quanh việc chính phủ nước cộng hòa Argentina cho xây dựng trên một hòn đảo mang tên “Đảo các quốc gia" một ngọn hải đăng, nhằm hướng dẫn các tàu bè qua lại eo biển Lemaira, một eo biển hẹp lởm chởm các bãi đá ngầm. Sau khi khánh thành ngọn đèn biển này, toàn bộ công nhân xây dựng, kỹ sư... đã được rút đi chỉ để lại trên đảo một toán bảo vệ gồm ba người là Vasquez, Felipe và Moriz. Tổ bảo vệ này có trách nhiệm vận hành đèn hằng đêm và bảo vệ nó. Họ sẽ ở lại đảo trong một thời gian nhất định, sau đó ở đất liền sẽ có một tổ bảo vệ khác ra thay thế họ để tiếp tục công việc trên. Mọi việc đã diễn ra khá suông sẻ trong thời gian đầu. Cho đến một ngày kia, trong một lần đi săn thú để có thịt tươi cải thiện bữa ăn, toán bảo vệ hạ được một con nai đã bị thương do một viên dạn mà ai đó đã bắn vào nó trước khi bị toán bảo vệ bắt được. Sự việc này đem đến một nỗi lo ngại: trên hoang đảo này đã có người ngoài họ, mà những người này lại có súng. Những người đó là ai, người lương thiện hay kẻ bắt lương? Câu trả lời đến ngay sau đó với cái chết của hai nhân viên bao vệ là Felipe và Moriz. Họ bị hạ sát trong khi đang thi hành nhiệm vụ, bởi một băng cướp có vũ trang; bọn chúng khoảng 12 tên, tên cầm đầu là Kongre, một tên cướp khét tiếng ở vùng biển này. Chỉ còn lại một mình tổ trưởng Vasquez đối mặt với một băng cướp có số lượng đông hơn gấp nhiều lần. Anh sẽ phải hành động ra sao để có thể tự bảo vệ mình, đồng thời vẫn hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ "Ngọn hải đăng nơi cuối trời” nhằm tránh cho các tàu bè qua lại eo biển khỏi gặp hiểm nguy. *** Mặt trời sắp lặn đằng sau những quả đồi phía tây. Thời tiết rất tốt. Về phía trước, mặt biển như hòa vào bầu trời ở phía đông và đông-bắc, những đám mây nhỏ còn phản chiếu những tia nắng cuối cùng, những tia nắng mà chẳng mấy chốc nữa sẽ chìm vào bóng hoàng hôn, một hoàng hôn rất dài ở một nơi có vĩ độ năm mươi lăm độ của nam bán cầu. Đúng vào lúc đĩa mặt trời vừa khuất hẳn dưới đường chân trời thì một phát đại bác vang lên trên tuần dương hạm Santa-Fé, và lá cờ của nước Cộng hòa Argentina được kéo lên đỉnh cột buồm sau, nó phần phật cuộn bay trong gió biển. Cùng lúc đó một chùm tia sáng tỏa lan rực rỡ từ đỉnh ngọn hải đăng được xây cách vịnh Elgor, nơi tuần dương hạm Santa-Fé thả neo, một tầm súng. Hai người gác đèn cùng đám thợ tụ tập trên bãi cát còn thủy thủ đoàn thì tập họp trên boong trước của chiến hạm, tất cả cùng reo vang chào đón chùm tia sáng đầu tiên được thắp lên ở nơi bờ biển xa xôi này. Hai phát đại bác nữa lại vang lên như đáp lại những tiếng reo hò đó, những tiếng nổ đập vào những ngọn núi xung quanh vang dội trở lại nhiều lần. Những lá cờ trên chiến hạm lại được hạ xuống đúng theo nghi thức hải quân; và sự im lặng lại bao trùm lên hòn đảo “đa quốc gia” nằm đúng ở nơi gặp nhau của hai biển lớn Đại Tây dương và Thái Bình dương. Sau đó, đám thợ bước lên boong của chiếc Santa-fé và như vậy trên bờ chỉ còn lại ba người để làm công việc gác đèn. Một người gác đang làm nhiệm vụ trong phòng, hai người kia chưa về nơi nghỉ ngay mà còn dạo bước chuyện trò dọc theo bờ biển. - Anh Vasquez này! - Người trẻ nói - ngày mai chiếc tuần dương hạm mới nhổ neo chứ... - Đúng thế Felipe - Vasquez đáp - và tao hy vọng là chuyến đi về này được suôn sẻ. - Có xa không anh Vasquez?... - Chuyến đi bao xa thì trở về cũng y như thế. - Chưa chắc thế đâu - Felipe vừa cười vừa đáp. - À này - Vasquez tiếp - đôi khi lúc đi, thời gian lâu hơn lúc về trừ trường hợp gió không được ổn định lắm!... Nhưng nói cho cùng một ngàn rưỡi hải lý cũng không phải là xa nếu như con tàu có máy móc ngon lành và chuyến đi thuận buồm xuôi gió. - Và nếu như thuyền trưởng chiếc Lafayate lại rành đường đi nữa thì hẳn là... - Thì tàu cứ việc thẳng đường mà đi, lúc đi đã theo hướng nam, như vậy lúc về ta cứ hướng bắc mà tiến, và nếu gió cứ tiếp tục thổi từ đất liền ra thì ta cứ men theo bờ biển mà đi, cứ như đi trên con sông mà thôi. - Nhưng con sông đó chỉ có một bờ - Felipe tiếp. - Mặc, miễn là có gió, tốt nhất là luôn luôn được gió thổi. - Đúng thế - Felipe nhận xét - nhưng nếu gió cứ luôn đổi chiều thì...   Mời các bạn đón đọc Ngọn Hải Đăng Nơi Cuối Trời của tác giả Jules Verne.
Hòn Đảo Bí Mật - Jules Verne
Jules Verne (1828 - 1905) nhà văn Pháp nổi tiếng được mệnh danh là bậc thầy về viết truyện phiêu lưu và khoa học viễn tưởng. Ông nổi tiếng ngay từ những tiểu thuyết đầu tay của mình, sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài, phát hành rộng rải khắp nơi, được mọi người, nhất là giới trẻ, háo hức đón đọc. Trong những năm 1970, so với các tác giả khác thì số sách của Jules Verne được xuất bản đứng hàng thứ ba trên thế giới. Không phải ngẫu nhiên người ta gọi ông là "người đồng hành bất tử của tuổi trẻ". J. Verne vừa là nhà văn, vừa là nhà khoa học có kiến thức uyên bác, tư tưởng tiến bộ, trí tưởng tượng phong phú. Ông là người khởi xướng loại truyện khoa học viễn tưởng dựa trên sự thật khoa học. Ông còn là nhà văn kiệt xuất viết tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, đồng thời là người cố sức say sưa cho khoa học và tương lai của nó. Đến nay, nhiều dự kiến, ước mơ của ông đã trở thành hiện thực. Bằng lao động nghệ thuật sáng tạo, J. Verne đã góp phần cống hiến to lớn cho nền văn minh và tiến bộ của loài người. Nhiều thế hệ bạn đọc trẻ đã được hiểu biết và giáo dục qua các tiểu thuyết của ông. Nhiều nhà bác học, nhà phát minh, nhà du lịch đã cảm ơn J. Verne mỗi khi nhớ lại rằng, thời niên thiếu, nhờ say mê đọc sách của ông mà họ đã phát triển được năng khiếu, thậm chí đã có những phát minh quan trọng. *** Hòn Đảo Bí Mật có thể được xem là tập thứ 3 trong series sau Hai Vạn Dặm Dưới Đáy Biển và Những Đứa Con Của Thuyền Trưởng Grant. Trong tác phẩm này ta được gặp lại vị thuyền trưởng tài ba Nemo và con tàu huyền thoại Nautilus. Câu chuyện không có nhiều tình tiết ly kỳ, chỉ là một câu chuyện về năm con người trốn khỏi cuộc nội chiến ở Mỹ đã vô tình lạc lên một hòn đảo hoang vu giữa Thái Bình Dương mênh mông! Chỉ với năm con người, năm đôi bàn tay trắng nhưng với kiến thức, với sức lao động miệt mài và lòng đoàn kết họ đã chinh phục được thiên nhiên. Họ đã biến hòn đảo ấy thành một nơi cư ngụ tuyệt vời, có lúa mì, có bông vải, có nhà cửa, có điện, thậm chí có cả một toa xe lửa! Một câu chuyện chỉ với năm người đàn ông: một kỹ sư, một nhà báo, một thuỷ thủ, một nô lệ và một chú bé! 1000 trang sách không hề có bóng dáng người phụ nữ nào, cũng không có bóng dáng tình yêu, chỉ có tràn ngập tình người. Có những trang sách làm ta bất ngờ và khâm phục về khả năng của con người trước những thử thách của thiên nhiên, và có những trang sách làm ta rơi nước mắt... *** Hẳn mọi người còn nhớ cơn bão khủng khiếp xảy ra vào năm 1865. Trận cuồng phong đã hoành hành không ngớt từ ngày 18 đến ngày 26 tháng ba và sức tàn phá thật là ghê gớm: khắp châu Mỹ, châu Âu, châu Á, bao trùm cả một vùng rộng một ngàn tám trăm hải lý, kéo dài từ hướng đông bắc tới tận xích đạo. Hậu quả do bão gây ra thật khủng khiếp. Tàu bè bị sóng đập nát, thành phố bị tàn phá, hàng ngàn người bị những trận lốc xoáy cuốn đi hoặc nhận chìm xuống lòng biển. Khi trên đất liền và trên biển đang chịu đựng trận thiên tai này thì một thảm kịch không kém phần khủng khiếp cũng đã xảy ra trên không do bão tố gây nên. Trong những ngày tháng ba năm 1865, trận cuồng phong đã cuốn phăng một quả khí cầu mà trên đó có năm người khách đang viễn du, nhồi nó lên tận đỉnh cột lốc như một quả bóng, rồi xoáy hút nó theo. Trên giỏ treo của khí cầu có năm người. Ta có thể loáng thoáng nhận ra họ trong làn sương dày đặc quyện lẫn bụi nước đại dương. Lúc này các nhà du hành đang ở trong giỏ treo của khí cầu không thể biết được họ đã vượt một chặng đường bao xa và khí cầu của họ bị cuốn đi đâu, họ không có một cột mốc nào để xác định vị trí cả. Mãi đến khi khí cầu vùn vụt lao xuống họ mới hay mình đang bay trên những lớp sóng biển hung dữ, và hiểu ra mình đang gặp nguy hiểm chết người. Nhưng khi họ vứt hết những vật nặng trong giỏ treo của khí cầu như súng đạn, lương thực thì khí cầu lại vọt lên. Ngày hôm sau, khi bão bắt đầu yên cũng là lúc vỏ khí cầu lại dài ra, co rúm lại và họ xuống liên tục. Rõ ràng là không thể nào giữ cho khí cầu thăng bằng trên cao được nữa, vì nó không còn đủ hơi gas. Thế là cái chết đang sẵn sàng tìm đến họ! Bên dưới không phải là đất liền, mà là biển cả mênh mông, không có cù lao, không đảo nổi, không một dải đất để neo khí cầu. Đến hai giờ chiều ngày 24, khí cầu chỉ còn cách mặt đại dương khoảng bốn năm bộ. Đúng lúc ấy một tiếng nói quả cảm vang lên: - Vứt bỏ hết mọi thứ rồi chứ? - Chưa! Còn lại vàng, mười ngàn đồng Franc cả thảy! – một giọng nói khác kiên quyết nói. Ngay tức khắc, chiếc bao tải nặng đựng tiền rơi vụt xuống đại dương. - Còn vật gì để quẳng đi được không? - Hết rồi! - Mọi người hãy bám lấy lưới. Chúng ta sẽ vứt cái giỏ treo xuống biển. Thật vậy, chỉ còn cách cuối cùng và duy nhất ấy là có khả năng làm cho khí cầu nhẹ bớt mà thôi. Những sợi dây buộc nối vào vành đai lưới đã bị cắt đứt, và đến khi chiếc giỏ tách rời ra, khinh khí cầu bốc lên trên mực nước biển hai ngàn bộ. Năm nhà du hành leo lên vành đai và bây giờ họ trụ trên các mắt lưới, tay bám chặt vào những sợi dây. Phía bên dưới, đại dương đang gầm thét. Đến bốn giờ chiều, khí cầu chỉ còn cách đại dương năm trăm bộ. Bỗng con chó mà các nhà du hành mang theo sủa vang. Nó cũng đang ở bên dưới khí cầu, cạnh viên kỹ sư chủ nhân của nó. - Con Top đã trông thấy cái gì rồi! – một người trong số du khách kêu lên. Và liền ngay đó có tiếng reo vang: - Đất liền! Đất liền! Quả thật, trước mặt các du khách xuất hiện một bờ biển khá cao cách họ khoảng ba mươi hải lý. Muốn đến đó, khí cầu cần bay ít nhất một giờ, với điều kiện là gió không đổi hướng. Nếu hơi gas bị xì hết trước thời hạn đó thì sao? Thật là một câu hỏi khủng khiếp! Các du khách bất hạnh đã cố phân biệt rõ mặt đất phía bên dưới. Họ không biết đó là đảo hay đất liền. Nhưng dù trước mặt họ là một hòn đảo hoang, thì cũng cần phải đến được đó bằng bất cứ giá nào. Nửa giờ trôi qua, họ chỉ còn cách mặt đất không quá một hải lý, nhưng hơi gas trong khí cầu hầu như đã cạn kiệt, chỉ còn chút ít ở phần trên. Các du khách bíu chặt vào lưới và trọng lượng của họ quá tải đối với khí cầu. Vỏ khí cầu bị gấp khúc, gió thổi trôi trên mặt nước như một cái thuyền buồm, chỉ còn cách bờ hai cabeltov nữa thôi. Nhưng bỗng bốn du khách bật lên tiếng kêu, và quả khí cầu bị mất hết sức nâng lại bất ngờ vọt lên cao khoảng một ngàn tám trăm bộ. Đến đây, nó lại sa vào một vùng không khí loãng và bị gió cuốn đi, không phải vào bờ, mà hầu như song song với bờ. Hai phút sau thì gió đổi hướng và quả cầu bị hất lên bờ cát. Các du khách giúp nhau chui ra khỏi lớp lưới bao quanh họ. Quả khí cầu, sau khi thoát khỏi tình trạng quá tải, vụt bay lên khi gặp cơn gió đầu tiên, rồi biến mất trong bầu trời bao la. Trên giỏ treo của khí cầu trước đó có năm nhà du hành và một con chó, nhưng khi xuống mặt đất chỉ còn có bốn người. ... Mời các bạn đón đọc Hòn Đảo Bí Mật của tác giả Jules Verne.
Điệu Slow Trong Thang Máy - Chiu Kon-Loh
Làm sao đây, khi tình cờ bắt gặp trong thang máy, một người đẹp khiến tim mình loạn nhịp? Làm gì đây, khi tình cờ mắc kẹt trong thang máy, với người đẹp ấy trọn một đêm dài? Buồng thang máy chật hẹp, bầu không khí ngất ngây, những hình dung kích thích… Mang theo dư âm kỳ ngộ, chàng trai cố truy tìm tung tích người đẹp mà không ngờ rằng, nàng chính là đồng nghiệp cùng công ty. Chỉ có điều, nàng đã… góa chồng, lại có cô em gái cũng xinh đẹp quyến rũ không kém. Đường đua bắt đầu chật chội khi sếp nữ đa tài đa sắc cũng bày tỏ sự quan tâm “vượt mức” tới anh chàng. Một chàng trai, ba mỹ nữ. Những chân tình liệu có thể đỗ cùng một bến bờ hạnh phúc? Hài hước, cá tính, mà sâu lắng thiết tha, Điệu slow trong thang máy mang lại cho chúng ta những phong vị mới về tình yêu hiện đại. *** Chiu Kon-Loh, một cái tên quê mùa, bỗng chốc lừng danh và được lùng tìm khắp mạng Internet, nhờ một câu chuyện hấp dẫn dị thường. Trong vòng một tháng, Điệu slow trong thang máy nhận được hơn 100 triệu lần nhấp chuột. Mỗi ngày, có hàng vạn người lên mạng chờ đọc truyện của anh. Mỗi ngày, họ đều tìm thấy ở Chiu Kon-Loh những bất ngờ hoan hỉ. *** Chuyện bắt đầu khi tôi vừa tốt nghiệp đại học.   Lúc đó tôi vẫn còn làm ở Phòng Phát triển mới thành lập của công ty.   Nhìn bề ngoài thì phòng này có vẻ ghê gớm lắm, nhưng thực ra công việc toàn là mấy thứ chán ngắt chẳng ai thèm làm. Vì là phòng ban mới thành lập nên những việc lặt vặt nhiều vô kể, ngày nào cũng phải làm thêm giờ. Lại thêm tôi là nhân viên mới, thành thử mỗi lần tăng ca, tôi hầu như luôn là người về muộn nhất.   Quãng thời gian đó vô cùng buồn chánm thậm chí còn mệt mỏi hơn cả hồi thi đại học. Tôi thường không ngăn nổi suy nghĩ: Lẽ nào cả đời mình sẽ thế này, ngày ngày chỉ biết hùng hục làm việc, cứ thế cho đến già rồi chết đi.   Còn nhớ hôm đó là thứ Tư, một ngày quá đỗi bình thường. Tôi vẫn là kẻ yếu thế ra về cuối cùng. Làm xong mọi việc đã hơn mười giờ, bên ngoài trời đã tối om từ lâu. Tôi đi thang máy từ Phòng Phát triển trên tầng 8 xuống sảnh. Thang máy xuống đến tầng 5 thì dừng lại, cửa mở ra, có người bước vào.   Choáng! Hóa ra trong công ty này vẫn còn có người tan làm muộn như tôi, kỳ lạ quá đi mất. Lòng tôi hơi lấy lại được cảm giác cân bằng, nhưng ngay lập tức, cảm giác này biến mất tiêu, thay vào đó là trạng thái kinh ngạc, ngây ngất!   Người vừa bước vào là một phụ nữ, tuổi xấp xỉ 30, không cao không thấp, không béo không gầy, mắt to miệng nhỏ, eo thon chân thẳng, tóc dài vấn cao, trang điểm theo kiểu thiếu phụ.   Vừa vào thang máy, thấy tôi nàng cũng hơi lộ vẻ kinh ngạc.   Chỉ một cái nhìn thôi, mà tôi có cảm giác như mình bị nhìn xuyên thấu! Thực ra ánh mắt nàng khá dịu dàng. Nhưng không hiểu vì sao, ánh mắt dịu dàng đó lại như một lưỡi kiếm sắc ngọt, thoắt cái đâm xuyên trái tim tôi. Tôi vừa có chút vui sướng, lại thấy hơi mơ màng, nhưng nhiều hơn cả vẫn là cảm giác bất lực không thể chống đỡ…   Nàng nhìn tôi một cái rồi chẳng buồn chú ý đến tôi nữa. ... Mời các bạn đón đọc Điệu Slow Trong Thang Máy của tác giả Chiu Kon-Loh.