Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Biến Thân

Keigo một lần nữa khẳng định ông là bậc thầy của dòng tâm lý xã hội qua cuốn tiểu thuyết mới xuất bản. Biến thân là cuốn sách của ông hoàng trinh thám Nhật Bản Keigo Higashino. Tác phẩm mới được NXB Hồng Đức liên kết Công ty IPM phát hành ở Việt Nam qua bản dịch của Cẩm Hương. Biến thân kể về người thanh niên hiền lành tên Junichi (Jun). Jun hiền đến nỗi chẳng mấy khi phản đối lời người khác, thậm chí còn không dám giết một con chuột. Cuộc đấu tranh nội tâm Ngày kia, tai họa đột nhiên giáng xuống, người ta đưa Jun vào bệnh viện, tiến hành một ca phẫu thuật lần đầu tiên trên thế giới. Ra viện, Jun trở về với cuộc sống, với người yêu của mình, nhưng anh đã không còn hiền lành, trung hậu nữa. Jun trở nên hung hãn, bản năng và thú tính. Jun bắt đầu chuỗi ngày dằn vặt, đấu tranh với tính cách mới của bản thân. Cuộc chiến giữa cái thiện - phần bản tính hiền lành của Jun lúc trước và cái ác - phần bản tính mới xuất hiện sau cuộc đại phẫu, diễn ra trong anh. Và trên hành trình đó, anh bắt đầu khám phá ra sự thật, rằng các bác sĩ đã làm gì với bộ não của anh! Nhịp độ của Biến thân có thể khá chậm ở đoạn đầu, nhằm mục đích giới thiệu các nhân vật, giới thiệu cuộc phẫu thuật, hé mở dần những biến đổi trong tâm lý của nhân vật chính. Nhưng càng về sau, mạch truyện càng được đẩy đi nhanh hơn, các tình tiết xảy ra liên tục và cứ thế cuốn người đọc đến với cái kết. Cũng như hầu hết tác phẩm trước đây của Keigo, Biến thân sở hữu cốt truyện khá đặc sắc. Các tình tiết được liên kết với nhau chặt chẽ, mỗi chi tiết đều đóng một vai trò quan trọng trong việc thêu dệt nên bức tranh toàn cảnh. Điểm hay nhất ở cuốn sách này có lẽ đến từ việc lột tả nội tâm của hai tính cách trong cùng một con người. Keigo đã miêu tả một cách hoàn hảo sự dằn vặt nội tâm khủng khiếp của nhân vật chính. Ngay trong thân xác ấy, một cuộc chiến khốc liệt của cái thiện và cái ác, của thiên thần và ác quỷ để giành lấy quyền làm chủ. Bằng cách sử dụng sự đối lập giữa hai tính cách, Keigo đã nêu quan điểm của mình về một vài vấn nạn trong cuộc sống của con người. Trong cả hai nhân cách tồn tại trong con người của nhân vật, đâu là thiện, đâu là ác, ranh giới giữa chúng thật sự rất mong manh. Keigo đã đặt ra câu hỏi khiến độc giả phải suy ngẫm: “Liệu phần tính cách ác của Jun, có thật sự hủy hoại anh ấy? Hay chính phần thiện trước đây, đã ăn mòn bản thân anh bằng sự mờ nhạt, an phận?". Sức mạnh của tình yêu thương Nếu phần thiện trước đây của Jun tượng trưng cho tính cách hiền lành, hòa nhã, thì nó lại đi đôi với nhu nhược, an phận. Phần "ác" lại đi đôi với sự nhanh nhẹn, khao khát khẳng định bản thân, và không dung thứ cho sự giả dối, sai trái. Keigo đã mượn chính phần tính cách "ác" đó, để lột tả một sự thật tồn tại trong cuộc sống chúng ta, những người đang bị rơi vào cái bẫy của sự “ổn định”. Đó là sự trì trệ, sự an phận, trôi từ năm này sang năm khác, như những mẩu lục bình. Đó liệu có phải là sự ổn định mà chúng ta đang cần? Hay chính điều đó đang giết chết chúng ta từng ngày, từng giờ? Sau cùng, tình yêu thương cũng là vũ khí giúp ta chiến thắng tất cả! Bên cạnh việc nói lên những mặt tối của con người và xã hội, trong Biến thân, Keigo vẫn có chỗ để tôn vinh tình yêu thương. Rất nhiều tình yêu đã được nhắc đến, từ tình yêu đôi lứa, đến tình cảm gia đình. Điển hình và dễ thấy nhất, là tình yêu vô bờ bến của Megumi dành cho Junichi. Cô yêu anh vô điều kiện, kể cả anh có trở thành một con người khác, có xua đuổi cô hay thậm chí giết cô, cô vẫn chấp nhận. Bạn đọc có thể sẽ cảm thấy rất thương Megumi, cô phải đối mặt với một Junichi hoàn toàn khác sau cuộc phẫu thuật, đối mặt sự cô đơn trong chính tình yêu của mình. Nhưng cô vẫn không bỏ cuộc. Và mọi thứ đã được đền đáp xứng đáng. Tiếp theo đó, tình yêu điên cuồng và rồ dại như tình yêu của tên sát thủ dành cho người mẹ của mình. Keigo đã có đoạn miêu tả điều này: “Tình yêu với mẹ của anh Shunsuke mãnh liệt tới mức không diễn tả được thành lời, yêu đến kinh người ấy. Sau khi mẹ mất, anh ấy nhốt mình trong phòng, cả ngày khóc rống gào thét, đến mức tôi còn sợ anh ấy quẫn trí mà chết mất”. Nguyên nhân sự hóa điên của nhân vật này cũng xuất phát từ chính cái chết của mẹ anh ta. Điều đó đủ để cảm nhận anh thương mẹ đến nhường nào. Cuối cùng, tình yêu âm thầm nhưng to lớn của Junichi dành cho Megumi. Cũng chính tình yêu đó đã tiếp thêm sức mạnh cho anh chiến thắng được phần ác trong con người, vào thời điểm gần như tâm hồn của anh đã hoàn toàn nhường chỗ cho nó! Suốt thời gian bị cái ác chiếm ngự, Jun đã gần như quên mọi thứ thuộc về con người trước đây. Nhưng có một điều Jun không quên, là “không thể quên rằng đã yêu Megumi”. *** ”Chết – sống không đơn thuần là hít thở hay tim đập, có sóng não, mà là để lại dấu vết trên cõi đời. Phải nhìn thấy dấu chân mình trên con đường đã qua, đồng thời chắc chắn đó chính là dấu chân của mình, mới gọi là sống”_ Junichi là một thanh niên hiền lành, có thể nói có phần nhu nhược và an phận, không thích đua tranh, đang sống một cuộc đời bình lặng bên cạnh cô bạn gái Megumi. Trong một lần đến văn phòng bất động sản, vì cứu một bé gái khỏi phát súng của tên cướp, anh đã bị bắn trúng đầu, và tỉnh dậy tại bệnh viện đại học Towa. Anh dần khám phá ra mình đã trở thành người thử nghiệm cho ca mổ đầu tiên trên thế giới – ca phẫu thuật thay não. Được đưa từ cõi chết trở về, tưởng chừng là hạnh phúc, nhưng dần dần Junichi phát hiện ra nào phải vậy. Bác sĩ Dogen và đồng sự đều đang cố gắng giấu giếm anh điều gì đó. Anh nhận ra bản thân mình đang biến đổi, từ những thói quen nhỏ nhặt nhất, đến cả sở thích hội họa cũng không còn. Tồi tệ hơn, tình cảm thuần khiết của anh đối với Megumi cũng dần dần phai nhạt. Và kinh khủng nhất là khi Junichi cảm thấy phần “con” của mình bắt đầu lớn dần, lấn át cả phần “người”. Anh dễ kích động hơn, cảm thấy khó chịu với những người kém cỏi hay không chịu cố gắng, và trở nên bạo lực, dễ gây hấn, thậm chí còn cảm thấy muốn giết người. Trước khi đánh mất hẳn con người trước đây, Junichi điên cuồng tìm hiểu, rốt cuộc điều gì đã xảy ra với mình trong cuộc phẫu thuật định mệnh ấy? Khách quan mà nói, Biến thân hoàn toàn không phải là một tiểu thuyết trinh thám. Cuộc điều tra của Junichi không phải nội dung chính của tiểu thuyết, và kết quả của nó cũng khá là dễ đoán. Tiểu thuyết này thiên về tâm lý, nó đi sâu vào phân tích nội tâm và những suy nghĩ, giằng xé của Junichi khi nhận ra việc dần đánh mất bản thân mình, và quá trình anh đấu tranh với điều đó. Chính vì thế, tôi sẽ so sánh với một tiểu thuyết thiên về tâm lý khác của Keigo, quyển Bí mật của Naoko. So với Naoko, quyển này hoàn toàn không bằng. Về tình tiết, Naoko hấp dẫn và gay cấn hơn. Về mô tả tâm lý, Naoko làm tôi đồng cảm và xót xa cho cả người chồng lẫn người vợ, còn quyển này không hiểu sao tôi chỉ như một khán giả đứng ngoài nhìn vào trận chiến của Junichi với vẻ lãnh đạm. Về kết thúc, Naoko tạo được một bất ngờ ở cuối truyện, điều mà Biến thân chẳng hề làm được. Đọc đến vài trang cuối cùng rồi, tôi vẫn còn hoang mang, cái “chất” của Keigo ở đâu khi không hề có pha bẻ lái (dù gắt hay không gắt cũng được), mọi diễn biến cứ đi theo con đường của nó, trơn tru đến bất ngờ. Nói tóm lại, tôi đã kỳ vọng ở Keigo nhiều hơn thế này. Nhã Nguyễn *** Review BIẾN THÂN – Keigo Higashino Dịch giả: Cẩm Hương. NXB: IPM và Hồng Đức Điểm: 8,5/10 BIẾN THÂN – Lại là một bi kịch xã hội đến từ Keigo Higashino  Junichi tỉnh dậy, cuộc đời của một người đàn ông hiền lành, ít nói không còn đơn giản như trước. Những tưởng khoảnh khắc anh vì cứu người mà trọng thương đã khiến anh ghé thăm căn nhà của Tử thần. Vậy thì sau khi được cứu sống nhờ sự hiện đại của y học, anh lại lần nữa “lăn xuống con dốc của địa ngục”. Không biết lần này, điều gì sẽ cứu anh khỏi lưỡi hái của Tử thần đây? Cả cuốn sách chủ yếu đi theo góc nhìn của Junichi, cũng chính là nhân vật TÔI. Đan xen giữa đó là các trang nhật ký của các nhân vật khác. Không phải tự dưng mà tác giả thêm vào mạch truyện những dòng nhật ký ấy. Đó chính là minh họa trực quan nhất cho sự BIẾN THÂN của Junichi. Xét về toàn bộ câu chuyện thì BIẾN THÂN ko mạnh về việc đánh lừa người đọc hay cốt truyện bất ngờ, mà BIẾN THÂN xuất sắc ở cách khắc họa tâm lý của nhân vật. Và trong tác phẩm này, Keigo đã phát huy tối đa tài hoa của mình trong việc vẽ nên những dằn vặt trong nội tâm nhân vật. Vậy mình ấn tượng gì ở cuốn sách này? Rõ ràng từ đầu đến cuối, chỉ có một danh xưng TÔI. Nhưng người đọc cảm nhận rõ được cái TÔI kia đang dần thay đổi. Lần theo từng dòng suy nghĩ của nhân vật, cảm nhận được sự đấu tranh giữa 2 Junichi trong từng tế bào thần kinh, người đọc phải tự hỏi rốt cuộc TÔI đã biến mất chưa? Để đến những trang cuối cùng, bạn sẽ nhận ra, người vẫn xưng TÔI đã trở thành một TÔI hoàn toàn khác từ lúc nào không hay. Tôi ở trong mặt kính đang lặng lẽ nhìn tôi… Rõ ràng đây là mắt của Naruse Junichi. Từ đầu đến cuối, luôn là tôi, luôn là Junichi. Nhưng đâu là Junichi, đâu là Junichi đã biến thân? Trên đây là những cảm nhận của mình về BIẾN THÂN, còn bạn thì sao? Lý Hoàng *** Ghi chép của Dogen (1) Thứ Bảy, 10/3. Ca phẫu thuật đã hoàn thành một cách suôn sẻ. Hiện tại chúng tôi chưa phát hiện ra điều gì bất thường, người nhận không có rối loạn tín hiệu hay sóng điện não lạ. Chúng tôi sẽ liên tục phân tích hình dạng sóng não và ghi chép đồ thị từng phút một, không thấy có phản ứng thải ghép, các hoạt động duy trì sự sống đang diễn ra thuận lợi. Tôi đã thông báo lần cuối cho người phát ngôn và gửi lời cảm ơn tới đội ngũ bác sĩ hỗ trợ. Trước buổi họp báo, tôi cũng đã gọi điện báo cáo cho trưởng khoa, ông bảo, “Sau đây thì trông chờ số mệnh thôi, phải không?” Chính xác là như thế. Các tính toán cho thấy tình trạng hôn mê sẽ tiếp tục kéo dài thêm vài tuần. Trong thời gian đó, chúng tôi sẽ quan sát người nhận trong phòng hồi sức tích cực. Khi cậu ấy tỉnh dậy, chúng tôi sẽ ứng phó linh hoạt tùy thuộc vào mức độ nhận thức của cậu ấy. Trợ lý Tachibana là người phụ trách việc này. Thi thể người hiến sau khi khâu lại đã được xử lý theo kế hoạch. Lúc họp báo cũng có vài câu hỏi đặt ra về người này, chúng tôi đều từ chối trả lời, với lý do đã thống nhất tại hội đồng y đức. Bây giờ là 11 giờ 30 phút đêm. Chẳng mấy chốc là ngày 11, một ngày dài và căng thẳng. Các mạch đã nối có hoạt động bình thường không? Tôi không khỏi bồn chồn, nóng lòng chờ người nhận tỉnh dậy.   1 Đầu tiên, tôi cảm thấy mình vẫn đang trôi bồng bềnh trong mơ, nhưng dần dần phần âm u tan đi, chỉ còn lại thứ bóng tối nhờ nhờ. Sau đó âm thanh sống dậy bên tai nghe như tiếng gió thổi xa xa, tiếp đến là tiếng kim loại leng keng. Cơ má tôi đột ngột co giật. “Có phản ứng rồi.” Giọng một thanh niên vang lên, và ngay bên cạnh là ai đó nữa. Tôi tự hỏi tại sao mình lại không nhìn thấy, và chẳng mấy chốc nhận ra mắt mình đang nhắm. Những ngón tay cảm nhận được làn chăn. Hình như tôi đang ngủ. Tôi chầm chậm mở mắt, ánh sáng trắng ập tới chói lòa. Tôi nheo mắt lại, chờ một lúc, khi đã thích nghi với ánh sáng, tôi mở mắt lần nữa. Tôi bắt gặp ba gương mặt, hai nam một nữ. Trông họ căng thẳng như thể đang nhìn thứ gì rất đáng sợ. Tất cả đều mặc blouse trắng. Đây là đâu? “Cậu nhìn thấy chúng tôi chứ?” Người cất tiếng hỏi là một người đàn ông với mái tóc bạc trắng, người lớn tuổi nhất trong bọn. Từ đuôi mắt đến trán chi chít nếp nhăn, mắt đeo cặp kính mạ vàng. Tôi muốn đáp “Tôi nhìn thấy”, nhưng không thể nói cho trôi chảy. Tôi há miệng. Họng và môi cứng chặt cứ như của ai khác. Thế nên tôi dùng nước bọt làm ướt cổ họng, ra sức thử, kết quả âm thanh chẳng ra âm thanh và tôi ho một cách nhọc nhằn. “Không phải cố đâu. Cậu gật hay lắc đầu cũng được.” Người đàn ông tóc bạc trắng nói bằng giọng thân tình. Tôi chớp mắt hai ba lần và gật đầu, ông thở phào nhẹ nhõm. “Bệnh nhân nghe được, hiểu được ngôn ngữ và nhìn được.” Tôi hít vào rồi mở miệng, thận trọng cảm nhận trạng thái cổ họng. “Đây… là… đâu?” Câu hỏi như cổ vũ tinh thần những người này. Mắt sáng lên, họ nhìn nhau. Thanh niên có cái cằm nhọn nói, “Bệnh nhân đã đặt câu hỏi. Chúng ta thành công rồi, thưa giáo sư.” Mặt anh ta đỏ bừng, có phải anh ta đang hào hứng không? Người đàn ông tóc bạc thoáng gật đầu rồi nhìn vào mắt tôi. “Đây là bệnh viện. Chúng ta đang ở Tòa số 2 Bệnh viện Đại học Towa. Cậu hiểu lời tôi nói chứ?” ông hỏi, và tôi khẽ gật đầu. Xác nhận rồi, ông tiếp tục, “Tôi là Dogen, người phụ trách phẫu thuật cho cậu. Hai người có mặt ở đây là trợ lý Wakao và Tachibana.” Thanh niên cằm nhọn và cô gái trẻ lần lượt cúi đầu chào tôi theo lời giới thiệu của người đàn ông. “Tôi… tại sao… ở đây?” “Cậu không nhớ phải không?” Tôi nhắm mắt lại, suy nghĩ về câu hỏi của ông Dogen, cảm giác như mình đã trải qua một giấc mơ dài. Trước giấc mơ đó thì thế nào nhỉ? “Nếu không nhớ nổi thì không phải cố đâu.” Ông Dogen đang nói thì một hình bóng bất ngờ nháng lên trong mắt tôi, một tên đàn ông. Tôi không quen hắn. Hắn đang cầm cái gì đó, chĩa vào tôi và hét lên. Không, kẻ đang hét là tôi chứ! Tay hắn lóe đỏ. “Súng…” Tôi mở mất, “Súng lục.” “Đúng thế, có vẻ cậu đã nhớ ra rồi đấy. Cậu bị bắn, bằng súng lục.” “Bị bắn…” Tôi cố lục lọi tâm trí, nhưng ký ức không rõ rệt, như thể đang phủ bụi. “Không được… tôi không nhớ nổi.” Tôi lắc đầu, khép mắt. Đúng lúc đó, hình như có cái gì kéo ra khỏi phía sau đầu tôi, và khắp người không còn cảm giác gì nữa. Mời các bạn đón đọc Biến Thân của tác giả Higashino Keigo & Cẩm Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tỳ Vết Tâm Linh
Vào khoảng đầu thập niên 70, Nguyễn Nam Anh của tạp chí Văn ở Sài Gòn có hỏi Bình-nguyên Lộc trong một cuộc phỏng vấn về tác phẩm ưng ý nhất của ông, Bình-nguyên Lộc cho biết, trong tất cả những gì đã viết, ông thích nhất ba cuốn : Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình-nguyên Lộc, Cuống rún chưa lìa và Tỳ vết tâm linh. „Tại chủ quan tôi thấy nó hay. Nhưng người khác chưa chắc đã thấy như tôi. Tỳ vết tâm linh là cuốn truyện dày về một thiếu nữ bị bệnh tâm trí. Cùng một chủ đề tâm trí, ông còn nhiều truyện ngắn. Cái cảm tình „chủ quan“ của ông đối với cuốn truyện dày kia có chỗ thương tâm.             Chúng ta chắc chắn là chưa kiểm điểm dược mọi nỗi niềm tâm sự của Bình-nguyên Lộc : đời có ai thấu hết được lòng ai. Tưởng không nên tham lam quá. *** Ra khỏi trại bịnh hơn mười phút đồng hồ rồi mà Lưu còn nghe choáng váng bàng hoàng.  Chàng vừa trải qua những phút chấn động tâm thần mãnh liệt, nó suýt dìm chàng vào cõi bất thức giác y như người em gái của chàng, con bịnh mà chàng vừa thăm.  Ba tháng trước, ngày Bích lên cơn điên, chàng ở trên Đà Lạt. Cha mẹ chàng đã đưa Bích vào nhà thương Chợ Quán rồi đánh điện cho chàng hay tin.  Chàng đã thăm Bích hai lần, khi về Sàigòn, lúc ấy thì Bích đập phá, la hét rầm trời nhưng chàng không hề bối rối hay hoảng sợ chút nào. Chàng đã nghe sách vở và bạn hữu của chàng, những người bạn nghiên cứu chuyên khoa về khoa tâm bịnh, nói rằng những con bịnh làm ồn và phá phách, coi vậy mà rất mau khỏi.  Vả lại, lúc ấy Bích còn tươi tốt hồng hào lắm, hồng hào quá, và rất hung hăng, trông Bích như một con ác thú, như một người say rượu, không gợi tình thương xót bao nhiêu.  Rồi thì Bích được đưa lên đây, lên dưỡng trí viện nầy mà tục thường gọi là nhà thương điên Biên Hòa.  Đường xa, chàng bận học, cha mẹ chàng, nhứt là mẹ chàng, cứ giành đi thăm Bích mãi nên chàng không thấy mặt Bích đã hơn mười tuần lễ rồi.  Cứ theo lời mẹ chàng thì Bích đã đỡ nhiều, không la, không cười vô cớ nữa, cũng không đánh đập, cào cấu cắn xé ai nữa. Nhưng chàng ngờ 1ắm. Người ta đưa Bích lên Biên Hòa, sự kiện ấy chứng tỏ một tình trạng ngược lại mà bà cụ không dè.  Chàng thì chàng biết, cũng cứ qua sách vở và lời của bạn hữu. Nhưng chàng chỉ biết vậy... vậy thôi, cho đến cái giây phút đầu mà chàng thấy mặt đứa em gái thân yêu của chàng ở lần thăm đầu, hôm tuần trước.  Lưu trông Bích không khác ngày thường bao nhiêu. Nàng giống một thiếu nữ vừa qua một cơn ốm nặng, cảm cúm, hay sốt rét rừng gì đó, nước da xanh mét, thân thể tiều tụy. Chỉ có thế thôi. Mà với sinh lực hai mươi, sự suy đồi của cơ thể của Bích không đáng ngại, hễ ăn ngon ngủ kỹ vài hôm, hoặc tiêm độ năm bảy mũi thuốc nước cốt gan là lại sức ngay. Nhưng mà …  Bích chỉ còn là một con hình nộm không hồn mà thôi. Đôi mắt lờ đờ, mất thần của nàng trước người anh ruột của nàng, nhìn chàng trân trân mà không thấy, đôi môi cứ mấp máy, lẩm bẩm những gì không nghe được, bốn ngón tay cứ xe mãi một sợi chỉ vô hình rất dài, tất cả những thứ ấy làm cho chàng thấy em gái của chàng xa chàng vạn dặm.  Chàng đã mất Bích rồi, mất hẳn, không sao tìm lại được, vì chàng lo rằng Bích đã bước qua cái giai đoạn khó khăn nhứt trong các chứng bịnh tâm trí, giai đoạn mà bản ngã của con người co rút lại để không bao giờ mở ra được nữa cả.  Lưu đã khóc, đó là những giọt lệ đầu tiên của người con trai nầy, kể từ khi hắn rời bỏ tuổi thơ ấu.  Thật ra thì chàng đã khóc ngày chàng vừa được điện tín của cha mẹ chàng đánh lên Đà Lạt. Chàng biết em chàng đau khổ từ ngày vị hôn phu của nó bỏ rơi nó để cưới con gái một triệu phú.  Cái anh vị hôn phu ấy là bạn của chàng, hắn tới lui nhà chàng thường lắm nên hai đứa nó yêu nhau, và Bích mới yêu vỡ lòng nên yêu nhiều lắm.  Chàng đã khóc hôm ấy, nhưng rồi chàng buồn cười cho chàng lắm, bật cười ra và hết buồn ngay. Chàng cứ ngỡ Bích nó trẻ con nên đau tương tư bậy bạ vậy thôi rồi vài ngày nó sẽ nguôi.  Lần thăm trước thì chàng khóc nghẹn ngào. Và lần nầy nữa, vì đây là lần thứ nhì mà chàng đi thăm Bích. Không dám đứng lâu nơi cửa phòng bịnh để nhìn mãi cái cảnh đau lòng mà chàng hoàn toàn bất lực cứu vãn, Lưu bước ra ngoài, đi thơ thẩn trên con đường viền cỏ vú sữa, bần thần như là chính mình đang đau ốm.  Khi chàng lần bước ra tới ngã ba mà con đường nhỏ nầy gặp con đường lớn, con đường chánh của nhà thương, thì chàng thoáng thấy hai người đi thăm bịnh cũng vừa bước tới đó.  Hôm nay là một ngày thường, tức ngày làm việc, nên người thăm bịnh thưa thớt lắm.    Mời các bạn đón đọc Tỳ Vết Tâm Linh của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Nửa Đêm Trảng Sụp
Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1914 (giấy tờ ghi  1915) tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai); mất ngày 7/3/1987 tại Rancho Cordova, Sacramento, California, Hoa Kỳ. Các bút hiệu khác: Phong Ngạn, Hồ Văn Huấn. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu, mười đời ở đất Tân Uyên, cha là Tô Phương Sâm làm nghề buôn gỗ, mẹ là Dương Thị Mão. Thuở nhỏ học chữ nho với thầy đồ, tiểu học ở trường làng; trung học (1928-1934) Pétrus Ký, Sài Gòn. Rời trường không bằng cấp. 1934, kết hôn với cô Dương Thị Thiệt, 1935, vào làm công chức ở kho bạc Thủ Dầu Một. 1936, đổi về Sài Gòn làm kế toán viên ở Tổng Nha Ngân Khố. Tháng tám 1945, bỏ việc, tham gia kháng chiến. 1946, hồi cư về Lái Thiêu và 1949 rời Lái Thiêu về hẳn Sài Gòn viết văn làm báo. Bình Nguyên Lộc bắt đầu viết từ 1942, cộng tác với tạp chí Thanh Niên của Huỳnh Tấn Phát, nhưng đến 1946, mới thực sự bước vào nghề văn, nghề báo. 1950, in tập truyện ngắn Nhốt gió. 1958, chủ trương tuần báo Vui Sống và nhà xuất bản Bến Nghé. 1985, di cư sang Hoa Kỳ, hai năm sau ông mất. Bình Nguyên Lộc đã viết hàng trăm tác phẩm, nhưng bản thảo bị thất lạc cũng nhiều, phần in trên các báo, chưa xuất bản thành sách cũng lớn. *** Làm xong bài toán hình học không gian, Nhan ngáp dài. Nàng xem lại đồng hồ tay thì thấy đã mười giờ bốn mươi rồi. Cô nữ sinh đệ tứ ấy xếp giấy má sách vở lại, đứng lên toan tắt ngọn đèn tọa đăng rồi đi ngủ, nhưng còn chần chờ đứng lại trước bàn để lắng nghe tiếng mưa đêm xào xạc ngoài vườn, và tiếng gió hú đằng xa, nơi cánh đồng vắng sau nhà. Sanh hứng, cô ngâm lên bài ca dao hay bài thơ của ai, cô không còn nhớ nữa:  Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu  Con trời lấy chú chăn trâu cũng kỳ  Một là duyên,  Hai là nợ …  Bỗng tiếng mở cửa buồng bên trái làm Nhan giựt mình. Nàng day lại thì thấy ông Tám Huỳnh, cha của nàng, hiện ra nơi khung cửa buồng ấy, trong ánh mờ của cây đèn dầu bàn học của nàng.  Tám Huỳnh mặc áo mưa, đi giày ống bằng cao su và tay cầm một chiếc nón lá cũ.  Hai cha con lặng lẽ nhìn nhau rồi Tám Huỳnh như sợ con, trốn mắt nó và ngó xuống gạch.  - Ba ! Trời mưa mà ba đi đâu vậy ba ?  Tám Huỳnh ú ớ không nói được, lâu lắm ông mới thốt ra vài tiếng, nhẹ như hơi gió thoảng, Nhan cố lắng tai mới nghe:  - Ba đi, con ở nhà vài bữa với bà Tư.  Nhan châu mày rồi hỏi:  - Có phải ba đi việc đó không ba ?  Tám Huỳnh đưa ngón tay trỏ lên trước miệng ra hiệu bảo con chớ có to tiếng rồi đáp:  - Ừ …  - Con sợ quá ba à ! Nhan nói mà giọng nàng run run.  - Không sao, con cứ an lòng.  - Con không muốn ba đi nữa …  - Ba đã hứa nghe lời khuyên can của con, nhưng còn phải chờ dịp như ba đã cắt nghĩa, mà dịp ấy chưa đến.  Nhan nghẹn ngào, cố nuốt nước mắt, nàng cắn môi dưới lại để khỏi khóc ra tiếng. Ông Tám Huỳnh bước tới và đứng gần con. Ông xẳng giọng, nghiêm mặt lại mà rằng:  - Con biết tánh ba hay tin dị đoan. Người trong nghề, ai cũng thế. Con đừng làm cho ba sợ, con nghe chưa ?  Nhan sợ hãi, lấm lét, liếc lên nhìn trộm cha. Ông Tám Huỳnh ngày thường trông cũng hiền từ, nhưng hễ ông nổi giận thì gương mặt ông hung tợn lạ kỳ, khiến cho người con gái độc nhứt và được thương mến hết sức của ông cũng phải kinh hoảng, không dám hó hé.  Thương con quá, ông Tám dịu mặt và dịu gọng lại rồi nhỏ nhẹ nói:  - Con ở nhà đừng thức khuya, hôm nào mưa thì đừng đi học, kẻo mắc mưa sanh bịnh. Đây, ba cho con tiền chợ và tiền bánh hàng.  Ông Tám vừa nói vừa móc trong túi ra một ghim giấy bạc một trăm, đặt lên bàn học của con và dặn thêm:  - Ai có hỏi, nói ba đi Sài Gòn uống thuốc.  Nhan nhìn xấp giấy bạc rồi nức nở thêm:  - Nín, kẻo bà Tư hay ! Ông Tám lại xẳng giọng.  Nhưng Nhan không còn sợ nữa, nàng nói:  - Con... thương …ba !  - Cố nhiên, ba lại không biết hay sao. Nhưng chính vì ba cũng thương con nên...  - Con đi buôn gánh bán bưng nuôi ba được.  - Đã lỡ rồi con à, đặt lại vấn đề làm gì. Ba có muốn theo nghề nầy đâu, nhưng hoàn cảnh đã đưa đẩy ba tới đó, rồi ba không thoát được nữa. Nhưng ba sẽ cố gắng làm vừa lòng con. Con nên nén lòng đợi một thời gian. Thôi, ba đi con nhé ! Nhớ đóng cửa cẩn thận.  Tám Huỳnh lặng lẽ bước tới mở hé cửa rồi lách mình ra ngoài. Nhan cũng vội bước theo cha, rồi nhìn vào bóng tối. Chớp nhoáng lên và nàng trông thấy bóng dáng dình dàng của cha nàng dưới chiếc nón lá và chiếc áo tơi, bước mau trong mưa gió: ông Tám quẹo ra sau nhà để tiến vào rừng sâu.  Bóng đêm lại tràn ngập không gian, khiến Nhan kinh sợ, vội đóng cửa lại và cài then cẩn thận. Đoạn nàng tắt đèn và đánh diêm lên soi đường để đi vào buồng nàng ở phía hữu.  Ông Tám Huỳnh góa vợ từ lâu, nhưng ông ở vậy để nuôi con. Nhà chỉ có ba người: ông Nhan và bà Tư, một người dì họ của ông. Bà nầy ngủ ớ nhà sau, vì thế mà ông ra đi bằng cửa trước cho khỏi bị một người như bà bắt chợt bí mật của ông.  Bí mật ấy, cách đây một tháng, do một sự tình cờ; Nhan đã khám phá được, sau nhiều năm nghi hoặc. Nàng đã khóc thầm nhiều ngày, rồi rốt cuộc quyết định cật vấn cha.  Thấy không thể chối cãi được, ông Tám đành thú nhận với con rằng ông buôn lậu, hơn thế ông chỉ huy một toán tải hàng lậu từ biên giới Việt-Miên đến một khu rừng gần chợ Trà Võ để giao lại cho đoàn khác đưa về Sài Gòn bằng xe hơi.  Nhan đã khuyên dứt cha, nhưng ông Tám bảo không khá lắm, phải đợi tìm dịp để xoay nghề mới, mới buông nghề cũ được, và nhứt là phải tìm chỗ ở mới cho thật xa, vì hễ cải tà qui chánh thì phải trốn bọn đồng đảng cũ, chúng sợ bị tố cáo, dám thủ tiêu ông lắm.  Chỉ có một đứa con, mà là con mất mẹ, ông Tám cưng Nhan vô cùng, vì thế nên nàng tríu mến cha y như là tríu mến mẹ. Nên chi nàng đã âm thầm đau khổ nhiều sau cuộc khám phá đó, phần lo sợ cho an ninh của cha, phần ngại cho danh dự của gia đình vì ông Tám Huỳnh đă được thiên hạ kính nể bởi nếp sống ra mặt của ông, không có vết nhơ và không ai biết đời sống thứ nhì bí ẩn của ông hết.  Nhan đi nằm nhưng trằn trọc mãi không sao nhắm mắt được. Nàng lắng tai nghe mưa gió và hình dung ra người cha già đang lướt đi dưới phong vũ, trong bóng đêm, có thể lâm nguy bất cứ vào lúc nào.  Nàng xấu hổ mà nghĩ rằng tiền nàng ăn xài từ thuở giờ do một nguồn lợi bất chính mà ra, và thầm trách cha đã làm xằng. Tuy nhiên đêm nay, như bao đêm rồi, rốt cuộc Nhan vẫn tha thứ cho cha vì có bằng cớ hiển nhiên là ông Tám đã không muốn thế và chỉ bị hoàn cảnh đẩy đưa vào đó thôi. Mời các bạn đón đọc Nửa Đêm Trảng Sụp của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Lữ Đoàn Mông Đen
Mông là bộ phận cao quý trên con người ta. Vội quá không gọi điện được cho bác Nguyễn Việt Hà xin cái định nghĩa về mông trong từ điển tiếng Việt và 103 câu trích dẫn có liên quan đến mông, phí quá :d Đây rồi, cũng tìm được hầu các bác một bộ mông tuyệt vời, không những thế lại là mông đen nữa, quá oách, mà lại được viết ra từ ngòi bút một trong hai nhà văn được coi là miền Nam nhất của miền Nam từ sau 1945: Bình Nguyên Lộc (người kia là Sơn Nam, dĩ nhiên), tức tác giả cuốn truyện lừng danh Đò dọc tới gần đây vẫn tái bản nhiều lần, Lột trần Việt ngữ và vô số tác phẩm văn xuôi. Lữ đoàn mông đen Bình Nguyên Lộc viết đăng phơi-ơ-tông từ 1966 trên Tin Sớm, bản sách này là bản 1972 của Mây hồng, đề rõ "tiểu thuyết tình cảm xã hội". Chị So trí nhớ tốt nhắc hộ em các vụ việc liên quan đến mông từng bùng nổ trên blog của em cái, giờ em chỉ nhớ được mỗi vụ cái gì mà "Ngoài phố mùa đông đôi m. em là đốm lửa hồng" :d Khinh rẻ các bộ phận trên cơ thể là một trọng tội về luân lý hahaha. "Lữ đoàn mông đen" là phiên từ "Brigade mondaine", các bác tự tìm hiểu nhé, trong truyện có pha tán tỉnh hơi bị mỹ mãn, hay hơn phim Hollywood nhiều. Còn quyền Ý thức bùng vỡ là quà chờ sẵn dành để tặng em Z. Em có thích hông? Lười chụp ảnh nên cóp tạm trên Internet, nhưng em yên tâm là quyển em sẽ có còn đẹp hơn quyển này :) Trong thế giới sách cũ Việt Nam Ý thức bùng vỡ được xếp vào loại kịch độc, như người ta nói là dùng để giết chuột được khỏi phải đi thăm anh Hoàng Tiến. *** Bình Nguyên Lộc sinh tại làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương). Ông xuất thân trong một gia đình trung lưu đã có mười đời sống tại Tân Uyên.[2] Cha là ông Tô Phương Sâm (1878-1971) làm nghề buôn gỗ. Mẹ là bà Dương Thị Mão (hay Mẹo) (1876-1972). Theo giấy khai sinh, Bình Nguyên Lộc tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7 tháng 3 năm 1915. Tuy nhiên, trên thực tế có thể ông sinh ít nhất một năm trước ngày ghi trong giấy khai sinh, nghĩa là năm 1914, nhưng không rõ có đúng là ngày 7 tháng 3 hay không. Nhà ông chỉ cách bờ sông Đồng Nai hơn một trăm mét và con sông in đậm dấu ấn trong một số tác phẩm của ông sau này như truyện ngắn Đồng đội (trong Ký thác), hồi ký Sông vẫn đợi chờ (viết và đăng báo ở California, Mỹ)...[3] Từ năm 1919 đến 1920, ông theo học chữ nho với một ông đồ trong làng. Sau đó Bình Nguyên Lộc học trường tiểu học ở Tân Uyên vào những năm 1921-1927. Năm 1928 ông ở nhà luyện tiếng Pháp để thi vào trung học Pétrus Ký ở Sài Gòn. Từ 1929 đến 1933, ông học trung học ở trường Pétrus Ký và lấy bằng Thành chung (Diplôme d´Études Primaires Supérieures, tú tài phần thứ nhất) năm 1933[3]. Tuy nhiên, có tài liệu nói ông đậu bằng Thành chung trong niên khóa 1933-1934 và thôi học do kinh tế khủng hoảng. Cũng có tài liệu nói ông không học xong trung học và nghỉ học năm 1935.[2] Năm 1934, Bình Nguyên Lộc về quê lập gia đình với cô Dương Thị Thiệt. Sau đó ông thi vào ngạch thư ký hành chính nhưng vì kinh tế khủng hoảng, hơn một năm sau ông mới được tuyển dụng. Ban đầu, ông làm công chức tại kho bạc tỉnh Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương). Năm 1936, ông đổi về làm nhân viên kế toán ở kho bạc Sài Gòn (sau đổi tên thành Tổng nha ngân khố Sài Gòn). Ông bắt đầu viết văn trong thời gian này. Truyện ngắn đầu tay của ông có tên Phù sa, viết về công cuộc Nam tiến của người Việt vào miền đất mới Nam Kì, đăng trên tạp chí Thanh niên của kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Ông kết bạn với những tác giả khác viết cho báo Thanh niên như Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Hoàng Tư, Lâm Thao Huỳnh Văn Phương, Dương Tử Giang,.. Vào khoảng năm 1943, ông hoàn tất tác phẩm Hương gió Đồng Nai (khởi thảo từ năm 1935), tập truyện ngắn và tùy bút về hương đồng cỏ nội đất Đồng Nai. Tác phẩm được Xuân Diệu, Huy Cận và vài nhà văn khác tán thưởng, nhưng sau đó bị thất lạc trong chiến tranh. Năm 1944, Bình Nguyên Lộc bị bệnh thần kinh nên xin nghỉ dài hạn không lương, và từ đó về sau không trở lại với nghề công chức nữa. Năm 1945, ông tản cư về quê, nhưng cuối năm 1946 ông hồi cư trở lại quận Lái Thiêu, tỉnh Thủ Dầu Một. Trong thời gian này, Bình Nguyên Lộc có tham gia công tác kháng chiến tại miền Đông Nam Bộ và là thành viên của Hội Văn hoá cứu quốc tỉnh Biên Hòa. Vào những năm 1944-1947, do bệnh cũ tái phát gây khủng hoảng tinh thần nên Bình Nguyên Lộc không viết tác phẩm nào. *** Định không biết nhảy, nhưng cứ vào những nơi nầy mỗi đêm, sợ người ta sinh nghi, nên chàng cố bươi trí để làm cho sự có mặt của chàng được ổn. 1  Dân chơi thì họ bất kể chàng, chàng chỉ lo bị nhơn viên của các hộp đêm nầy ngạc nhiên, tìm biết rồi có thể sẽ biết. Các em ca-ve, người tài-pán, các bồi bàn, toàn là những kẻ điểm mặt từng khách một để ghi họ vào sổ hồng, nếu họ sộp, vào sổ đen, nếu họ keo kiệt.  Mà không phải chỉ điểm mặt mà thôi đấy nhé. Họ sẽ truy tầm căn cước, nghề nghiệp chàng, thì nguy to.  Nguy to là vì cái nghề tạm bợ mà chàng quơ đại để ăn cơm, cái nghề ấy, họ mà biết thì chàng không còn làm được nữa, tức là bể chén cơm, chớ không phải sợ ai ám sát đâu.  Chẳng là chàng đang thất nghiệp, tới xin tiền một thằng bạn, ngỡ sẽ bị nó hất hủi chàng, không dè nó lại mừng rỡ reo to lên:  - Cứu tinh đã đến !  Rồi nó lại hỏi thêm:  - Mầy có cần tiền không ?  Có mỉa mai chưa ? Chàng tưởng nó giễu chàng, nên chàng nín lặng hồi lâu vì căm tức rồi mới nhẫn nại đáp:  - Ơ... hơ... cũng hơi cần.  - Mầy có thích chỗ làm lương cao chăng ?  - Tao chỉ mong có bấy nhiêu đó thôi.  - Vậy mai đi làm, nói đúng ra là tối mai. Tối nay, tao sẽ tiến dẫn mầy với "ổng" là xong.  - Nhưng làm cái quái gì mới được chớ ?  Câu chuyện nầy xảy ra lúc ông Diệm đang cầm quyền.  - Nè, thằng ấy nói, phải giữ mồm giữ miệng đa nhé. Hiện ông Mật vụ trưởng vừa lập một cơ sở lấy tên là "Lữ đoàn mông đen" và cần vài nhơn viên lỗi lạc cho Lữ đoàn, mỗi nhơn viên được xem như là ông xếp của một khu riêng biệt.  Mầy có vó sang trọng, tức là mầy khá mông đen, thì mầy được lắm. Ổng nhờ tao tìm người đáng tin cậy, có khả năng, tao cũng chẳng biết ai, nên đang bể óc đây thì mầy tới, may quá !  - Nhưng Lữ đoàn ấy sẽ đánh giặc với ai ? - Định hỏi.  - Không có đánh giặc, đánh giả gì hết ráo. Đó là dịch ở danh từ "Brigade mondaine" ra. Lữ đoàn mông đen chỉ cần len lỏi vào các giới ăn chơi để theo dõi những công chức, những nhơn vật tăm tiếng mà ăn chơi quá khả năng tài chánh của họ để mà báo cáo lên thượng cấp, rồi thượng cấp làm gì họ, mình cũng chẳng cần biết. Dễ ăn lắm mà.  Mới nghe qua thì quá dễ ăn thật đó, nên chi Định nhận lời lập tức, lòng phấn khởi vô cùng.  Nhưng đêm nay, đêm đầu làm việc, vào vũ trường Eldorado, chàng mới thấy là khó ăn.  Chàng có vó sang trọng thật đó, nhưng lại không sang trọng tí nào, vì chàng là học trò mới ra trường vừa tìm được một chỗ làm thì vài tháng sau đã bị đuổi, vì cự với ông chủ hãng, thế thì lấy tiền đâu mà chàng ăn chơi để sang trọng ? Như vậy, mặt mũi của những ông bự mà chàng có phận sự theo dõi, chàng không biết ra sao cả, chàng như thằng mù thì còn làm ăn gì được.    Mời các bạn đón đọc Lữ Đoàn Mông Đen của tác giả Bình Nguyên Lộc.
Đò Dọc
Chuyện kể, sau chiến tranh với người Pháp, một gia đình có bốn cô con gái chưa chồng lại dắt dìu nhau từ Sài Gòn về Thủ Đức dựng nhà. Khi ấy, nơi này chưa hề có phố xá. Hương vị thành phố thoang thoảng trong thí nhớ các cô gái và ánh đèn từ thị xã Biên Hoà hắt lên. Làm sao “hội nhập” với người dân quê? Có lẽ, Bình Nguyên Lộc tìm cách cắt nghĩa điều đó với bao người. Tuy nhiên, một vấn đề mới lại nảy sinh, thật nan giải: các cô gái xinh đẹp kia đang ở độ tuổi lấy chồng, đợi vài năm nữa sẽ quá thì, còn hiện tại…. thật là phiền toái! Cuối cùng, các cô cũng đã có được tấm chồng xứng đôi vừa lứa, là người thành phố. Nhưng làng quê, với họ, lúc ấy không phải là nơi ao tù nước đọng, quá đỗi xa lạ. Người nhà quê vào thành phố, nhiều người đã viết, ngơ ngác và tội nghiệp lắm! *** Câu chuyện Ðò dọc xoay quanh một gia đình có bốn cô con gái, sống trong buổi giao thời của những năm 1950. Cuộc chiến đang diễn ra ác liệt, gia đình ông giáo Hải với các con gái là Hương, Hồng, Hoa, Quá phải rời khu về sống ở xóm me Tây gần thành Ô Ma - Sài Gòn. Ðến ngày Pháp chính thức rút khỏi Việt Nam, bốn cô con gái đã học được một ít chữ nghĩa thì cả nhà lại chuyển về một xóm quê khô cằn ở miền Ðông Nam bộ. Cuộc sống đơn điệu với "từng ấy gương mặt" có nguy cơ biến các cô tiểu thư xinh đẹp thành các cô gái già héo úa. Mỗi cô có một tâm tình riêng, người cha và người mẹ không dễ thấu hiểu và chia sẻ với họ. Ðò dọc tôn vinh giá trị gia đình như một nền tảng để con người có thể tựa vào trước bao biến thiên của xã hội hậu chiến *** Long về Sài Gòn chỉ ngắm đàn bà là đàn bà. Khi trước chàng ngắm họ để nghiên cứu cho khoa hội họa, ngắm để thỏa mãn sở thích ngắm vẽ đẹp bên nữ giới của một người con trai. Nhưng bây giờ chàng ngắm để so sánh. Có ai biết rằng Long khổ hay không? Chàng vẫn yêu Hồng như trước. Ý nghĩ không cưới Hồng sẽ làm cho chàng đau đớn mênh mông, ý nghĩ ấy vày vò Long mãi không thôi. Cưới Hồng là khỏi ân hận gì cả về vụ đó. Nhưng lại sẽ phải ân hận về vụ khác. Ân hận? Ừ, Long định viết bức thơ nữa, càng ngày càng lạt, càng thưa, rồi trốn luôn. Nhưng trốn người chớ nào có trốn được cái đau của người, nó sẽ đeo đuổi theo chàng, vày vò lương tâm chàng đến bạc đầu. Còn anh chàng Bằng nữa? Ăn làm sao nói làm sao với anh ta đây? Lụi đụi đã đến ngày cưới của Hoa và Quá. Ông bà Nam Thành thương lượng cho hai ngày cưới ấy cách xa nhau có năm hôm thôi. Mọi sắp đặt cho đám cưới trước sẽ dùng được cho đám cưới sau, đỡ tốn kém lại đỡ thì giờ. Long và mẹ đều có tiếp được hồng thiệp. Bức thơ riêng kèm theo đó nói rõ là chàng sẽ ngồi họ ở bàn đờn ông, còn bà Phủ thì được yêu cầu tăng danh dự cho lễ cưới bằng cách ngồi họ bên đàn bà. Hôm về Sài Gòn, họa sĩ cằn nhằn mẹ: - Sao má lên trên ấy mấy lần mà không cho con hay? - Mày hỏi lạ, tao là mẹ của mày mà đi phải xin phép mày nữa sao? - Không phải xin phép. Nhưng việc má đi có dính líu đến việc của con, con cần thảo luận trước với má. - Còn thảo luận, thảo liếc gì nữa, chừng nào con quyết định thì má cậy mai. Nhưng phải giữ liên lạc thân mật luôn từ giờ đến đó. - Rủi con không bao giờ nhất định cả thì có phải là hại hay không? - Hại chỗ nào? - Má lên làm thân, báo người ta hy vọng. Nếu về sau, việc không thành, họ sẽ thất vọng biết bao nhiêu. - Sao lại không thành được? - Được lắm, vì con chưa thích cưới vợ. - Mày nói giỡn sao chớ. Họ hy vọng không phải vì tao làm thân đâu, mà vì mày đã có tơ tình với con của người ta, như mày đã thú nhận. Bây giờ mày lại muốn thối thác thì người ta còn coi mình ra gì nữa. Long đuối lý, nín luôn mãi đến hôm nhận được thiệp mời mới nói với bà phủ: - Má đi, còn con xin kiếu. Con gởi quà cho má trao lại giùm hai cô ấy. Bà Phủ điếng người đi. Thì ra Long nó nói thật. Ngày vui của gia đình người ta, mà nó không buồn dự vào là nó đã quyết tâm không nghĩ đến hôn nhân rồi. Giây lâu bà hỏi con: - Nó có lỗi gì không? - Thưa không? - Nó không vừa mắt con à? Long làm thinh, bà phủ đoán hiểu phần nào, nên nổi tam bành lên: - Mày có phải là con trai mười chín đâu mà đi coi mắt vợ sơ hở được. Mày đã hối thúc tao lên để xem có đồng ý với mày hay không, thế nghĩa là mày đã thích nó rồi, sao lại còn tráo trở gì nữa? Lần thứ nhì Long lại đuối lý. Chàng rầu chín cả ruột gan vì nỗi lòng của chàng, càng bàn cãi, càng xét kỹ, càng rõ rệt ra. Nhưng ích kỷ ngăn cấm chàng chuộc lỗi bằng cách cưới Hồng. Cưới Hồng, chàng sẽ ân hận suốt đời. Vì vậy chàng cố lì làm thinh luôn. Bà phủ thở dài lo mua sắm tặng phẩm lễ vật để đi một mình. Mời các bạn đón đọc Đò Dọc của tác giả Bình Nguyên Lộc.