Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hành Trình Tới Các Cõi Bên Kia Cái Chết (Delog Dawa Drolma)

DẪN NHẬP

Khi còn là một đứa bé ở Tây Tạng, thỉnh thoảng tôi tìm thấy mẹ tôi, Delog Dawa Drolma, được vây quanh bởi những thính giả đang lắng nghe hết sức chăm chú khi bà nói về những cuộc du hành của mình tới các cõi giới khác.

Khuôn mặt bà sáng ngời khi đề cập tới các bổn tôn trong các cõi thanh tịnh; những giọt nước mắt tuôn rơi khi bà tả lại những khốn khổ của chúng sinh trong địa ngục và các ngạ quỷ (preta), hay các sinh linh đau khổ. Bà nói về sự gặp gỡ những thân quyến đã chết của những người nào đó, và bà tiếp âm từ người chết tới người sống những mối bận tâm về những công việc không ngừng dứt (có thể là những đồng tiền hay châu báu được chôn dấu mà không thể xác định vị trí) hoặc những van nài khẩn thiết xin được cầu nguyện hoặc cử hành các buổi lễ. Bà cũng đem về lời dạy tâm linh của những đạo sư (lama) cao cấp đã ra đi từ thế giới này và các đạo sư ở bờ bên đây của cái chết đã đáp lại nó bằng sự cung kính sâu xa.

Mẹ tôi được tôn kính trên khắp đất nước Tây Tạng bởi các năng lực siêu phàm như một đạo sư, nhưng bà nổi tiếng hơn vì là một delog (phiên âm theo Anh ngữ là DAY-loak), người đã vượt qua ngưỡng cửa của sự chết và trở về kể lại chuyện đó. Điều bà thuật lại không phải là một kinh nghiệm cận tử hão huyền hay nhất thời. Suốt năm ngày, bà nằm lạnh ngắt, ngưng thở và không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống, trong khi tâm thức bà di chuyển tự do tới các cõi giới khác, luôn luôn được vị thiên nữ trí huệ Tara Trắng hộ tống. Bà thực hiện cuộc du hành của mình như một delog phù hợp với các giáo huấn đã nhận từ Đức Tara trong các linh kiến, nhưng đi nghịch lại ước muốn của các đạo sư của bà, các ngài nài xin bà đừng làm một việc mạo hiểm như thế.

Đặc biệt là bà, một thiếu nữ mười sáu tuổi, có nhiều xác quyết trong sự thiền định khiến bà trổi vượt hơn các vị đạo sư hết sức uyên thâm và lớn tuổi hơn bà. Tuy thế, bản thân bà được công nhận là một hóa thân của Đức Tara Tìm mua: Hành Trình Tới Các Cõi Bên Kia Cái Chết TiKi Lazada Shopee

Trắng, một năng lực mạnh mẽ của tâm giác ngộ vì sự trường thọ và giải thoát của chúng sinh. Suốt thời thơ ấu, Dawa Drolma đã biểu lộ một lòng bi mẫn sâu xa. Không có người hành khất nào tới lều của chúng tôi mà phải ra đi không có quà tặng trên tay - gia đình tôi phải cất dấu những món quý giá kẻo bà đem cho mất.

Căn lều bằng nỉ đen của gia đình chúng tôi có thể chứa bốn trăm người trong suốt những buổi lễ lớn. Dawa Drolma được tôn kính khi được mời ngồi trên một cái ngai cùng với các lạt ma cao cấp khác, gồm cả bốn người chú của bà là những vị nổi tiếng khắp miền đông Tây Tạng. Bản thân bà là người cầu toàn trong việc cử hành nghi lễ. Vài năm trước tôi đã gặp một nhà sư, ông nhớ lại sự giận dữ của bà khi ông thổi quá tệ chiếc kangling (kèn lễ) của mình. Sự hiện diện của bà đem lại sự cẩn trọng trong từng bước nỗ lực thực hành lẫn sự nhận ra rằng bản tánh nền tảng của những bước này là giác tánh không cần dụng công.

Những giấc mơ và linh kiến của bà là những khám phá của sự chứng ngộ và chúng giúp cho kinh nghiệp delog của bà được rõ ràng đáng tin cậy trong các giáo huấn. Những e ngại của các đạo sư khẩn nài bà đừng thực hiện một cuộc du hành như thế, nhưng đúng ra là ăn chay, dùng thuốc và cử hành các buổi lễ không phải là không có căn cứ. Tuy nhiên - sau khi bà mất và đi tới cõi thuần tịnh của Đức Padmasambhava, bà gặp người chú quá cố của bà là đạo sư tôn kính Khakyod Wangpo, Ngài cảnh báo là bà sẽ gặp nguy hiểm khi ở lại và bảo bà nên trở về cõi người để làm lợi ích chúng sinh.

Sau này, khi bà du hành qua bardo, hay trạng thái trung gian giữa các chết và sự tái sinh, và tới các cõi địa ngụ và ngạ quỷ, một hóa thân của nữ bổn tôn Vajravarahi tỏ vẻ nghi ngờ việc Dawa Drolma có thể đem lại nhiều lợi lạc. “Con gái của ta, có thể con cần trở về cõi người. Nhưng… khi đã tái sinh làm một phụ nữ, con sẽ có chút uy quyền… Sẽ khó làm cho chúng sinh trong thời đại suy hoại này tin rằng những tường thuật của con là chân thực”.

Đức Tara Trắng không đồng ý với tuyên bố này, Ngài nói: “Cô ta là một nữ anh hùng với tâm hồn dũng cảm” và nói thêm rằng bà đừng nên nghe lời những ai cố gắng gây trở ngại cho bà. “Nếu cô ta trở về thế giới con người, cô ấy có thể nói rõ những chọn lựa đạo đức trong việc chấp nhận những thiện hạnh và từ bỏ các ác hạnh. Cô ấy có thể xoay chuyển tâm thức của chúng sinh hữu tình”.

Quả thực, kinh nghiệp trực tiếp về những cõi khác đã khiến cho mẹ tôi có một quyền lực âm linh vĩ đại khi bà giảng về hành vi đúng đắn và nhân quả nghiệp báo. Không ai nghi ngờ điều bà nói, không chỉ vì những đại đạo sư như Tromge Trungpa đã chứng kiến tử thi của bà trở lại cuộc đời, mà cũng bởi bà đã biết chỗ cất dấu những đồng tiền và những hành động của người đã khuất trước khi họ chết - là những sự việc mà bà không thể biết nếu không được trực tiếp cho biết bởi những người bà gặp khi là một delog. Sau này trong đời bà, một trong những người cộng tác nhiệt thành nhất của những công trình của bà là một thương gia Tây Tạng, ông ta từng là một phi hành giả cứng đầu trong vùng cho tới khi mẹ tôi gởi tới ông thông tin về số tiền chôn dấu của người chị quá cố của ông.

Ở đây, tường thuật của Dewa Drolma thì sống động như tường thuật của một du khách miêu tả một đất nước mà người ấy đã viếng thăm, tuy thế tường thuật của bà thực sự là một hành trình của tâm thức xuyên qua những sự phô diễn thanh tịnh và bất tịnh của tâm. Nó bắt đầu khi như Đức Tara chỉ dạy,

“Tôi để tâm tôi an trụ trong một tâm thái khoáng đạt và cực kỳ hỉ lạc, tôi kinh nghiệm một trạng thái hoàn toàn trong sáng… Tôi hoàn toàn tỉnh giác về trạng thái nền tảng của tâm tôi trong mọi tính chất thông thường của nó.

Bởi giác tánh đó không bị ngăn che, tôi như thể nghe được tất cả những âm thanh và tiếng nói trong mọi xứ sở, chứ không chỉ ở vùng lân cận”.

Khi sự tham luyến, sân hận và si mê thông thường của sự nhị nguyên đối tượng chủ thể hoàn toàn biến mất, ta kinh nghiệm giác tánh không bị tạo tác, trần trụi - tuyệt đối, không hai, siêu vượt ý niệm, tánh Không tràn đầy mọi phẩm tính thuần tịnh và năng lực để hiển lộ như hình tướng bất khả phân với tánh Không. Đây là Phật tánh, bị ngăn che và không được nhận ra trong tâm chúng sinh, nhưng hoàn toàn được hiển lộ nơi những bậc giác ngộ.

Để làm lợi ích chúng sinh, các bậc giác ngộ hóa hiện một cách tự nhiên các cõi của sự xuất hiện thuần tịnh, chẳng hạn như Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ của Đức Padmasambhava, Núi Potala (Phổ Đà) của Đức Avalokiteshvara và Yulokod của Đức Tara. Những hành giả đã tịnh hóa dòng tâm thức và những người đã tích tập công đức rộng lớn qua thiện hạnh của họ có thể kinh nghiệm các cõi thuần tịnh trong các linh kiến, trong các giấc mơ hoặc như mẹ tôi đã làm, như một delog. Tường thuật của bà hết sức đặc biệt trong khoa địa lý vũ trụ của nó và đầy đủ chi tiết trong sự diễn tả, tuy thế chắc chắn là những cõi giới mà bà thăm viếng là sự phô diễn tròn đầy của bản tánh tâm, được kinh nghiệm khi sự thiền định xuyên thủng những giới hạn của tri giác bình phàm.

Các cõi thuần tình là sự phô diễn của tâm, nhưng vì thế nó cũng là trạng trái bardo và sáu nơi đến của sự tái sinh. Sự khác biệt nằm ở chỗ các cõi thuần tịnh là sự phô diễn của giác tánh, trong khi sáu cõi và bardo là sự phô diễn của mê lầm và sự phóng chiếu của những độc chất của tâm. Cõi địa ngục là một phóng chiếu của sự thù ghét, sân hận và ác hạnh sát sinh; cõi ngạ quỷ, là một phóng chiếu của sự tham lam và thèm muốn; cõi súc sinh là một phóng chiếu của sự ngu si; cõi bán thần là phóng chiếu của đức hạnh bị ô nhiễm bởi sự ganh tị; cõi trời là một phóng chiếu của đức hạnh bị hư hỏng bởi sự kiêu ngạo; cõi người là một phóng chiếu của một sự hòa trộn tất cả năm độc kết hợp với đức hạnh tối thiểu để ngăn chặn việc tái sinh nơi các cõi thấp. Sự tái sinh làm người may mắn được đặt nền trên một số lượng đức hạnh rộng lớn và giúp cho ta thực hành một con đường tâm linh. Mẹ tôi thường nói: “Cho dù cuộc sống làm người của con có khó khăn tới đâu, nhưng những khó khăn ở đây không thể so sánh với những khốn khổ trong các cõi thấp”.

Loài người và súc sinh cùng sống trong thế giới này và cùng có khuynh hướng nhìn mọi sự như cái gì hết sức vững chắc, thật có. Khi cái chết chia cách tâm và thân, và lột trần sự kiên cố tương đối của sắc tướng, tâm thức trần trụi đi vào trạng thái bardo sau - cái chết. Nếu không sớm đạt được giải thoát suốt trong sự phô diễn thuần tịnh của cái gọi là bardo chân tánh của thực tại, thì tâm thức của ta bị đẩy vào bardo trở thành, sau giai đoạn này nó sẽ tái sinh ở một trong sáu cõi của sự kinh nghiệm phù hợp với nghiệp của ta.

Như thể trong một giấc mơ hay ảo giác, chúng sinh trôi lềnh bềnh trong và ngoài tri giác của Dawa Drolma như những bông tuyết. Trong chốc lát bà gặp gỡ một người quen đang chịu đựng những đau khổ ghê gớm nhất của địa ngục hay ngạ quỷ trải qua những thống khổ của sự mất mát cực độ; giây lát kế tiếp bà gặp một người đức hạnh trên đường đi tới một cõi thuần tịnh hay một chúng sinh trong cõi trời. Thỉnh thoảng, bà thấy toàn bộ đoàn người trong địa ngục hay chúng sinh trong bardo đi tới các cõi thuần tịnh, được dẫn dắt bởi một đạo sư hay hành giả vĩ đại là những người bằng năng lực của những ước nguyện vị tha của mình đã tới cứu giúp chúng sinh. Điều này thực sự có ý nghĩa khi ta cầu nguyện “xin hãy lưới vét tận đáy sâu của vòng luân hồi sinh tử và giải thoát chúng sinh”.

Dawa Drolma đối mặt với Yama Dharmaraja, Thần Chết và cùng với Đức Tara, bà đã tán thán ông ta bằng một bài ca chứng ngộ:

Nếu nhận ra được, thì chính là đây - bổn tâm của ta;

Nếu không nhận ra, đó là Thần Chết phẫn nộ vĩ đại.

Thực ra, đây chính là Đấng Chiến Thắng, Pháp Thân Phổ Hiền (Samantabhadra):

Chúng con đảnh lễ và tán thán dưới chân Dharmaraja.

Mặc dầu sự thật là, trong ý nghĩa tuyệt đối thì các cõi luân hồi sinh tử có bản tánh trống không, chỉ là những phóng chiếu của những mê lầm của tâm thức, nhưng trên bình diện tương đối, nỗi khổ mà chúng sinh phải chịu đựng thì không thể phủ nhận được. Khi Dharmaraja cùng các thuộc hạ của ông liên tục đưa ra nhiều bằng chứng thì không có sự nói dối hay giả đò nào làm giảm bớt được nghiệp quả của ta. Cuộc đời của ta trôi qua trước mắt với từng hành vi tốt và xấu được vạch rõ; những nghiệp quả phát sinh một cách tương ứng. Những mô tả ớn lạnh của Dawa Drolma về những hậu quả khủng khiếp của việc sát sinh và hãm hại người khác cảnh báo thật rõ ràng để ta tránh làm những hành động như thế. Mặt khác, những mô tả quyến rũ của bà về những cõi thuần tịnh gây hứng khởi cho ta để thực hành thiền định bổn tôn và để chứng ngộ bản tánh thuần tịnh của những phẩm tính của tâm.

Sau cái chết, ngay cả khi năng lực của nghiệp quả xô đẩy tâm thức ta tái sanh trong vòng luân hồi, nhưng nếu ta đã từng thực hành đủ tốt đẹp trước đó để có sự tỉnh giác trong việc khẩn cầu bổn tôn thiền định của ta với đức tin, thì ta tức thời tái sinh trong cõi thuần tịnh của vị bổn tôn đó.

Sau kinh nghiệm delog của mình, Dewa Drolma làm một cuộc hành hương tới Lhasa, ở đó với phối ngẫu của bà là một lạt ma cao cấp, bà mang thai tôi.

Bà sống với ông bà tôi cho tới khi tôi lên bốn, sau đó di chuyển tới Tanp’hel Gonpa, một tu viện xa khoảng một tuần trên lưng ngựa. Một ngôi nhà với quang cảnh đẹp đẽ được xây cao trên sườn núi và bà sống ở đó, được kính trọng như một đạo sư và một dakini, một hiện thân nữ của trí tuệ và hoạt động giác ngộ. Sau đó, bà sanh em gái tôi, T’hrinlay Wangmo, một đứa trẻ phi thường mà cuối cùng được công nhận là hóa thân của một yogini trí tuệ.

Em tôi và tôi, cả hai đều hoang dã và ngang ngạnh, và đôi khi tôi vẫn còn cảm thấy hối tiếc về những rắc rối mà tôi đã gây nên cho mẹ tôi. Bà không kềm chế việc sử dụng kỷ luật nghiêm khắc với tôi, nhưng bà cũng quả quyết rằng nếu tôi thực hành Pháp mạnh mẽ và với động cơ thanh tịnh thì tôi sẽ đem lại lợi lạc cho chúng sinh. Những lời khuyên dạy của bà gia hộ sâu xa cho con đường của tôi.

Bà mất năm 1941, không lâu sau khi sanh một bé trai, nó cũng chết hai năm sau. Khi mất, mẹ tôi khoảng giữa tuổi ba mươi, còn tôi thì mười một. Xác bà vẫn ở tư thế thiền định trong vài ngày, sau đó gục xuống, cho thấy tâm thức đã thoát đi. Bà được hỏa táng trên mái nhà bà. Các cầu vồng xuất hiện và năm con kên kên, mà trong Phật Giáo Kim Cương thừa là những con vật tượng trưng cho nhãn kiến siêu việt rằng bà đã trở về những cõi thuần tịnh, nhưng tôi cũng không nghi ngờ là bà cũng đã trở lại các cõi địa ngục và ngạ quỷ để cứu thoát bất kỳ ai có liên hệ với bà. Với lòng bi mẫn, bà tuyệt đối không sợ hãi.

Tôi rời Tây Tạng năm 1959, ngay trước cuộc củng cố xâm lược tàn bạo của Trung Quốc. Năm 1982, sau gần ba thập kỷ không có tin tức của gia đình, bất ngờ tôi nhận được một lá thư ngắn của người em gái, trong đó kể rằng cô có một bản sao duy nhất tường thuật delog của mẹ tôi. Điều này giống như một cái móc từ Tây Tạng thả xuống California, tuy thế tôi không thể chụp được nó mãi cho tới năm năm sau khi lập trường chính trị của Trung Quốc đã có phần mềm dẻo hơn. Sau cùng khi tôi về thăm T’hrinlay Wangmo, cô bảo tôi rằng bản văn đã từng bị tịch thu nhưng cô biết được ai lưu giữ nó.

Trong những nămg tháng khủng khiếp của cuộc Cách Mạng Văn Hóa, khi những kinh điển bị người Trung Quốc dùng làm giấy vệ sinh, cô chẳng thể làm được gì, nhưng ngay khi cảm thấy an toàn, cô đã biếu một số tiền rất lớn để có được bản tường thuật. Chỉ có vài trang bị mất.

Tôi không muốn giữ bản gốc của em tôi, nhưng người Trung Quốc ở Szechuan thủ phủ của Chengdu không cho phép tôi sao chụp nó. Hiểu rằng tôi phải lén đưa nó ra ngoài, tôi có đem sách Tây Tạng từ Hoa Kỳ về và đã liệt kê chúng trong tờ khai quan thuế. Tôi ghi thêm bản tường thuật delog vào danh mục sách của tôi không bị phiền nhiễu khi quá cảnh ở phi trường.

Vài năm sau, tôi trở về Tây Tạng để cho em gái tôi một bản sao. Tôi vẫn còn giữ bản gốc, giờ đây nó đã hơn sáu mươi tuổi, được một người sao chép ghi lại bằng chữ viết tay thật đẹp khi Dawa Drolma thuật lại tiểu sử của bà.

Có những tường thuật delog khác - một trong số đó là tường thuật khá nổi tiếng của nữ hành giả Delog Ling Zha Chhodron. Thư viện tác phẩm và văn khố Tây Tạng ở Dharamsala có ít nhất là một tá cuốn. Các delog thì thường là phụ nữ; một số xuất hiện như những cư sĩ bình thường, nhưng chính kinh nghiệm là một dấu hiệu của sự chứng ngộ thiền định vĩ đại, vì thế thực ra các ngài không thể là những người bình thường. Những tường thuật của các ngài làm tăng thêm lòng tin của mọi người nơi giáo lý của các đạo sư về các cõi hiện hữu vô hình.

Tôi không rõ có những tường thuật nào khác từng được dịch ra các ngôn ngữ Tây phương không. Tôi thật may mắn có mối liên hệ với dịch giả tuyệt hảo Richard Barron (Chokyi Nyima) và chủ bút rất có năng lực Mary Racine, họ đã cho ra đời bản dịch Anh ngữ tường thuật của Dawa Drolma. Richard Barron chịu trách nhiệm về các chú thích cuối mỗi chương. Mặc dù các chương được viết với ba cõi thuần tịnh ở phần đầu rồi tới cõi bất tịnh nằm trong chương thứ tư, nhưng nội dung của bản văn dường như chỉ ra rằng cuộc du hành không được biểu lộ ra theo thứ tự khi xuất bản ở đây: Núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ, các cõi bất tịnh, núi Potal và yulokod. Chương cuối cùng, được con trai tôi là Jigme Tromge Rinpoche đem từ miền đông Tây Tạng tới Hoa Kỳ năm 1994, là một tóm lược mà chính yếu là những kinh nghiệm của Dawa Drolma trong các cõi bất tịnh. Để bản Anh ngữ dễ đọc, hơn là một bản dịch sát nghĩa và chính xác, bản văn là một dịch phẩm bằng văn xuôi có phần uyển chuyển của nguyên bản Tây Tạng được viết bằng thể thơ. Sự phiên âm ngữ âm học của cấu trúc ngôn ngữ Tây Tạng được dựa trên một hệ thống mà nhà xuất bản Padma sử dụng.

Kinh nghiệm delog thì phi thường, kỳ diệu, ngay cả trong phạm vi bí truyền của các phái Kim Cương thừa của Phật Giáo Tây Tạng. Tuy thế, tường thuật của Delog Dawa Drolma có năng lực và sự gần gũi của kinh nghiệm trực tiếp và tôi tin rằng những ai đọc nó sẽ nhận ra rằng các hiện tượng của các cõi giới thì tương ứng với những khía cạnh kinh nghiệm của bổn tâm họ.

Cầu mong những nhắn ngủ của bà truyền cảm hứng cho sự thành tựu tâm linh tối cao; cầu mong những nhắn nhủ ấy đưa dẫn bất kỳ ai đọc chúng tới những tịnh thổ của các Đấng Chiến Thắng.

CHAGDUD TULKU

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hành Trình Tới Các Cõi Bên Kia Cái Chết PDF của tác giả Delog Dawa Drolma nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Phép Xuất Hồn (Đỗ Thuần Hậu)
..."Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật - Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi "Huyền Quang khiếu" để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát"... ĐỖ THUẦN HẬU..."Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành"......"Trong câu chuyện "Mơ duyên quái mộng" Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc "Hồn và Vía" gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa "Tiên Đồng" và " Ngọc Nữ" là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy."... Cư Sĩ Nguyễn Xuân LiêmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Phép Xuất Hồn PDF của tác giả Đỗ Thuần Hậu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Phép Xuất Hồn (Đỗ Thuần Hậu)
..."Chỉ khi nào xuất hồn ra khỏi bản thể, nhập vào cỏi vô-vi mới học được Đạo của Tiên Phật, chớ ở cỏi trần loạn động và ô trược nầy làm gì học được Đạo thanh tịnh vô-vi của Đức Phật - Hồn là một luồng điển chủ chốt trong bản thể, khi được thanh lọc và tập trung đúng mức thì sẽ khai phá nổi "Huyền Quang khiếu" để vượt ra khỏi ngục tù trần thế, gọi là giải thoát"... ĐỖ THUẦN HẬU..."Cụ Đỗ Thuần Hậu dùng một lối văn tiểu thuyết, nhưng kỳ thật là để nói rõ sự huyền bí trong việc tu hành"......"Trong câu chuyện "Mơ duyên quái mộng" Cụ Đỗ Thuần Hậu thuật lại lúc "Hồn và Vía" gặp mhau khắng khít tiền duyên, hai đàng triếu mến nhau, khuyến khích nhau trên đường công phu tu luyện. Thật là lương duyên tiền định giữa "Tiên Đồng" và " Ngọc Nữ" là cặp vợ chồng thiêng liêng mà người thế thường cho là sống đồng tịch đồng sàng, thác đồng quan đồng quách là vậy."... Cư Sĩ Nguyễn Xuân LiêmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Phép Xuất Hồn PDF của tác giả Đỗ Thuần Hậu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Phật Miền Tây (Tuệ Chiếu)
MỤC LỤC 1- Cảnh chùa Tổ Đình Thành-Hoa 2- Mục lục 3- Lời mở đầu CHƯƠNG I: Nhận thức và sưu tầm Tìm mua: Phật Miền Tây TiKi Lazada Shopee Thời gian trước và sau 1975 CHƯƠNG II: Miền Tây thiên nhiên ưu đãi dân lành 1- Sơ lược lịch sử thời Lập Quốc và Kiến Quốc 2- Sơ lược ba miền của nước Việt Nam và dân cư 3- Cửu Long giang với Miền Tây Nam 4- Cửu Long Giang và vùng Thất Sơn huyền bí CHƯƠNG III: Phật Thầy Tây An I- Bối cảnh lịch sử Việt Nam lúc bấy giờ 1- Phật Thầy Tây An ra đời 2- Phật Thầy Tây An cứu dân độ thế 3- Phật Thầy Tây An Khai Đạo 4- Phật Thầy Tây An bị ám hại và thử thách 5- Phật Thầy được sắc phong và dựng chùa 6- Chùa Tây An cổ tự ở Long Kiến Chợ Mới 7- Chùa Tây An núi Sam 8- Trại ruộng ở Thới Sơn và những Đại Đệ Tử 9- Căn bản giáo lý của Phật Thầy II- Phật Thầy chuyển kiếp 1- Phật Trùm ở Tri Tôn 2- Đức Bổn Sư ở núi Tượng 3- Sư Vãi bán khoai kinh Vĩnh Tế 4- Đức Huỳnh Giáo Chủ làng Hòa Hảo * Phụ dẫn chuyện Bệnh Đàng Dưới CHƯƠNG IV: Phật Tổ ở Cà Mau 1- Đời sống của Ngài trước khi tu hành 2- Cơ duyên lành đến 3- Hành trì theo Kinh 4- Cứu nhân độ thế 5- Thời kỳ viên tịch 6- Vua Thiệu Trị sắc Tứ CHƯƠNG V: Phật sống chùa Phi Lai, núi Kỳ Hương 1- Sơ lược bối cảnh lịch sử 2- Thời Thanh niên của Tổ 3- Thời xuất gia 4- Tinh tấn hành đạo và hoá đạo của Ngài 3- Những điều kỳ diệu của Ngài CHƯƠNG VI: Phật sống chùa Minh Bửu 1- Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ 2- Lúc thiếu thời của Ngài 3- Xuất gia và hành đạo 4- Thọ Pháp và vào Đại Định 5- Chín năm khổ hạnh và nhiều thử thách gay go 6- Những người đệ tử đầu tiên 7- Những thử thách khác 8- Đắc Đạo và giáo hóa 9- Những điều kỳ diệu khó quên 10- Những vị đại đệ tử 11- Lập thêm chùa mới 12- Lịch sử xây chùa Thành Hoa ở Tấn Mỹ 13- Những chuyện người thường ít ai biết 14- Ngài thường dạy phải nói những lời lành 15- Thời kỳ Ngài viên tịch CHƯƠNG VII: Những Vị Tăng Ni Bồ Tát 1- Bối cảnh Lịch sử từ năm 1954 đến 1975 2-Ni sư Năm chùa Minh Bửu ở Cao Lãnh 3- HT.Thích Thường Huệ ở Hội An 4- HT. Thích Thiện Thành ở Mỹ Luông CHƯƠNG VIII: Những Vị Cư Sĩ Bồ Tát 1 - Ông Hai Long Hầu 2- Ông Mười Tân Châu 3- Chuyện Kỳ lạ: “Cháu nhớ rước ông...” 4- Cậu đừng ăn thứ này nữa 5- Cậu Ba núi Sập PHỤCHƯƠNG 1- Thiền sư Minh Không Quốc Sư đời nhà Lý 2- Tổ trị bệnh vua bằng nuớc đang sôi. 3- Tổ dạy đúc đồ đồng Việt Nam 4- Tổ dạy dân nuôi bèo dâu bón lúa 5- Một Thiền sư được thờ hơn một trăm đền và có những ngày Lễ Hội về Ngài trong các làng suốt ba ngày.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Phật Miền Tây PDF của tác giả Tuệ Chiếu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Phản Bội Chính Mình Và Quy Trình Chữa Lành (Julien Blanc)
THẾ NÀO LÀ PHẢN BỘI CHÍNH MÌNH. Tất cả chúng ta đều sống theo kiểu làm vừa lòng ngươi khác, không chỉ riêng những người luôn luôn nói lời đồng ý, những người lúc nào cũng tỏ ra tốt bụng, luôn nói có, hay chỉ biết ẩn mình hoặc luôn luôn bất đồng ý kiến. Tất cả chúng ta đang đeo mặt nạ từ nhỏ đến lớn để mà làm người khác vừa lòng, để mà được xã hội chấp nhận, để không bị đào thải, để mà sinh tồn. Vậy chúng ta là ai sau cái mặt nạ ấy? Cái bạn cần nhận ra “ cái mặt nạ tốt bụng” đấy là không thật tâm, nó xuất phát từ sự sợ hãi, nó nảy sinh từ sự tiêu cực, và nó tiếp diễn sự tiêu cực trong con người của ban. Một con người luôn tỏ ra lịch sự liệu thực tâm họ có lịch sự hay lịch sự chỉ vì sợ => đây là cách sống phản ứng lại vấn đề, Tìm mua: Phản Bội Chính Mình Và Quy Trình Chữa Lành TiKi Lazada Shopee Hãy buông bỏ cảm xúc kiểu phản ứng, bạn sẽ cảm nhận được lần đâu tiên sự tốt bụng đến từ thực tâm, bạn sẽ cảm giác được truyền cảm hứng để là người tốt, không còn PHẢI CỐ để là người tốt nữa. Xin đừng để ý đến sự tốt bụng, hãy quan tâm tới việc thực tâm. Người ta thà nhận sự từ chối từ người thực lòng còn hơn sự đồng ý từ cái mặt nạ giả tạo. Bạn thấy đó hàng ngày, ngoài xã hội hai cái mặt nạ tương tác với nhau là chuyện bình thường. Nếu bạn chân thành một chút thôi, bạn sẽ cảm nhận không khí trong lành hơn hẳn, hãy hạ màn diễn, vứt cái mặt nạ đi, hãy thôi cái niềm tin bạn sẽ không bao giờ gây ra lỗi với người khác như kiểu “ Tôi sẽ không để ai buồn” => mọi mối quan hệ của bạn không phải lúc nào cũng tốt, và điều đó là chuyện bình thường. Bạn nên cảm thấy ổn đôi khi gặp sự bất đồng ý kiến, điều quan trọng là ý định đằng sau những gì bạn thể hiện có tốt hay không? Ta không đồng ý với người khác nhưng ý định đằng sau đó là chê bai họ, hay đơn giản chỉ là ý tốt. Tập trung vào cái đó, cái ý định ban đầu của bạn. Ngày còn bé thơ, bạn buồn, bạn chạy đến nói với mẹ bạn: “ Mẹ ơi, con buồn quá “. Mẹ quát ngay: buồn cái gì mà buồn, chán cái gì mà chán… Bạn chạy vào trong góc, và không bao giờ thể hiện mọi cảm giác của mình nữa, mọi cảm xúc bạn thể hiện ra bên ngoài đều bị người khác từ chối. Bạn đè nén cảm xúc của mình, bạn cảm thấy người khác mới có quyền bày tỏ. bạn cảm thấy bản thân mình không quan trọng Bạn nghĩ mọi người sẽ không quan tâm tới những gì bạn cảm thấy, những gì bạn sẽ nói ra. Tại sao bạn cảm thấy như vậy? Tại sao và tại sao? Bạn có bao giờ tự hỏi mình chưa? Đây toàn bộ là cảm xúc của những người chỉ muốn làm hài lòng người khác, bạn đeo mặt nạ lên là bạn đang từ chối chính mình. Từ chối mãi, không dừng, bằng cách tự nói với mình rằng: bản thân mình không quan trọng, và đặt người khác trước bản thân, rằng người khác hạnh phúc, thì bạn sẽ hạnh phúc. Bạn quan tâm quá nhiều về cái nhìn của mọi người. Thế những gì đang xảy ra trong bạn thì sao? Bạn mặc kệ nó, bạn nghĩ nếu tôi cần một ai đó và cần sự công nhận của họ thì ắt hẳn TÔI PHẢI LÀM HỌ VUI, PHẢI LÀM HỌ VỪA LÒNG.Còn cái cảm giác thật của bạn thì bạn lờ đi, bạn kìm nén nó trong một thời gian dài, lòng tự tôn của bạn sẽ không còn nữa khiến bạn nghĩ rằng bản than mình là không quan trọng. Bạn tạo ra một cái vòng lẩn quẩn không lối thoát, và đây là lúc bệnh trầm cảm sinh ra. Trong đời mình, phần lớn khi mình nói ra cảm xúc nỗi buồn của mình, tất cả mọi người xung quanh bạn sẽ nói: “ Không sao đâu, mọi thứ ổn mà, có gì đâu mà buồn” và nghĩ người ta sẽ thoải mái khi được an ủi như vậy Thực tế nó chỉ làm cho cảm xúc mình tệ thêm. Hãy để ý những lần tới khi bạn tương tác với người thân hoặc bạn bè mình, bạn nói như trên thì không đúng đâu bởi vì bạn đang làm họ cảm thấy BẤT ỔN khi cảm nhận cảm xúc buồn CỦA MÌNH. Điều chúng ta cần nhất những lúc buồn là có ai đó bên cạnh và chấp nhận cái nỗi buồn ấy, ở cùng ta và cùng nỗi buồn ấy thay vì cho rằng phải vui lên, cảm nhận nỗi buồn ấy là không tốt. Đúng hơn là, cảm nhận nỗi buồn là chuyện bình thường, cho phép bản thân cảm nhận mọi cảm xúc của mình là chuyện hoàn toàn ổn, và tôi sẽ ở đó chia sẻ cùng bạn. Có nhiều người tương tác xã hội theo cách luôn cố tỏ ra cool bề ngoài để mọi người chấp nhận và bỏ quên sự chân thật, Luôn lo lắng mình nói vậy có ổn không ta, có hợp không, có hài hước không? ® Để thay đổi điều này bạn cần mang sự thật bên trong của mình ra bên ngoài bằng cách nói ra cái tiếng nói thực sự trong đầu của bạn, Ví dụ: nếu bạn hết chuyện để nói, điều tốt nhất bạn nên làm là: “ tôi chẳng biết nói gì cả, tôi chuẩn bị thật nhiều nhưng không biết nói gì?... Bạn cứ nghĩ rằng người ta sẽ chê cười bạn, nhưng thực sự đó là cái chân thât => đó là cái mặt nạ cần được gỡ xuống, Ngay khi bạn nói bạn ngại, người khác thấy bạn ngại, điều nay còn tốt hơn nhiều khi bạn giấu nhẹm cái ngại đấy đí, phản hổi bạn nhận được bên trong mình là that „s ok => Giây phút đó là giây phút bạn nhận ra sự thịnh vượng đang ở trong bạn bằng cách chấp nhận bản thân, chấp nhận những gì trong nhận thức lẫn cả vô thức ( tiềm thức), chấp nhận những gì bạn đang trải nghiệm và cảm thấy chứ không phải tự bảo mình là không nên thế này, không nên thế khác… rồi lại đè nén. ® Hãy nhắm mắt lại và hồi tưởng khoảnh khắc mà bạn mở lòng, có ai đó đã chê cười những gì bạn nói, những gì bạn cảm nhận, họ nói điều đó là không bình thường, cảm nhận những cảm xúc của bản than mà bạn đã bị chối từ. Có thể lúc đó bạn đã buồn, đã quê, thậm chí căm ghét bản thân. Bạn nghĩ rằng mình không nên cảm giác như vậy: “ tại sao thôi lại cảm thấy tệ như vậy chứ?” => Hãy để tình huống ấy xảy ra trong đầu bạn một lần nữa, hãy hồi tưởng lại những rung động trong cơ thể. Bạn cảm nhận bạn sợ hãi, tức giận, bất kể cảm xúc gì, đưa cảm xúc vào cơ thể hiện tại vào lúc này. Bạn thấy đau đớn, bị phản bội, buồn bã, ngượng ngùng, ngu ngốc, căm ghét bản thân, dằn vặt bản thân, hãy nhập vào cảm giác ấy. Giờ ta bắt đầu nhận thức lại vấn đề, đem nhận thức tới khoảnh khắc ấy. Nếu cảm thấy sự khó chịu thì hãy cảm nhận sự khó chịu đó, có mặt với sự khó chịu, chỉ cần cho phép bản thân cảm thấy khó chịu, đừng gượng ép bản thân, ngưng việc lờ đi sự khó chịu ấy, ngưng lại việc lờ đi, hãy cảm nhận nó. Hãy đẩy cảm xúc mình lên và đưa nó về ánh sáng của sự chấp nhận, không còn đè nén=> bạn đang fleeing nó, có feeling là có healing, đó là cách bạn đang chữa lành cho chính mình. “ Có một điều còn đau đớn hơn khi người khác từ chối con người thật của bạn đó là khi người ta thích cái con người giả tạo của bạn, khi bạn đeo mặt nạ, khi họ ngày càng đồng ý với cái nỗi đau bên trọng bạn, cùng cố giúp bạn giấu cái nỗi đau nó càng trầm trọng hơn, với tôi điều đó thật sự tệ hại. Không chỉ dừng lại ở đó, ví dụ bạn có được nhiều sự công nhận đi, điều gì xảy ra sau đó? Thế giới của bạn sẽ là thế giới 2 mặt vì người ta có thể công nhận bạn, thì người ta có thể từ chối bạn => sẽ tồn tại một sự sợ hãi KHI CỨ PHẢI CỐ ĐỂ MÀ không bị từ chối. “ Họ chấp nhận tôi hiện tại nhưng liệu vài phút nữa họ có chấp nhận tôi không?” “ Làm sao để tôi giữ được sự công nhận đó trong ngày mai” Đó là một cuộc đua không điểm dừng của con người trong xã hội hiện tại, và bạn không bao giờ tới đích, cuộc đua này giết chết lòng tự tôn của bạn, khiến bạn căm ghét bản thân bạn và căm ghét người khác. Bởi bạn bỏ công sức để làm vừa lòng người khác nhưng họ không đáp trả lại, bạn sẽ bực tức “ bà này thật là, má thằng đó…” Rồi lại: ôi không, tôi không nên nghĩ như thế, rồi lại đè nén, tạo nên cái uất cho mình => đây là lý do nhiều người hành xử mất kiểm soát khi kìm nén quá lâu. Hãy học cách buông bỏ, nhận ra những tương tác trước đây của bạn là giả tạo, để có một mối quan hệ lâu dài vì nếu không sẽ chẳng tới đâu cả, vì không có sự thân mật, mọi người không biết con người thật sự của bạn là ai, ví dụ như lúc nào cũng không có chính kiến, kiểu mọi thứ họ thích tôi cũng thích theo, thực tế là bạn đang như một cái bản sao của họ vậy, sẽ rất chán khi một người phải chơi hoặc cưới với một bản sao của mình, và họ thực sự muốn biết dưới cái mặt nạ kia bạn là ai, chẳng ai muốn một người dễ dãi, người ta muốn một người bạn thật sự, nếu có sự nhàm chán cô đơn, kiểm soát sẽ chẳng tồn tại sự tin tưởng nào bởi vì điều đó bạn lại đi căm ghét bản thân rồi lại ghét người ta, rồi ôi thôi cái vòng lẩn quẩn của cái kén ngột ngạt. (Julien Blanc)Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Phản Bội Chính Mình Và Quy Trình Chữa Lành PDF của tác giả Julien Blanc nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.