Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Em Sinh Đôi

Có anh em trai thật lắm chuyện! Tôi không hiểu tại sao các em bé tí xíu thật dễ thương lại lớn lên làm con trai làm gì. À! Mà giá có làm con trai thì cùng không đến nỗi tệ hại lắm, nhưng có nhiều lúc tôi cứ không hiểu tại sao những trẻ nít dễ thương lại thành các anh em trai nhiều chuyện. Nói thật với các bạn chứ tôi lại cảm thấy vui thích vì trên đời này có mặt con trai, nhất là loại con trai như Trần Quốc Danh. Anh ấy thật là thiệt hay, dễ thương vô cùng. Tiếc thay Tuấn, em của tôi thì không được như vậy, nó không như anh Trần Quốc Danh chút nào. Tuy vậy, cô bạn của tôi là Trần Mộng Thu lại cho rằng thằng Tuấn thật dễ thương, nhưng dĩ nhiên tôi nghĩ khác. Có lẽ thằng Tuấn hay kiếm chuyện làm tôi bực mình. Cũng có thể vì tôi chưa hết lòng quí trọng đứa em sinh đôi của tôi. Nhưng thật ra Tuấn khôi hài lắm. Không phải lối khôi hài làm mình cười được đâu, nó có kiểu khôi hài khác kỳ cục lắm kìa. Có lúc nó cười cợt vẻ chế nhạo bất cứ việc gì tôi làm, rồi sau đó nó lại nhờ tôi giữ bí mật dùm một chuyện gì cho nó. Sáng Chủ nhật tuần trước, nó đã có một dịp cười nhạo tôi nữa. Lần đó, sao mà nó cười thỏa thích thế, còn tôi tức muốn phát khóc lên được. Chuyện xảy ra bắt đầu từ hôm thứ bảy cơ. Số là các bạn gái trong lớp học của tôi đã bắt chước nhau cái mốt đi giày cao gót và quần dài phét đất, vì thế tôi mới xin Bố Mẹ sắm cho tôi một đôi giày cao gót. Lúc tôi nêu vấn đề này ra, Bố Mẹ đã trả lời bằng một mẫu câu như thường lệ: "Để Bố Mẹ nghĩ xem đã". Nghe câu trả lời, tôi biết ngay là còn lâu tôi mới có giày cao gót mà đi. Tôi đã từng kinh nghiệm rằng, mỗi khi Bố Mẹ trả lời như vậy: "Để Bố Mẹ nghĩ xem đã", thì thật sự Bố Mẹ muốn nói rằng: "Cứ để từ từ, không có gì phải vội vã". Ít ra, tôi cũng đoán được ý nghĩa câu nói của Bố Mẹ là như vậy. Nhưng cuối cùng, đến ngày thứ Bảy tuần rồi, là ngày tôi được dẫn đi mua đôi giày cao gót. Tôi không biết rõ chuyện, nhưng có lẽ Bố Mẹ thấy tôi đã đề cập đến vấn đề này từ lâu, nên Bố Mẹ không muốn để từ từ nữa. Vì vậy, hôm đó Bố đã dẫn tôi đi ra phố. Khi đến tiệm giầy, tôi nhìn chăm chăm vào tủ kính rồi chỉ cho Bố thấy đôi giày mà tôi rất thích. - Ủa, con thích đôi giày này thật à? - Bố nói với một giọng đầy ngạc nhiên - Gót giày cao quá mà. Tôi mở tròn to đôi mắt và cười thật tươi, rồi uốn giọng: - Thưa Bố, vâng ạ. Bố hơi cau mày làm như bố sợ bị lãng trí hay sao ấy. Bằng một giọng nghiêm nghị, bố nói: - Không hiểu làm sao có người đi được loại giày cao như đi cà kheo vậy. Chắc phải khó chịu lắm. Ồ, có thể Bố không hiểu tại sao người ta mang loại giày đó làm gì, nhưng riêng tôi, cứ muốn có một đôi như vậy để đi. Tôi hình dung ra những đôi mắt chứa đựng ghen tuông của mấy cô bạn trong lớp học với tôi. Cứ nghĩ đến lúc tôi có được đôi giày cao nhất, hơn hẳn những đôi giày của họ. Thích biết bao! Lúc Bố dắt tôi vào trong tiệm, người bán hàng đưa chúng tôi lại ghế ngồi. Rồi ông bán hàng hỏi tôi muối loại giày như thế nào. - Loại giày để đi phố, mang với áo dài. Tôi trả lời ông ấy minh bạch như vậy, làm ra vẻ như mình đã từng quen thuộc với việc đã mua giày lắm rồi. Nhưng khi người bán hàng đem một lô giày ra, thì Bố tôi chỉ lo chọn những đôi giày kiểu cổ lổ sĩ, gót thấp lè tè. Tôi thầm nghĩ có lẽ mình nói chưa rõ nên ông bán hàng không hiểu chăng. Tôi đâu có muốn mua những đôi giày đế thấp như vậy! Tôi chỉ thích những đôi giày thật cao kia mà. Cuối cùng, ông bán hàng cũng đã mang ra một đôi giày mà tôi thật ưng ý. Khi ông ta thử giày vào chân tôi, tôi đã suýty chút nữa kêu lên "úi da". Sao nó nhọn bó lại ở phía trước và đâm vào ngón chân tôi đau quá. Nhưng sau đó nó lọt gọn vào gót chân tôi. Ôi! Trông tuyệt đẹp! Tôi muốn mua đôi giày này ngay lập tức. Ônb bán hàng đề nghị: - Sao em không thử xem có đi nổi không? Tôi hơi cau mày nhìn ông ta. Việc gì ông ta phải nói: "Thử xem có đi nổi không?" Bộ ông ta không nói được rằng: "Cô thử đi đi lại lại trong phòng thử xem sao?". Tôi không biết ông ta có hiểu rằng đây là đôi giày cao gót đầu tiên mà tôi mang hay không, nhưng qua cách cư xử của ông, chắc ông biết như vậy. Tôi đứng lên, và cảm thấy loạng choạng trân sàn nhà, như muốn nghiêng đằng trước, ngả đằng sau. Ông ta hỏi tôi: - Em thấy thế nào? - Ồ, được lắm. Tôi nói nhưng có lẽ hơi ngập ngừng. Có lẽ đôi giày không thật sự "được vừa vặn cho lắm", nhưng cũng tạm gọi là được đi. Trong khi đứng ngắm mình trong gương, tôi tưởng như có thể thấy được vé mặt và ý nghĩ của các cậu con trai khi họ thấy tôi mang đôi gìay cao gót kiểu mới này. Tư tưởng đó làm tôi nôn nao, khó có thể chờ đến Chủ nhật, dù chỉ mai này là tới. Khi tôi trở lại chỗ ngồi, Bố tôi hỏi đi hỏi lại: - Có chắc thật là con thích đôi giày này không? Không biết lý do tại sao Bố tôi không tưởng tượng được là có người là thích loại giày như vậy. - Thưa Bố, đôi giày này đúng là kiểu con ưa thích. Tôi biết mình phải nói một cách quá quyết như vầy, vì tôi chắc rằng Bố tôi không muốn mua kiêu giày như vầy. Dù sao Bố cũng là người chi tiền trong vụ này. Bố tôi hỏi: - Có vừa vặn không? Mới đầu Bố nhìn tôi rồi Bố nhìn lên ông bán hàng. Tôi đang định cam đoan với Bố rằng đôi giày vừa khít chân tôi thì ông bán hàng đã nói dùm tôi. Ông ấy đáp: - Thưa ông, đúng là số chân của cô bé đó ạ. Chắc cô bé phải bỏ ra một ít thời giờ để tập đi kiểu giày này, nhưng các cô gái mới lớn nào cũng phải trải qua giai đoạn đó. Tôi tức muốn chết, định cấu cho ông ấy một cái vì câu nói vô duyên của ông ấy. Trước tiên là ông ta không được nói: "phải trải qua giai đoạn đó" như kiểu mẹ tôi ở nhà vẫn nói; và sau nữa là ông ta làm như tôi không biết cách phải mang làm sao cho vững nữa. Nhưng lúc đó, ông bán hàng đã làm một việc đáng khen khiến tôi muốn tha thứ cho ông ấy ngay. Ông đã đem ra một đôi giày khác cao hơn đôi giày đang thử này khoảng một ngàn đồng. Đôi giày ấy cũng có gót cao như vậy và trông lại đẹp hơn đôi giày tôi mang thử nữa. Nhưng khi Bố tôi nhìn thấy giá tiền mắc hơn như vậy. Bố liền quyết định ngay rằng nên mua đôi giày tôi đang thử đó mà thôi. Lúc tôi thấy đôi giày đẹp và mắc hơn kia; tôi mừng quá định nắm tay ông bán hàng để tỏ lòng cám ơn ông ấy; nhưng vì ông ta là người lạ, nên tôi biết chắc Bố tôi không muốn tôi tỏ bày tình cảm thân mật như vậy. Vả lại, tôi cũng cảm thấy mắc cỡ nữa. Sau đó, Bố tôi lấy tiền để trả cho ông bán giày, rồi cha con tôi dắt nhau về nhà. Tôi mở ngay họp giày ra để khoe với Mẹ đôi giày mới. Chà, tôi cứ tưởng rằng cha tôi là người khó có thể thuyết phục được, nhưng bây giờ tôi mới thấy Mẹ tôi còn khó tính hơn nữa, và nếu Mẹ dắt tôi đi mua giày, thì chắc chắn còn rắc rối hơn nữa. Lúc nhìn thấy đôi giày, Mẹ tôi chẳng nói gì với tôi ngay, mà Mẹ chỉ nhìn Bố rồi nói như khiển trách Bố. Me hỏi: - Sao mình lại để cho con bé nó chợn kiểu giày như vậy nhỉ? Khổ quá, mình thử nhìn lại đôi gót cao như tháp kia kìa. Tôi ngắt lời Mẹ: - Con mà còn bé sao ạ? Lúc nào Mẹ cũng nói như vậy không à. Mẹ coi, con đã mười lăm tuổi rồi chứ còn bé bỏng gì nữa đâu ạ. Mẹ tôi cầm một chiếc giày lên, nhìn kỹ càng. Rồi Mẹ tôi lăng lặng bỏ vào hộp. - Sao Mẹ vẫn thấy gót giày gì mà kinh khủng thế. Mẹ tôi lắc đầu rồi quay vào bếp sửa soạn dọn bữa ăn. Mãi đến sáng Chủ nhật, tôi mới khám phá ra lý do tại sao người ta lại nói rằng các bé gái phải "học" cách đi đôi giày cao gót như thế nào. Mới đầu, khi lấy đôi giày mới ra để mang, tôi thấy dường như chân tôi to hơn lúc thử giày ở tiệm hôm qua, nếu không, sao nó lại chật kinh khủng thế này. Tôi cởi ra, xem lại bên trong coi số giày là bao nhiêu. Biết đâu người bán hàng đã để lầm đôi giày số nhỏ hơn vào hộp. Nhưng không, số giày vẫn y như đôi tôi đã thử hôm qua. - Ô, thảo nào - tôi kêu to lên, nhưng lại nhớ rằng đâu có ai ở đây mà nói chuyện với. Có lã bây giờ giầy chật hơn và bó vào chân tôi như vầy là vì tôi chưa mang thêm đôi vớ mỏng cho trơn tru hơn. Tôi nhớ lúc ở tiệm giày, người bán hàng có đưa cho tôi một miếng gì để lót vào chân cơ mà. Tôi nhảy vội lên, chạy lại ngăn kéo tủ, lôi ra được một đôi vớ. Xỏ vội đôi vớ vào chân rồi mang giày vào, tôi mới thấy đôi giày thật quá chặc. Tôi vặn vẹo bàn chân đẩy tới đẩy lui mãi, mệt cả hơi mới cho được đôi chân lọt vào giày. Lúc tôi nhìn xuống đôi chân seo tôi thấv "quê" quá chừng. Trông hình mình đang mặc bộ đồ nhăn nhúm, lại mang vớ với giày cao gót, kỳ cục ghê. Khi tôi thử đứng lên, tôi cảm thấy khó có thể bước đi được. Chao ôi, sao mà chật bó tay chân thế này! Tôi không biết hồi Mẹ còn trẻ như tôi, Mẹ có trải qua giai đoạn khó khăn như vậy khi mẹ mới bắt đầu mang giày cao gót không. Rồi tôi cừ thắc mắc không biết bây giờ Mẹ tôi có còn cảm thấy như vậy không, hay là lớn lên thì phụ nữ sẽ thấy quen dần với đôi giày cao gót. Nghĩ một lúc, tôi nhất định cho rằng, nếu bỏ vớ ra, tôi sẽ dễ chịu hơn. Vì vậy, tôi bèn ngồi lên giường, cởi bỏ đôi vớ nặng chình chịch đó ra, rồi xỏ giày vào chân lại. Lần này tôi cương quyết đi xuống dưới nhà để đánh răng, rửa mặt. Có lẽ như người bán hàng đã nói, tôi phai tập đi cho quen dần. Tôi mở cưa phòng rồi đi xuống dưới nhà. Thật ra, tôi nào có bước đi tự nhiên được, tôi loạng choạng từng bước mới xuống được tới nơi. Lúc bước vào phòng tắm, tôi thấy như mình bị say sóng, Trong chốc lát, tôi phải sẵn sàng công nhận rằng tôi chọn đôi giày quả có hơi cao. Suốt lúc tôi chải răng, tôi thấy dường như gót giày cứ nghiêng qua nghiêng lại. "Eo ôi" - tôi tự nhủ, rồi nhổ hết chất kem đánh răng trong miệng ra - "Đôi gót giày này sao lung lay dữ quá. Chắc phải đóng lại cho chặt mới được". Tôi tháo một bên giày ra rồi xem thử chiếc gót. Đâu có sao, nó vẫn chắc chắn như thường mà. Tôi cảm thấy e ngại khi phải trở lại phòng vì tôi sợ thằng Tuấn bắt gặp tôi, chắc chắn thế nào nó cũng cười nhạo tôi cho mà xem. Tôi mở cửa phòng tắm thật khẽ. Tôi mông cả nhà còn ngủ, nhưng chắc cũng có người thức rồi. Tôi bắt đầu bước lảo đảo từng bước cẩn thận để về phòng. Nhưng không tránh khỏi được thằng em. Nó đã nhìn thấy tôi. Kìa, nó đang đứng ở ngay trên lối đi, nhìn tôi cười nghiêng ngã, làm như nó được nghe một câu chuyện chọc cười hay nhất thế giới vậy. - Hay quá ta! - Nó vừa nói vừa cười ầm ĩ, rồi tiếp tục trêu chọc tôi - Hôm nay chắc phải là một ngày Chủ nhật đi bằng cà kheo đây mà. Em phải đi kiếm lại mấy cây cà kheo hồi năm ngoái mới được. Em cá với chị rằng thế nào em cũng đi nhanh hơn là chị di bằng đôi giày cao "quê" như vậy đó. Tôi cố tìm một câu gì để quật lại cái thằng Tuấn này, nhưng nó cứ liến thoắng cái miệng. - Không biết bố có chịu đi bằng cà kheo không. Cha cha, Bố mà đi như vậy chắc cao lêu khêu, nổi bật cho mà coi. Càng nghe thằng Tuấn nói, tôi càng bực tức. Đó mà, tôi nói có sai đâu. Tuấn nó cứ trêu chọc tôi hoài, làm gì nó cũng phá được, nếu không như vệy, thì chị em tôi đã chơi hợp với nhau quá rồi. Nhưng phần lớn, nó cứ kiếm chuyện trêu chọc tôi. Tôi ráng bước loạng choạng cho thật mau tới phòng, ráng bước với đôi giày mời đó. Rồi đóng ngay cửa lại. Thật ra là tôi đã đóng một cái ầm. Tôi chợt nhớ đã có lần tôi bị phạt vì đóng cửa mạnh như vậy, nên lần này tôi liền hé cửa ra độ một phân, như tỏ vẻ xin lỗi, rồi mới dám đóng cửa lại. Dĩ nhiên lần này tôi đóng thật nhẹ nhàng. Tôi ngồi thật lâu bên giường để chờ đợi. Phải chi Tuấn đi xuống nhà dưới rồi, để tôi có thể ra ngoài tập đi cho quen với đôi giày mới. Tôi chắc rằng mình sẽ đi thạo nếu có dịp đi qua lại thử trong vài phút. Nhưng tôi biết ngay rằng tôi mà mở cửa đi ra, thì Tuấn cũng thế nào ở đó nhìn tôi chằm chặp cho mà xem. Rồi chắc chắn tôi sẽ bị bối rối và luống cuống đến nỗi đi có thể té dập mặt xuống sàn mất. Tôi đảo mắt nhìn quanh phòng. Phải chi cái giường không chắn nhiều lối đi, chắc tôi có thể tập đi quanh phòng để quen dần với cảm giác đi bằng đôi giày cao, quả thật cao lênh khênh như cà kheo vậy. Tôi sẽ không bao giờ nói cho Tuấn biết như vậy đâu, nhưng chính lúc này tôi thật có cảm tưởng như mình đang cà kheo vậy. Tôi nhớ lại hồi hà na8nm ngoái, tôi có dịp đi đôi cà kheo của Tuấn; đi cà kheo mà dễ thăng bằng hơn đôi giày cao gót này nhiều, vì ít ra cà kheo còn có chỗ cho mình vịn tay vào. Thế mà đôi giày oái oăm này. Chao ơi, mang nó vào bạn sẽ có cảm tưởng như bị treo lơ lửng trên không. Giá mà tôi được buột vào một chiếc dù hay một vật gì khác để biết chắc rằng mình sẽ đặt chân an toàn trên mặt đất thì đỡ cho tôi biết bao. Nhưng tôi chẳng có vật gì cả, ngay dù đó là một chiếc gối êm mà ngày xưa tôi hay dùng để kê lúc tập lộn đi lộn lại. Tôi đi tới tủ kính, nhìn vào tấm gương soi để thấy đôi chân đau ê ẩm của tôi. Trông thật kỳ cục làm sao. Nhưng có lẽ tôi tôi mang giày cao gót mà lại mặc đồ ngủ nên trông mới kỳ như vậy, chứ có ai ăn mặc như thế bao giờ. Khi cởi bỏ đôi giày ra khỏi chân, tôi lấy một chiếc khăn sạch lau cho thật bóng. Rồi tôi lấy giấy gói riêng từng chiếc một, rồi cất vào trong hộp đựng gìay còn nằm trên giường, giữa đống chăn màn chưa xếp dọn. Bây giờ nhìn đôi giày, tôi thấy nó kỳ khôi làm sao, nhưng lạ thật, lúc nó nằm trong tu kính ở cửa hàng thì trông đẹp tuyệt. Đem để vào hộp giày thấy cũng không đến nỗi nào, vậy mà, ui cha, lúc đi vào chân mới đau kinh khủng. Suýt chút nữa, tôi đã nhất định sẽ mang đôi giày có gót thấp lè tè để đi nhà thờ sáng Chủ nhật này. Nhưng tôi biết nếu tôi làm như vậy; Bố tôi sẽ không tha tôi về tội đã bắt Bố tôi đã trả nhiều tiền để mua cho tôi được đôi giày mới cao gót kia. Trong lúc này không phài là lúc tôi nên làm Bố Mẹ bực mình vì tôi, lý do là tại tôi có một điều muốn xin Bố Mẹ tôi. Từ buổi tan học chiều Thứ Sáu, tôi đã lần lữa về chuyện này, chưa dám đem ra hỏi Bố Mẹ. Vậy mà mấy cô bạn cứ giục tôi phai trả lời cho họ biết sớm. Chao ơi, tôi thật mong muốn được cùng đi với họ. Số là Kiều và Thu định rủ tôi tới Phú Lâm trong mấy ngày nghỉ cuối tuần. Ở Phú Lâm, ba má Kiều có một căn nhà để không nên họ cho phép chúng tôi đen ở chơi trong ba ngày thứ Sáu, Thứ Bảy và Chủ nhật tuần sau. Chúng tôi muốn đi xe đạp tới đó và chỉ chỉ ba đứa tụi tôi ở trong căn nhà đó mà thôi, Kiều cho biết là có một khu phố ở gần nhà, chúng tôi có thể ra đó mua sắm đồ đạc, thức ăn và những thứ cần thiết. Bố Mẹ cứ coi Tuấn và tôi như những đứa con nít. Ít ra, Bố Mẹ đã làm cho chúng tôi có cảm tưởng như vậy. Vì mỗi lần Bố Mẹ phảii đi đâu có việc vào buổi tối, Bố Mẹ luôn luôn nhờ một bà nào tới ở coi chúng tôi. Trong khi đó chúng tôi vẫn cho rằng mình đã đủ khôn lớn để ở nhà một mình, không cần ai coi giữ như vậy, nhất là chúng tôi thấy mấy đứa cùng tuổi với chúng tôi đã thường ở nhà một mình lúc cha mẹ họ có việc đi khỏi. Vì thế nên tôi thấy thật khó để xin phép Bố Mẹ cho đi chơi cuối tuần ở Phú Lâm với hai cô bạn. Tôi biết thế nào Mẹ tôi cũng tưởng tượng ra hàng trăm điều rắc rối và cứ lo nghĩ mãi về việc tôi không thể làm gì cho chính tôi được. Đầu đuôi là như vậy đó các bạn ạ. Đó là lý do khiến tôi không muốn làm cho Bố Mẹ phai bực mình về chuyện đôi giày mới này của tôi. Bỗng nhiên tôi chợt nhớ một điều quan trong. Đi đôi giày cao gót mới như vậy thì tôi phải có một cái quần dài để mặc cho nó đi đôi với nhau chứ. Ai lại mang giày cao gót mà mặc cái quần ngắn tới mắt cá như mấy cái quần cũ mà tôi vần mặc khi đi dép, trông sao được. Chắc chắn là không ai coi được rồi. Tôi bèn mở cửa phòng nói vọng sang phòng Mẹ: - Mẹ ơi, con mặc cái gì bây giờ? Tôi cho rằng Mẹ đoán được điều tôi đang nghĩ. Nhưng Mẹ tôi trả lời ngay, làm như không có chuyện gì rắc rối cả: - Ơ kìa, thì con cứ mặc chiếc ào dài để dành đi nhà thờ chứ sao nữa. Tôi nói rõ hơn: - Không phải ạ, con muốn nói là mặc gì để đi đôi với giày cao gót kìa. Bố nói ngay: - Con mặc cái quần nào dài dài một chút. Chứ còn muốn mặc gì nữa? May mà người nói câu đó là Bố, chứ nếu Tuấn nói như vậy, thế nào tôi cũng chun cái mũi lại, nói một câu gì cho bõ ghét. Nhưng đối với Bố thì tôi đâu dám. Có lần tôi cũng đã lỡ làm kiểu đó, Bố liền có biện pháp kỷ luật với tôi ngay. Mà biện pháp kỷ luật của Bố nghĩa là bóp tai hoặc bắt tôi nằm sắp xuống giường, "phết" cho mấy roi vào mông. Một lát, Mẹ tôi bước vào, tay cầm chiếc quần dài của mẹ đưa cho tôi. Tôi cầm ngay lấy, ướm thử vào người. Chu cha ơi, quần gì mà dài quá thế này, trông buồn cười ghê. Chắc không làm sao vừa với tôi được. Mẹ bảo: - Đó, con mặc tạm cái quần của mẹ đi. Tôi kêu lên: - Thôi Mẹ ơi! Quần của Mẹ dài quà chừng, con phải kéo lên tới ngực sao. Mẹ ngắt lời tôi: - Làm gì mà dài tới ngực được, chỉ hơi dài một chút thôi. Tôi chống chế: - Nhưng mẹ ạ, con không mặc vừa đâu. Mẹ tôi nghiêm giọng: - Vậy con định làm sao? Tôi nhìn lên Mẹ. Tôi thấy mẹ có vẻ giận. Mà mẹ tôi có lý thật. Bây giờ tôi không có quần dài để mặc đi với với đôi giày cào gót, nên tôi muốn đi giày mới, thì phải mặc đỡ quần của mẹ chứ sao. Nghĩ vậy tôi liền xỏ thử quần mẹ vào. Mẹ tôi căn dặn kỹ càng: - Con phải cẩn thận đấy, đừng làm rách cái đường viền ren của mẹ, nếu không thì… Mẹ tôi bỏ lửng câu nói. Tôi biết mẹ rất ghét thấy đườg ren viền ống quần bị sứt. Nhớ một lần nọ, lúc đang ngồi trong nhà thờ, tôi thấy có một mối chỉ tua ra ờ gấu quần viền ren của mẹ, cái quần sa tanh mẹ vừa mới may. Tôi liền ngồi xuống đất, kéo sợi chỉ ra. Tôi càng kéo, chỉ càng tuột ra. Thình lình, mẹ tôi cúi xuống, nhìn thấy tôi đang kéo sút đường may ra, khiến cả nửa ống quần tuột khỏi đường viền ren. Mẹ tôi bối rối và ngượng chín cả người. Dĩ nhiên lúc về nhà, tôi bị một trận đòn nên thân. Khi nghĩ lại buổi hôm đó, tôi đã định rằng sẽ không bao giờ mặc quan dài viền ren cả, nhất là quần như của Mẹ. Vậy mà bây giờ tôi lại "vi phạm" cả hai điều đó; đã thế còn phải làm bộ như mình rất vui thích được mặc chiếc quần dài của Mẹ. Mẹ vừa ra khỏi phòng thì tôi cũng vừa mặc xong chiếc quần dài kinh khủng này. Lớp sa tanh mềm mại và bóng láng thật đẹp nhưng cái quần không vừa vặn với tôi chút nào. Chỗ thì lùng bùng rộng phình ra, chỗ lại xếp thành nhiều "banh", dồn về một phía. Tôi thấy mình ăn mặc như một người nhà quê mới ra tỉnh. Phải chi tôi đừng có quá nài nỉ xin Bố Mẹ sắm giày cao gót cho bằng được như vậy, thì chắc bây giờ tôi đỡ bị rắc rối biết bao. Nhưng lỡ rồi. Lúc tôi đang còn cố sửa đi sửa lại chiếc quần cho dễ coi hơn, thì Bố đã gọi xuồng ăn sáng ngay cho kịp giờ. Tôi vội diện thêm chiếc áo dài vào rồi ráng xỏ chân vào đôi giày mới tinh, cao như cái thang đó. Tôi phải cố làm bộ như đôi giày mang vô làm tôi dễ chịu lắm, và tôi rất vui thích được có đôi giày mới kinh khủng này. Nhưng thật ra, sâu tận trong tâm khảm tôi, tôi chẳng thích thú chút nào. Tôi nhìn khá lâu vào đôi giày cũ thấp gót của tôi trên sàn nhà một lần nữa, rồi mở cửa đi xuống nhà ăn sáng. Khi nhìn chiếc cầu thang dẫn xuống nhà dưới, tôi tưởng mình không thể nào đi hết được. Làm sao đi nổi hết mấy bậc thang đó với đôi giày cao gót này! Nhưng tôi biết rõ rằng mình phải cẩn thận từng bước một. Nếu không, tôi dám bị té lộn đầu xuống trước cho mà xem. Vì thế tôi ráng nắm chặt vào tay vịn cho chắc ăn. Chợt có tiếng Tuấn vang lên: - Đôi giày cao gót mới coi điệu quá ta! Vừa nói nó vừa cười khúc khích. Tôi cắt ngang: - Thôi mà, nói hoài. Nhưng rồi tôi lại thấy nó đâu có lỗi gì trong chuyện đàn bà con gái của tôi, dù sao, làm thân con trai như nó cũng sướng. Tôi nói tiếp để bào chữa cho mình: - Đôi giày mới này hơi trơn một chút, nhưng kiểu mới là như vậy. Tuấn vẫn cười, nói thêm: - Dĩ nhiên rồi. Nói xong nó quay vào bếp. Tôi mừng thầm. Ít ra tôi cũng có thể thong thả đi một mình hết các bậc thang còn lại, mà không ngượng ngập lo nó nhìn theo. Cuối cùng tôi cũng đi được vào tới bếp một cách an toàn và với một vẻ cố làm ra tự nhiên. Bố nhìn tôi bằng cặp mắt to vẻ bỡ ngỡ. Bố đứng lên khỏi bàn ăn, kéo ghế cho tôi ngồi làm như tôi là một người khách hay là một người nào quan trọng lắm vậy. Bố nói: - Chà, người thiếu nữ duyên dáng này là ai vậy nhỉ? - Đó là chị Thảo yểu điệu của con đấy, Bố ạ. Tuấn tía lia cái miệng, không để tôi kịp mỉm cười duyên với bố vì câu nói rất lịch sự của Bố. Rồi Tuấn lại nói luôn: - Trông chị Thảo nổi bật hẳn lên, bố nhỉ. Có lẽ chị ấy cao hơn Chủ nhật tuần trước cả một tác nữa đấy. Tôi chỉ muốn nói móc lại Tuấn một câu gì cho ra hồn, nhưng chắc thế nào Bố Mẹ cũng không bằng lòng kiểu đó. Nghĩ vậy, tôi đành cố nở một nụ cười với Tuấn. Nhưng chao ơi, nụ cười giả tạo đó méo xẹo làm sao. Trông nó dễ ghét quá chừng, tôi chẳng muốn gì khác hơn là tìm cách gì thật tệ để tra thù cho nó cho bõ ghét. Tôi vừa miên man nghĩ đến một biện pháp thật xấu để đương đầu với Tuấn, thì Bố đã mở Kinh thánh ra và bắt đầu đọc. Tôi đoán là Bố còn đọc nhiều hơn nữa, nhưng tôi nghe rõ và nhớ dược chừng đó. Như vậy, tôi không được quyền ghét giận Tuấn. Nếu tôi có bị khó chịu, tức mình thì cũng không hẳn là lỗi của nó gây ra. Suốt thời gian Tuấn cầu nguyện, tôi đâm ra lo sợ; vì trong gia đình tôi, chúng tôi cầu nguyện cho mọi điều. Vâng, đúng là chuyện gì cũng được chúng tôi cầu nguyện cho. Vì vậy, nếu Tuần mà cầu nguyện xin cho tôi được vui thích và thoải mái trong đôi giày mới này, thì tôi chắc - Ồ, có lẽ chắc tôi ngượng đến chết mất. Mời các bạn đón đọc Đứa Em Sinh Đôi của tác giả Thùy Trang.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điện Thoại Di Động - Lưu Chấn Vân
Điện thoại đã mang lại niềm vui, mang lại tình yêu và cả sự nghiệp hưng thịnh cho người dẫn chương trình truyền hình nổi tiếng Nghiêm Thủ Nhất, nhưng cũng chính điện thoại đã làm cho cuộc hôn nhân của anh gặp phải cuộc khủng hoảng lớn. Tất cả chỉ đơn giản vì một sai lầm ngẫu nhiên: anh đã đi đến đài truyền hình, bỏ quên điện thoại ở nhà. Vợ anh đã phát hiện số điện thoại của một người phụ nữ lạ gọi vào máy anh, từ đó mọi bí mật vỡ lỡ... Câu chuyện bắt đầu - là lỗi do điện thoại di động? Hay điện thoại di động là cái cớ để đổ lỗi? *** Lão Ngưu trông coi điện thoại trên thị trấn, năm 1968 cùng với cha của Nghiêm Thủ Nhất đi buôn hành. Lão Nghiêm, cha của Thủ Nhất trước ngày đi buôn hành rất ít nói, cả ngày lão chỉ nói mươi câu. Trong mười câu thì sáu câu không nói không được, mỗi câu chỉ một tiếng, chuyện lớn là làm nhà, chuyện nhỏ là sắm thêm cái chậu đựng nước tiểu, tán thành thì lão buông một tiếng “được”, không tán thành thì “đếch gì”; bốn câu khác là than thở, dù vui mừng hay bực tức cũng đều “ối dào”. Sau ngày đi buôn hành lão trở nên nói nhiều. Đi buôn được chừng nửa năm lão có thể nói gãy gọn một câu chuyện. Thủ Nhất nhớ, hồi ấy cha cậu ta vẫn kể hai câu chuyện, một chuyện ăn viên đậu, một chuyện ăn bánh kem. Một người, tháng Chạp, lên chợ bán những lá bùa, ngồi bên cạnh là hàng bán viên bột đậu xanh. Lão mua bốn cân, người quen, cho hẳn sáu cân. Một mình lão ăn, ăn hết lúc nào không hay. Vừa đứng dậy, lão ngã bịch ngay xuống. Một người, vào mùa gặt, nhà bị mất bò, đi tìm hai hôm nhưng vẫn không thấy, bụng đói quay về, gặp ngay người đi bán bánh kem, người quen, “nào ông anh, cho tôi chịu năm cân”. Ăn xong về nhà, “mẹ, cho con hụm nước”, bịch, lại ngã. Lúc bấy giờ Thủ Nhất không thấy buồn cười, nhưng đến năm bốn mươi tuổi cứ mỗi khi nghĩ lại, đều buồn cười. Thoạt đầu, Thủ Nhất thấy cha đi bán hành quen biết nhiều người, học ăn học nói, về sau cậu mới biết, chỉ có một người dạy cha nói chuyện, ấy là lão Ngưu. Buổi tối, cả nhà quây quần bên bếp lò ăn cơm, đang ăn thì Thủ Nhất cười khúc khích, lắc đầu: - Cái nhà bác Ngưu! Thủ Nhất biết cha đang ăn cơm, lòng những muốn đi buôn hành với lão Ngưu. Lúc ấy, Thủ Nhất thấy trên đời này không gì vui bằng chuyện đi buôn hành. Tiết đông chí của năm 1968, lão Ngưu và lão Nghiêm đi bán hành ở mỏ than Trường Trị cách đấy hai trăm dặm, lúc về đi qua cửa nhà lão Nghiêm, lão Ngưu vào ngồi chơi một lúc. Trước khi gặp lão Ngưu, Thủ Nhất nghĩ ông này phải là người to cao, nói lớn, nhưng gặp rồi mới biết, lão Ngưu cao hơn cái bàn không là bao, miệng thần sấm, lúc nói giọng eo éo như đàn bà con gái. Khi trước chỉ nghe nói, bây giờ thấy, lẽ ra Thủ Nhất phải sợ, không ngờ lão Ngưu cười ngượng ngùng với Thủ Nhất, lấy cái mũ bông trên đầu xuống, dùng tai mũ lau mồ hôi trên mặt. Lão Nghiêm mời bạn vào nhà uống nước, Thủ Nhất cũng theo vào, lão đạp vào bụng con một cái: - Người bẩn thỉu tanh tưởi quá, cút! Hai người ngồi uống nước, không thấy lão Ngưu nói gì. Thỉnh thoảng mới có tiếng nói chuyện, chỉ là chuyện ăn uống dọc đường, cho con la ăn mất bao nhiêu thức ăn... Sau đấy chỉ còn có tiếng uống nước ừng ực. Lão Ngưu đánh xe đi rồi, lão Nghiêm mới nói với cả nhà: - Chuyện định nói, hôm nay lại chưa nói được. Hăm ba tháng Chạp, năm cùng tháng tận, lão Nghiêm xách theo cái chân giò sang nhà lão Ngưu chơi, nhân thể tính toán nợ nần. Buổi sáng đi mặt mày tươi tỉnh, chiều về mặt tái xanh, ngồi ở bậu cửa hút thuốc. Hút cho đến lúc sao trời ngả về Tây lão mới đứng dậy, gõ cọc cọc cái tẩu thuốc lên đầu: - Tôi còn đi bán hành nữa sẽ không là cái giống người! Mẹ Thủ Nhất chết sớm, chết đói hồi năm 1960. Hôm sau cậu ta nghe bà nói lại, lão Nghiêm và lão Ngưu trong khi tính toán nợ nần, hai người cãi cọ, to tiếng với nhau. Từ đấy, lão Nghiêm thôi không buôn bán hành mà cũng không qua lại với lão Ngưu nữa, ngồi buồn, không nói năng gì. Thủ Nhất có một người chú, em rể của mẹ, vẫn gọi là Hoàng, ông này mở hiệu nhuộm áo quần. Mùa xuân năm sau, ông Hoàng rủ lão Nghiêm đi mua vải ở các làng, lão Nghiêm lắc đầu: - Vải dễ mua, nhưng tôi không biết rao. - Bác chỉ rao thật to một câu “ai nhuộm vải không” thôi mà. Lão Nghiêm lắc đầu, không đi. Mùa xuân năm 1989, lão Nghiêm bị xuất huyết não, đâm ngớ ngẩn, liệt nửa người bên trái. Có điều khác người là, người ta bị xuất huyết não thì không nói được, nhưng lão thì lắp bắp vẫn nói được cả câu; người khác xuất huyết não thì không còn nhớ gì, nhưng lão Nghiêm lại nhớ hết mọi chuyện trong đời. Cuối năm, Thủ Nhất từ Bắc Kinh về quê ăn tết, hai cha con ngồi bên bếp lửa, lão Nghiêm người bị lệch ngồi một bên bếp, Thủ Nhất ngồi một bên, không hiểu tại sao lại nói đến chuyện lão Ngưu. Năm 1968 cùng đi buôn hành, không hiểu vì sao trở mặt. Lão Nghiêm giơ cánh tay phải không bị liệt lên, ngón tay run lẩy bẩy, miệng lắp bắp rất vất vả: - Lão ta ăn gian! Khoản... khoản... khoản... nào cũng gian, nhiều... nhiều... nhiều lắm! ... Mời các bạn đón đọc Điện Thoại Di Động của tác giả Lưu Chấn Vân.
Cô Gái Không Là Gì - Tomek Tryzna
Cô Gái Không Là Gì Nhân vật chính là Marysia, cô bé mười lăm tuổi, con của một gia đình công nhân nghèo, đông con. Cô gái quê ngây thơ, thật thà đã dần dần đánh mất chính mình ở chốn thị thành trong ngôi trường mới, để mang cái tên “Không Là Gì” trong mắt mọi người. “Tôi nhìn mình, tôi nhìn, và tôi vẫn không thể nào nhận ra mình. Tôi mà gặp một cô gái như thế này ngoài phố thì chắc tôi phải hổ thẹn khi gọi cô ta. Mà đó là tôi chứ ai. Tôi hé môi, cô gái trong gương cũng hé môi, vì đó chính là tôi”. “Marysia, rõ ràng là Marysia. Bao nhiêu năm tôi muốn nhớ lại cái tên này, nhưng nó đội lốt những cái tên khác khi tôi muốn nhớ... nhớ lại”. Tuổi mới lớn thường không phải là giai đoạn dễ dàng trong đời người. Trong thời kỳ này, tuổi trẻ mộng mơ và nông nổi gặp muôn vàn cạm bẫy có thể hủy hoại cuộc đời mình trước khi nó thực sự bắt đầu. Có khi kịp sửa chữa những sai lầm mắc phải, nhưng, thật đáng tiếc, lắm khi không. Chính vì thế, cần lắm bàn tay dìu dắt của những người lớn để các cô bé ấy đừng đánh mất chính mình. Tiểu thuyết “Cô gái Không Là Gì” của nhà văn Ba Lan Tomek Tryzna được đưa vào danh sách best seller đã được dịch qua nhiều tiếng khác nhau trên thế giới như Anh, Mỹ, Canada, New Zealand, Úc, Braxin … và đã được dựng thành phim dài 98 phút do đạo diễn nổi tiếng Ba Lan (và thế giới) - Andrzej Wajda, thực hiện. *** Marysia, Kasia và Ewa, ba cô gái tuổi mười lăm, là ba nhân vật chính của tiểu thuyết. Marysia, con gái một gia đình công nhân nghèo, đông con, ở một làng quê Ba Lan, cùng gia đình chuyển nhà lên thành phố khi bố cô, một công nhân mỏ, sau bao năm xếp hàng chờ đợi, nay được phân nhà mới. Cô gái nhà quê ngây thơ, thật thà cảm thấy lạ lẫm ở chốn thị thành và tại ngôi trường mới của mình. Trong lớp học mới, Marysia làm quen và kết bạn với Kasia, cô bạn có mẹ là bác sĩ và bố đang ở nước ngoài. Kasia là một cô học trò có tính cách mạnh mẽ, lối sống ngang tàng, quan điểm sống dị thường và có năng khiếu âm nhạc. Cô từng bước đưa Marysia vào thế giới âm nhạc nhiều ma lực và giàu cảm xúc, lôi kéo cô bạn học đòi lối sống của mình, thuyết phục cô bạn nghe theo tư tưởng tự do tuyệt đối và bình đẳng của con người với Chúa Trời. Marysia tôn sùng, khâm phục và tin yêu Kasia như chị em ruột, thậm chí còn hơn thế : Con rất yêu mẹ con và Zenus, hai đứa em gái, Tadziu, bố, nhưng yêu nhất trần đời vẫn là Kasia của con. Tại sao lại như vậy, con cũng không biết nữa. Kể cả, nếu Kasia thôi không yêu con nữa, thì con vẫn không bao giờ quên được bạn ấy và con sẽ yêu Kasia cho đến tận những ngày cuối cùng của đời con. Kasia cho rằng mình bị quỷ ám, con quỷ này ẩn nấp trong người Kasia, nhờ có nó mà Kasia thăng hoa trong sáng tác âm nhạc. Làm theo hàng loạt mưu kế của Kasia, Marysia từng bước xa lánh gia đình, mất tính thật thà. Kasia xác người hồn quỷ đã đẩy Marysia vào con đường phạm thánh, điều khiến tình bạn của hai cô gái bị chao đảo và hậu quả là Marysia kết bạn với cô gái khác cùng lớp, tên là Ewa. Ewa, cô gái xinh nhất lớp, con nhà giàu, bố mẹ là doanh nhân, một cô gái được nuông chiều, quen sống xa hoa, thích chơi ngông, hay ghen tỵ và nhiều mưu lắm kế. Gia đình Ewa là gia đình tôn sùng lối sống Mỹ. Biết Marysia là con nhà nghèo, thích ăn chơi đua đòi và dám liều, càng ngày Ewa càng tặng cho Marysia nhiều món quà mới lạ, nhất là đồ may mặc, lôi kéo cô bạn vào con đường hưởng thụ, đi tìm cảm giác mạnh và những thú vui hư đốn. Tuổi mới lớn của Marysia là như vậy. Tuổi mới lớn thường không phải là giai đoạn dễ dàng trong đời người. Trong thời kỳ này, tuổi trẻ mộng mơ và nông nổi gặp muôn vàn cạm bẫy có thể hủy hoại cuộc đời mình trước khi nó thực sự bắt đầu. Có khi kịp sửa chữa những sai lầm mắc phải, nhưng, thật đáng tiếc, lắm khi không. Chả thế mà có người đã định nghĩa: Tuổi trẻ là điên rồ . Tiểu thuyết gồm hai phần hầu như bằng nhau, viết ở ngôi thứ nhất, xưng tôi . Phần một viết về tình bạn giữa Marysia và Kasia, một tình bạn mà Marysia những tưởng vững bền mãi mãi, nhưng không phải vậy. Phần hai viết về tình bạn giữa Marysia và Ewa giàu có, người đã nhấn chìm Marysia trong vũng bùn hư đốn, cho Marysia nếm mùi giàu sang để rồi trở thành đứa con hư, không thèm ngó ngàng gì đến gia đình. Trong phần hai của tiểu thuyết, Marysia không còn là Marysia nữa. Cùng với việc thay đổi xoành xoạch tên mình, tính nết của cô cũng không ngừng thay đổi. Có thể nói những cái tên mới của Marysia tượng trưng cho sự hư thân mất nết của cô gái (Kasia gọi Marysia là Minka, còn Ewa gọi cô là Majka). Rốt cuộc, do thiếu bản lĩnh, sống buông thả và học đòi, Marysia từng bước mất phương hướng, tự đánh mất mình để rồi đến phần cuối của tiểu thuyết chẳng còn là Marysia ngây thơ, trong trắng lúc ban đầu. Thậm chí cô không nhận ra chính mình và cái tên Marysia của mình nữa: “ Tôi nhìn mình, tôi nhìn, và tôi vẫn không thể nào nhận ra mình. Tôi mà gặp một cô gái như thế này ngoài phố thì chắc tôi phải hổ thẹn khi gọi cô ta. Mà đó là tôi chứ ai. Tôi hé môi, cô gái trong gương cũng hé môi, vì đó chính là tôi”. “Marysia, rõ ràng là Marysia. Bao nhiêu năm tôi muốn nhớ lại cái tên này, nhưng nó đội lốt những cái tên khác khi tôi muốn nhớ... nhớ lại”. Nhân vật người đàn ông đeo mục kỉnh, được gọi là “người đàn ông Ba Lan”, nhiều lần bất ngờ xuất hiện, muốn cứu vớt Marysia khỏi vũng bùn sa đọa, trở lại với bản sắc của mình, nhưng không thành công. Đây là sự can thiệp có dụng ý của tác giả. Người ta cho rằng, Marysia thất bại vì đã không nghe theo lời “người đàn ông Ba Lan” cũng như lời khuyên của con quỷ Pimpus vốn là bạn của mình. Đoạn cao trào của tiểu thuyết chính là lúc Marysia giật mình phát hiện ra sự thật những gì Kasia và Ewa nghĩ về mình, khi hai cô bạn đang cười khúc khích bàn tán về Marysia, nhạo báng, khinh thường Marysia vô tích sự, thậm chí gọi Marysia là Cô gái Không Là Gì . Không Là Gì là biệt danh của Marysia do Kasia và Ewa gán cho. Ta hãy nghe đoạn thoại sau đây của Kasia và Ewa: “- Thôi, cậu đừng nói về cô ta nữa! Cô ta không là gì cả, không có cô ta... - Cậu nói cực hay, cậu có lý, cô ta là cô gái Không Là Gì ”. Sau cú sốc này, Marysia chìm vào những cơn ác mộng hãi hùng. Đây là thiên tiểu thuyết viết về xã hội Ba Lan hồi những năm tám mươi của thế kỷ trước, khi đời sống của người dân thời bao cấp còn nhiều khó khăn và thiếu thốn. Tiểu thuyết cho thấy, các cô gái tuổi học trò, cụ thể là tuổi mười lăm, đã manh động, thậm chí điên rồ, “hết khôn dồn đến dại” theo kiểu “nhất quỷ nhì ma thứ ba học trò” như thế nào khi đi tìm những khoảnh khắc “nhận biết bản thân” mà theo họ “mình được là mình thật sự”. Có thể nói, Cô gái Không Là Gì là lời cảnh cáo, là bài học đạo đức đắt giá cho tuổi học trò. Bức thông điệp mà tiểu thuyết muốn gửi tới các bạn trẻ là: Tuổi mười lăm đẹp như trăng rằm, nhiều đam mê, lắm mộng mơ, nhưng cũng đầy cạm bẫy, dễ tin và dễ vỡ, và xin các bạn đừng tự đánh mất mình. Cô gái Không Là Gì là tiểu thuyết chẳng những dành cho tuổi học trò, những người đồng trang lứa với các nhân vật chính của truyện, mà còn dành cho cả người lớn, khi nó đề cập cả những vấn đề của họ nữa. Trả lời câu hỏi về điều này, nhà văn Tomek Tryzna khẳng định rằng, ông không muốn tiểu thuyết Cô gái Không Là Gì đi theo lối mòn xưa cũ, theo đó, viết cho trẻ con là chỉ dành cho trẻ con đọc, viết cho người lớn là chỉ dành cho người lớn đọc, mà ông muốn cách tân (hậu hiện đại? phá cách?), và ông đã cách tân nội dung và hình thức... của tác phẩm hiệu quả tới mức nào thì chúng ta sẽ thấy sau khi đọc tác phẩm. Cuộc trò chuyện giữa Kasia và cô giáo chủ nhiệm Turska thực chất là cuộc đối thoại nảy lửa giữa hai thế hệ, giữa các triết lý, quan điểm sống trái ngược nhau, trong đó mỗi bên đều có cái có lý và cái phi lý của mình: “ - Tại sao cô không vứt bỏ những cái đó đi? - giọng nói của Kasia vang lên trong loa. Và giọng cô chủ nhiệm: - Được rồi, cô làm theo ý em nhé. Cô sẽ bỏ chồng, bỏ nhà, bỏ công việc ở trường và cô sẽ đi đâu? Cô ra đường ư? Em cho rằng cô sẽ tìm thấy hạnh phúc ở ngay sau góc phố đầu tiên chăng? ” Cuối cùng, trượt dài trên con dốc tự đánh mất mình, không nghe theo lời khuyên của “Người đàn ông Ba Lan” và Pimpus, Marysia đã thất bại, không thể tìm lại chính mình, không thể “tự sinh ra mình” được nữa. Bi kịch này được diễn tả bằng phép tu từ ở đoạn kết của tiểu thuyết. Sau khi nhảy từ ban công tự tử, Marysia có cảm giác trong bụng cô đang có một thai nhi, thai nhi nhiệt tâm, song thai nhi này không thể ra đời. Đứa con “nhiệt tâm” trong bụng bảo rằng, chẳng thể vãn hồi tính nết cũ được nữa rồi: “ Sao lại có sự sinh nở không bao giờ sinh nở, mặc dầu luôn luôn sinh nở và sinh nở, muôn đời chống chọi với nhiệt tâm dâng trào. ” Cách kết thúc câu chuyện của tác giả khiến người đọc sau khi đã gập cuốn sách lại rồi vẫn còn bùi ngùi, xót xa, vẫn còn suy nghĩ khôn nguôi. Tư tưởng chủ đạo của tác phẩm là cuộc đối đầu giữa cái thiện và cái ác, giữa cái tốt và cái xấu mà lắm khi có vẻ như chúng là hai trong một. Thiên tiểu thuyết này - thiên tiểu thuyết tự làm mới mình, giàu kịch tính và nhiều cảm xúc, đầy nét trẻ trung và hồn nhiên của tuổi học trò, đậm chất giả tưởng và nhiều yếu tố thần thoại, hoang đường, hư hư thực thực đan xen dày đặc, đòi hỏi người đọc phải thật sự tập trung - đã miêu tả rất thành công những tâm tư, tình cảm, nghĩ suy, điểm mạnh, điểm yếu và những bí ẩn của tuổi mới lớn. Một số tình tiết của tiểu thuyết có thể khiến người đọc có cảm giác là “nặng đô” đối với tuổi học trò. Tuy nhiên, phải chăng đó cũng chính là những lời cảnh tỉnh “nặng đô” có chủ ý của tác giả đối với các bạn trẻ ở lứa tuổi này? Tác giả không bình luận, không nhận xét trực tiếp hành động của các nhân vật. Ông dành việc này cho người đọc. Một số nhà phê bình văn học Ba Lan cho rằng, tiểu thuyết Cô gái Không Là Gì tựa hồ một cơn bão đổ bộ vào nền văn học Ba Lan hiện đại hồi những năm chín mươi của thế kỷ trước. Đánh giá cao tiểu thuyết này, Czeslaw Milosz, nhà thơ lớn của Ba Lan và thế giới, giải Nobel 1980, đã nói: Cô gái Không Là Gì là thiên tiểu thuyết hậu hiện đại thật sự đầu tiên của Ba Lan. Tiểu thuyết đã được dịch sang hàng chục thứ tiếng khác nhau trên thế giới như Anh, Mỹ, Canada, Tân Tây Lan, Úc, Brazin, các nước Tây Âu, các nước Scăng-đi-na-vơ... Cũng là sách bestseller ở Ba Lan, Hà Lan, Bungari, Đức... Đặc biệt Cô gái Không Là Gì đã được dựng thành bộ phim truyện dài 98 phút, do đạo diễn nổi tiếng Ba Lan (và thế giới) - Andrzej Wajda, thực hiện. Anna Wielgucka đóng vai Marysia, Anna Mucha đóng vai Kasia và Anna Powierza đóng vai Ewa. Nữ diễn viên Anna Wielgucka đã được nhận giải thưởng “ Diễn viên trẻ triển vọng” tại Liên hoan phim quốc tế Berlin. Việc tiểu thuyết Cô gái Không Là Gì lọt vào mắt xanh của hai cây đại thụ văn học và điện ảnh Ba Lan (và thế giới) – Czselaw Milosz và Andrzej Wajda, cho thấy tầm cỡ của tác phẩm này. Tiểu thuyết cũng đã được IBBY Ba Lan bình chọn là “ Cuốn sách của năm ” (1994). Theo quy định của Bộ Giáo dục Quốc dân Ba Lan, Cô gái Không Là Gì là một trong sáu cuốn sách bắt buộc phải đọc đối với học sinh lớp III (tương đương lớp 9 của Việt Nam) các Trường trung học cơ sở ở Ba Lan trong niên học 2011 – 2012 và 2012 - 2013, điều đó chứng tỏ giá trị giáo dục của thiên tiểu thuyết này. Phải chăng Bộ Giáo dục Quốc dân Ba Lan muốn các học trò của mình phải nhìn thẳng vào sự thật, dù đó là sự thật phũ phàng? Hà Nội, ngày 01 tháng 01 năm 2013 Nhà văn, dịch giả Lê Bá Thự Mời các bạn đón đọc Cô Gái Không Là Gì của tác giả Tomek Tryzna.
Chú Chó Không Nhà - Sarah Lean
Tên tôi là Cally Louise Fisher và tôi đã không nói chuyện trong 31 ngày. Nói chuyện không phải lúc nào cũng giúp mang đến mọi điều, dù cho bạn mong muốn rất nhiều. Cally Fisher thấy người mẹ đã mất của cô tươi sáng, thực tế và sống động. Nhưng không ai tin cô bé, vì vậy Cally không nói nữa. Rồi có một chú chó săn luôn dõi theo Cally mọi nơi. Có lẽ nó biết cô bé nói thật… Nhưng làm thế nào Cally có thể thuyết phục bất cứ ai vẫn tin rằng mẹ vẫn còn, “Chú chó không nhà” là liên kết cuối cùng của mọi người trong gia đình với cô ấy? *** SINH NHẬT BỐ , tôi thức dậy trước mọi người. Bố chỉ muốn có một ngày yên tĩnh. Không quà, không bánh, không gì cả. Bố nói, vì đó không phải là ngày sinh. Người ta thường quên những sinh nhật không phải ngày sinh của mình. Sinh nhật bố trùng với ngày mẹ mất hồi năm ngoái. Tôi nghĩ người ta gọi nó là bi kịch hay thảm kịch hoặc một từ lớn lao nào đó có nghĩa to tát hơn từ “không may” khi hai việc ấy xảy ra cùng một ngày. Tôi ngồi bên ngoài cửa phòng ngủ của bố, cùng với những tấm thiệp sinh nhật, và chờ đợi. Qua khe hở của ô cửa, tôi nhìn thấy một mảng tối trên chiếc ga giường và cái đầu màu đen của bố nằm lõm sâu vào chiếc gối ngủ. Bố thở dài. Tôi biết ông đã tỉnh giấc. Có sáu thiệp mừng sinh nhật dành cho bố. Một của tôi, một của Luke, anh trai tôi (lúc này vẫn còn ngủ hoặc đang ngồi trước máy vi tính - cửa phòng thì đóng) và bốn cái nữa được gửi đến qua đường bưu điện. Tôi đẩy khuỷu tay mở cửa phòng rộng thêm tí nữa và ném thiệp mừng sinh nhật của tôi vào trong. Tôi thấy bố quơ tay ra phía sau lưng, vỗ vỗ quanh giường sờ tìm tấm phong bì màu xanh nước biển và tôi nghe tiếng sột soạt khi bố mở nó ra. Tấm thiệp có hình một chú gấu xám với cái mũi màu xanh biển, đang nói chuyện điện thoại, ở phía trước ghi dòng chữ “ A message from me to you ”. Bố nói, “Cảm ơn con, hay lắm.” Và tôi hỏi, “Bố có đang nhớ mẹ không?” Im lặng. Một lúc sau bố bảo, “Mang cho bố một tách cà phê nhé!” Hôm đó chẳng giống sinh nhật tí nào, dù có thiệp mừng để trên nóc ti-vi. Bố vặn nhỏ tiếng khi chúng tôi ngồi chờ những người còn lại trong gia đình đến cùng đi thăm mộ mẹ, để tưởng nhớ ngày mẹ mất. ... Mời các bạn đón đọc Chú Chó Không Nhà của tác giả Sarah Lean.
Cây Đàn Miến Điện - Takeyama Michio
Là tác phẩm giúp Takeyama Michio đạt giải thưởng văn chương do cơ quan báo chí Mainichi trao tặng. Đây là một câu chuyện cảm động, kể về những người thanh niên thường dân Nhật biến thành lính tráng, dấn thân vào một cuộc chiến mà họ không hiểu rõ hoàn toàn, để rồi phải trải qua bao nhiêu gian truân và bi đát. Tình tiết chuyện hấp dẫn, lối kể hiện thực và lời văn đơn giản, dễ hiểu. Ba yếu tố phiêu lưu, bi đát và hài hước kết lại thành một truyện chiến tranh đặc sắc và ly kỳ. Cây Đàn Miến Điện là một câu chuyện về Đệ Nhị Thế Chiến; tuy nhiên, chủ đề của nó là chủ đề muôn thuở. Nhờ thế, với tình tiết hấp dẫn, lối kể hiện thực và lời văn đơn giản, kể từ khi ra đời, tác phẩm này đã lôi cuốn, thỏa mãn không biết bao nhiêu độc giả mà nói, ở trong cũng như ở ngoài nước. Ấy là chưa kể sự kiện nó đã được đưa lên màn ảnh và sân khấu. Như tác giả quan niệm: Chính vì thế hệ trẻ của dân tộc Phù Tang mà ông viết truyện này. Tuy nhiên, chỉ trong một thời gian ngắn, sau khi xuất bản, tập truyện đã trở nên phổ thông ngay cả trong đám người lớn và đã được dịch sang tiếng Anh - đó là bản dịch của Howard Hibbett, xuất bản ở Hoa Kỳ năm 1966. Bề mặt, Cây Đàn Miến Điện, hấp dẫn, ly kỳ, kể chuyện những người thanh niên thường dân biến thành lính tráng, dấn thân vào một cuộc chiến mà họ không hiểu rõ hoàn toàn, rồi phải trải qua bao nhiêu gian truân, bi đát, não nề. Trong tập truyện chẳng thiếu yếu tố phiêu lưu, bi đát và hài hước - cả ba kết lại tạo thành một truyện chiến tranh đặc sắc. Song lẽ, như tác giả đã nói, ông hy vọng độc giả sẽ không bắt gặp một truyện chiến tranh phiêu lưu nào khác nữa ở Miến Điện. Nếu truyện này đạt được mục đích, ít nhất nó cũng khiến độc giả suy ngẫm; như vậy tác giả lấy làm sung sướng lắm rồi. *** Takeyama Michio sinh năm 1903 và hai mươi ba năm sau tốt nghiệp đại học Hoàng gia Tokyo, chuyên về văn chương Đức. Sau một thời gian dạy học ở Tokyo, ông rời Nhật Bản qua châu Âu du học. Tên tuổi Takeyama nổi bật trong giới nhà văn Nhật Bản, sau đệ nhị thế chiến, nhờ những bài phê bình văn học đầy những nhận định xác đáng và lý luận đanh thép. Ông trở lại trường cũ năm 1949 và làm giáo sư tại đây ba năm. Ngoài ra, ông dồn hết cố gắng vào công việc dịch thuật những tác phẩm văn học Đức sang tiếng mẹ đẻ. Cuốn Cây Đàn Miến Điện (Biruma no Tategoto), xuất bản năm 1946, đã đem lại cho ông giải thưởng văn chương do cơ quan báo chí Mainichi trao tặng. *** Chắc chắn là chúng tôi đã hát rất nhiều. Dù sung sướng hay khổ sở, lúc nào chúng tôi cũng hát. Có lẽ bởi vì luôn luôn sống dưới sự đe dọa của trận mạc và chết chóc, nên chúng tôi cảm thấy ít nhất cần làm công việc duy nhất này cho thật tốt chừng nào còn sống. Dầu sao chúng tôi cũng đã đem hết sức lực và tâm hồn ra để hát. Chúng tôi thích những bài ca trang nghiêm, những bài ca ý nghĩa sâu xa chứ không phải loại bài ca bình dân tầm phào. Dĩ nhiên, đa số anh em trước kia chỉ là nông dân hoặc công nhân, nhưng chúng tôi đã cố gắng học ít nhạc đồng ca hay hay. Tôi vẫn còn nhớ lòng tràn đầy vui sướng ra sao khi chúng tôi đứng hát bên một bờ hồ. Chúng tôi đã thực hiện một cuộc di hành dài qua rừng cây rậm rạp đi xuống một thung lũng. Bất thình lình một cái hồ hiện ra trước mặt với những ngôi nhà trắng toát đứng lù lù trên bờ nước. Đó là một thôn làng, nơi ngày xưa một vị vua Miến Điện đã cất một lâu đài đá nghỉ mát. Các ngôi nhà, túm tụm vào nhau, tường quét vôi trắng, xây trên một cái vịnh nhỏ, một nửa chìm dưới sâu, đang soi bóng trên mặt nước. Những mái nhà chỏm tròn, những đỉnh tháp nhọn hoắt và những gác chuông lạ mắt đâm thẳng lên trời - bầu trời nhiệt đới chói chang. Đã có bao giờ anh nhìn thấy màu trắng đục như đá mắt mèo chưa? Vâng, bầu trời Miến Điện có đúng cái loại màu trắng ấy, đó đây lại thắm hơn vì những vệt ánh sáng lấp loáng màu ngũ sắc. Nhìn những ngọn tháp đá hoa cương theo hình trôn ốc xoắn tít lên một bầu trời như thế, anh sẽ cảm thấy như thể đang sống trong mộng vậy. Ba ngày liền đóng quân tại làng ấy, ngày nào chúng tôi cũng tập hát. Chúng tôi hát những bài đạo ca, những bài hát ngày xưa có tính cách nhớ nhà chúng tôi thích như bài Trăng Trên Lâu Đài Hoang Tàn những điệu vui vui như les Toits de Paris, và ngay cả những bài ca Ý, Đức khó thuộc. Tại đó, bên mặt hồ nên thơ ấy, đại úy vui sướng múa đũa điều khiển trong khi anh em binh sĩ chúng tôi, bị âm thanh của chính mình thốt ra lôi cuốn, say sưa hát hết bài này đến bài khác. Một hôm để chấm dứt buổi hát chúng tôi tập lại bài hát của đại đội Hanyu no Yadochia thành nhiều bè, hát đi hát lại nhiều lần. Hanyu no Yado - “Trở về Mái Nhà Xưa" - là một bài hát mong nhớ, bài hát chẳng bao giờ không làm tâm hồn chúng tôi rung động. Trong lúc hát chúng tôi nghĩ đến gia đình và ao ước có thể cho gia đình nhìn thấy cảnh đẹp này, và nghe thấy tiếng chúng tôi đang hát. Sau cùng, đại úy nói: "Được rồi, các bạn, hôm nay thế là đủ. Ngày mai, cũng vào giờ này, chúng ta sẽ tập cái gì mới. Đại đội tan hàng!" Thế rồi đại úy quay lại gọi một người trong bọn: "Ê, Mizushima, chú đã sẵn sàng phần đệm ấy chưa?" Mizushima là một trung sĩ; người gân guốc, mảnh khảnh, tầm thước, nước da hầu như đen kịt vì ánh nắng, đôi mắt sâu hoắm, to tướng, trong vắt. Trước khi gia nhập đại đội, Mizushima không được học qua nhạc nào, nhưng có lẽ anh có tài thiên bẩm vì anh tiến bộ thật nhanh, âm nhạc là đam mê duy nhất của anh; anh không nghĩ đến gì khác ngoài âm nhạc. Anh tự tay chế lấy cây thụ cầm để hòa âm theo đội đồng ca của chúng tôi, và anh chơi đàn khéo đến độ Chẳng bao lâu đã có thể đánh theo bất kỳ điệu nào chúng tôi hát. ... Mời các bạn đón đọc Cây Đàn Miến Điện của tác giả Takeyama Michio.