Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa - K. G. Paustovsky

K.G. Paustovski (31/5/1892- 14/7/1968) là nhà văn Nga rất nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ẩn đằng sau vẻ băng giá bên ngoài, Konxtantin Paustovski sở hữu một tâm hồn Nga tuyệt đẹp với trái tim cháy rực lửa yêu thương. Ông biết rung cảm sâu sắc với cảnh đẹp thiên nhiên và sự hồn hậu của những con người không chỉ của nước Nga mà cả những nơi ông đã đi qua. Hai tập truyện ngắn Bông hồng vàng và Bình minh mưa của Paustovsky mang đến cho độc giả những cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng, một thế giới thanh bình yên ả trước thế chiến thứ II, thế giới của những con người nước Nga bình dị, đôn hậu và lóng lánh chất thơ. Những truyện ngắn như: Tuyết, Chiếc nhẫn bằng thép, Bức điện, Trái tim nhút nhát… được Paustovski diễn đạt bằng lối văn chương giản đơn, dịu dàng như con trẻ, tác giả đã thể hiện được những tình cảm dung dị nhất: tình cảm giữa cha mẹ với con, tình yêu đôi lứa, tình làng nghĩa xóm… của con người nước Nga những năm đầu thế kỷ trước. Bông hồng vàng và bình minh mưa khiến bạn đọc phải giật mình và tự hỏi: thật sự trên đời này vẫn còn những câu chuyện kỳ diệu như thế? Thông qua tác phẩm, Paustovski nhắc nhở chúng ta về những điều đẹp đẽ, những niềm hạnh phúc nhỏ nhắn mà chúng ta đã bỏ quên hay xem như xa xỉ trong cuộc sống vội vã của mình.   *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva - tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng... Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị..., tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. °°° Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev. Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát. Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư". Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác. Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn thành phố này từ đấy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva. Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye. Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau". Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin... Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư. Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời. Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau". Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng". Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm... Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết". Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ. Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống[2]. Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. °°° Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: "Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn". Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn - trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem - tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại "Chú Bé Chăn Bò", "Gió Biển", "Chuyến Xe Đêm", "Người Đầu Bếp Già"... Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người - nhân vật chính - mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái "hư" trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: "Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi". "Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu". "Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi". "Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó." Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự - một bầu trời sống - với muôn vàn vì sao lấp lánh. "Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó". Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài "Những Kẻ Lãng Mạn", "Những Vầng Mây Lấp Lánh", mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: "Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng"... "Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế"... "Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống "thô thiển" và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn... Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn ". Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng "hiện thực xã hội chủ nghĩa" muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp[3]. Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài "Thơ Của Văn Xuôi" đăng trong tạp chí "Ngọn Cờ" (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. "Bông Hồng Vàng" ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí "Tháng Mười"(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết ("Bông Hồng Vàng" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương "Ngôn Ngữ Kim Cương" và "Những Cuốn Từ Điển". Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu... của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong "Bông Hồng Vàng", sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch "Bông Hồng Vàng", tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Chú thích:[1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan [2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố mang tên Konstantin Pautovsky. [3] “Lời Nói Đầu” này được in trong lần xuất bản thứ nhất của bản dịch “Bông Hồng Vàng”. Lần xuất bản thứ hai nó bị bỏ đi, liên quan đến việc tên người dịch bị cấm. Trong lần xuất bản này có một số sửa chữa nhỏ. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nói Luôn Cho Nó Vuông
Sau thành công rực rỡ của Cư xử như đàn bà suy nghĩ như đàn ông, Steve Harvey - tác giả thông thái kiêm ngôi sao hài kịch đã cho ra đời thêm một cuốn sách nữa. Nói luôn cho nó vuông làm sáng tỏ câu hỏi từng khiến nhiều phụ nữ đau đầu: "Rốt cuộc trong các mối quan hệ, đàn ông thực sự nghĩ gì?" Cách viết nhẹ nhàng của đã giúp cuốn sách thoát khỏi sự nhàm chán của những lời khuyên khô khan. Nhiều khả năng, độc giả sẽ có cảm giác như đang ngồi trước một chương trình truyền hình trực tiếp, lắng nghe, đặt câu hỏi với Steve rồi gật gù trước những câu trả lời. Chẳng có người đàn ông nào hoàn hảo nhưng chúng ta buộc phải thừa nhận rằng, rất có thể hành trình tìm kiếm, thấu hiểu và giữ chân người đàn ông của cuộc đời mình sẽ trở nên dễ dàng và thú vị hơn! *** ĐƠN GIẢN QUÁ HÓA PHỨC TẠP Xưa, tôi có xem một chương trình hình như Giọng hát Việt hay gì đấy kiểu thi thố về ca hát. Tôi nhớ một buổi thi giám khảo Thanh Lam đã phê bình cô ca sĩ nọ vì chọn bài hát không đúng tuổi. Tôi không nhớ chính xác từ Diva dùng là gì nhưng tôi hiểu ý là bài hát quá dừ với người thi, dù cô thể hiện nó không tệ. Thế là cô thí sinh này đốp chát lại, tôi cũng không nhớ nguyên văn, đại ý là ca khúc được sáng tác không giới hạn độ tuổi người hát. Lúc ấy tôi nghĩ giám khảo không sai mà thí sinh cũng chẳng đúng. Âm nhạc thế mà văn chương cũng vậy. Chỉ cần biết chữ và muốn, ai cũng có thể đọc Nói luôn cho nó vuông. Thế nhưng tôi nghĩ nó dành cho đối tượng độc giả nữ phải có ít nhiều trải nghiệm với người khác phái. Tất nhiên bạn dễ dàng có được suy luận này của tôi bằng cách đọc lời giới thiệu nhưng tin tôi đi, vì tôi là phụ nữ đã kết hôn vừa tiếp xúc Steve Harvey. Những quyển sách khác, nếu không hợp với độ tuổi, kiến thức hay trải nghiệm... thì ít nhiều bạn cũng sẽ thu lượm được gì đó, không cái này thì cũng cái kia. Còn Nói luôn cho nó vuông với những hiểu biết về bản chất đàn ông sẽ dễ là sáo rỗng, nếu bạn chưa nếm qua họ. * Một, ít khi nào tôi thấy sự ngắn gọn mà súc tích lại phát huy hiệu quả cao như trong câu trả lời của Steve Harvey với khán giả: Điều gì khiến đàn ông hạnh phúc? Steve Harvey trả lời: Bánh quy. Đơn giản. Hiển nhiên. Luôn luôn. Hài hước. Nghiêm túc. Mọi sắc thái này đều được gợi lên bởi tên gọi nghe vào rất ngọt tai kia. Bánh quy là gì? Là một thuật ngữ của tác giả. Tôi không định giải thích nghĩa của nó vì có thể các bạn đã biết, còn nếu chưa, hãy để đầu óc của bạn bay lượn. Tôi định nói là tôi khá sốc. Anh bạn của tôi bảo rằng, khi đàn ông đối diện phụ nữ, điều họ nghĩ đến đầu tiên là hình ảnh cô ấy xoay quanh cái giường. Hai quan điểm này là một đi. Nhưng với anh bạn, tôi cho rằng đó là quan điểm của cá nhân anh ấy. Còn với Harvey, tôi có cảm giác quan điểm này bị đánh đồng cho hầu hết đàn ông, thậm chí với tác giả thì tuyệt đối là tất cả họ. Lại nói về giọng điệu của tác giả khi nâng quan điểm từ cá nhân ông lên số đông. Thường, tôi không thích cái gì tuyệt đối cả, và tôi tin là không có gì tuyệt đối hết. Nhưng Harvey hết lần này đến lần khác làm tôi không có thiện cảm. Ông thường xuyên khẳng định bản chất nọ kia của đàn ông không dừng ở số đông mà là tất cả. Tôi không nghi ngờ gì lời của một người đàn ông nói về suy nghĩ, quan điểm, bản chất... của chính đàn ông. Đó như thể họ phơi nội tâm mình trên bàn giải phẫu mà pháp y không ai khác ngoài họ. Còn gì chân thật hơn thế? Nhưng tôi vẫn cứ không tin ở giá trị tuyệt đối mà tác giả thường nhấn mạnh. * Hai, tôi nghĩ mình đến với Steve Harvey hơi trễ, tuy rằng nếu có sớm hơn thì cũng chưa chắc đúng thời điểm nữa. Không có đứa trẻ nào phải lớn lên mà không có một người cha trong gia đình, và một phần thiên tính trong bản năng người mẹ của bạn là muốn con cái mình được sống trong một gia đình nguyên vẹn nếu đây là sự lựa chọn sau cùng. Điều này thật đáng giá. Nhưng có đáng chăng khi đứa con của bạn thấy mẹ nó lúc nào cũng sống trong khổ sở? Ai sẽ được lợi nếu bạn tất bật với công việc nấu nướng, dọn dẹp, nuôi dạy con, và chỉ nhận lại những đau khổ và thất vọng, chứ không phải những gì bạn muốn và cần? Liệu có tốt cho tất cả nếu con bạn không biết đến yêu thương và lòng kính trọng là gì? Tôi thậm chí còn nghe phụ nữ nói rằng vì lợi ích của con cái, họ đơn giản sẽ chỉ chịu đựng cuộc sống chung được thu xếp ấy cho đến khi bọn trẻ tốt nghiệp, sau đó thì họ sẽ ra đi. Hạnh phúc mà phải chờ đợi như thế thì lâu quá. Nhiệt thành tán đồng quan điểm trên của ông! Tôi không chê trách gì quyết định của những ông bố bà mẹ ở vào hoàn cảnh này. Đó là cuộc sống của họ và tôi hay bất cứ ai cũng đều không có quyền phán xét. Nhưng nếu là họ, tôi không nghĩ mình đủ kiên trì với một gia đình như thế, và ngược lại, một gia đình như thế không đáng để tôi hy sinh. Tình thương mà chúng ta thường cho rằng sẽ bị thiếu hụt nếu vắng bóng người cha trong gia đình có thể được bù đắp bằng nhiều cách thức lạc quan và hiện đại, cho dù vợ chồng có không còn đầu gối tay ấp. Nhưng chẳng gì có thể hâm nóng tình cảm hai trái tim đã nguội lạnh, kể cả những nụ cười tràn ra khóe mắt của con cái. Mà tôi thì cho rằng, hạnh phúc gia đình chỉ được xem là chân thật khi vợ chồng cảm thấy hạnh phúc vì có người kia ở bên (không phải lấy hạnh phúc của con cái thay vào, đó là lấp liếm). Vì vợ chồng là khởi nguyên của gia đình. Thử nghĩ mà xem, nếu vợ chồng tôi vui vẻ với nhau nhưng con cái lại không ngoan ngoãn thì có dễ sống hơn là con cái vui vẻ (?) nhưng vợ chồng tôi lại hục hặc lẫn nhau? Thật thì cũng khó đưa ra đánh giá đấy nhưng may thay chúng tôi dễ buồn vu vơ mà cũng chóng vui với những điều vụn vặt. * Ba, có ngược đời không khi tôi chưa đọc Cư xử như đàn bà, suy nghĩ như đàn ông nhưng đã đến với Nói luôn cho nó vuông? Cũng chẳng ai bắt tôi phải đọc quyển thứ nhất của ông trước mà, phải không? Nhờ thế tôi đã không chán ngấy mỗi khi Harvey nhắc đến tựa sách Cư xử như đàn bà, suy nghĩ như đàn ông suốt cuốn Nói luôn cho nó vuông. Chỉ là tôi biết ông đã lặp ý ít nhiều so với cuốn trước. Tự nhiên tôi nhớ đến Vô cùng tàn nhẫn, vô cùng yêu thương. Trong quyển này, Sara Imas đã lặp ý rất rất nhiều giữa các phần. Đành rằng nhắc đi nhắc lại thế cũng có tác dụng giúp độc giả ghi nhớ ít nhiều nhưng cũng đồng thời khiến quyển sách dày hơn mức cần thiết. Và Nói luôn cho nó vuông như chính tên của nó, hẳn chỉ là bổ khuyết của Cư xử như đàn bà, suy nghĩ như đàn ông? * Tóm lại, quyển sách giúp bé gái, cô gái, người đàn bà(1) hiểu hơn về nửa kia (chưa tìm được hoặc tìm được rồi hoặc đã mất). Còn tôi, đọc xong chẳng hiểu thêm được mấy tí ngoài kinh nghiệm đã có: Đàn bà phức tạp nên khó hiểu thì cũng chịu đi. Đàn ông đơn giản thế mà cũng chả dễ hiểu đâu mấy mẹ ạ, bằng không, người ta xuất bản sách viết về họ làm quái gì. ____ (1) Bé gái, cô gái, người đàn bà: Tên một tác phẩm của T. M. Koxtưgova, R. I. Rakitina với nội dung về sự phát triển tâm sinh lý và thể chất từ khi bé gái mới sinh đến lúc là cô gái, là người đàn bà. *** Review sách: Nói luôn cho nó vuông - Steve Harvey Giáng sinh Gấu ko đi chơi ở nhà đọc sách viết review cho các bạn nà ???????? Đây là quyển thứ 2 của Steve Harvey mà mình đọc rồi vì thấy khá thích lối viết của ông ý trong Cử xử như đàn bà Suy nghĩ như đàn ông. Cách viết ở quyển này vẫn ko đổi, vẫn là những mẩu chuyện nhỏ ví dụ trong đời sống để ta thấy được những điều mà có thể chúng ta đều đã gặp, đều đã thấy nhưng chưa thể nói ra thành lời hoặc 2 giới ko thực sự chia sẻ với nhau do những sự khác biệt về giới tính. Thêm vào đấy thì mình thích cách viết của Steve ở 2 điểm: hài hước và rất tôn trọng phụ nữ. Sách của ông có 1 phần nội dung chỉ ra cái sai của phái nữ, đôi lúc nêu ra thói xấu của phái nữ nhưng lại rất nhẹ nhàng, ko tạo ra cảm giác chối bỏ và tự vệ khi bị nói xấu. Nội dung của cuốn này về 1 vài khía cạnh nào đó thì hay và thực tế hơn cuốn trước. Nếu như ở Cư xử như đàn bà Suy nghĩ như đàn ông nói về những gì cô gái cần biết và cần làm để có thể chọn đc người đàn ông tốt, giữ được hôn nhân hạnh phúc, nghĩa là hướng về hôn nhân nhiều hơn thì Nói luôn cho nó vuông có vẻ hướng về phụ nữ trẻ nhiều hơn. Mình thấy thế vì trong sách đề cập tới cả những mối quan hệ và những khái niệm mới mẻ đang dần trở nên phổ biến gần đây như ONS, FWB hay Sugar daddy và sugar baby. 1 Điều mình khá bất ngờ khi đọc sách của ông là tuy trông ông có vẻ ko đc đứng đắn cho lắm (maybe vì dáng vẻ, vì bộ râu, và vì ông đã ly hôn 2 lần) nhưng thật sự ông là người rất tôn trọng phụ nữ và đề cao người phụ nữ truyền thống (mình cảm nhận thế). Ông khuyên các cô gái phải cẩn thận với những thằng ctrai đầy kĩ năng trực chờ ở ngoài để lừa bạn cho chúng ăn bánh quy. Ông chỉ thẳng ra bản chất thật sự của mấy mối quan hệ toxic trên khi mà xã hội bh giường như đang có vẻ che bớt đi sự xấu xí của chúng và vẽ ra những cái tên, những định nghĩa bắt tai cho chúng. Câu mình thích nhất trong chương nói về cái này là "Not all daddies are always sweet as sugar" :)). Đó là phần mà mình thích nhất nên là nhớ nhất, ngoài ra sách còn viết về suy nghĩ và tư duy về yêu đương của đàn ông ở các độ tuổi, được viết ra bởi 1 người đã trải qua hầu hết các nấc thang trong cuộc đời nên cũng khá thú vị. Thêm vào đấy thì phần ko thể thiếu trong sách của Steve đó là nhắc lại những điều các cô gái luôn biết nhưng nhiều khi (cố tính hoặc vô tình) quên (hoặc ko thèm để tâm tới) trong khi lại thật sự cần nhớ. Nói chung đây là 1 cuốn sách khá ổn về tâm lý mà ko bị học thuật quá, ko bị sáo rỗng quá (vì thật sự mình thấy khá đúng) mà lại đủ vui để giải trí. Bạn nào mùa đông này mà chưa có gấu để đi chơi có thể nằm nhà đọc sách này thẩm thấu để ủ mưu năm mới có ny nha ???????????????? Score: 9/10 Mời các bạn đón đọc Nói Luôn Cho Nó Vuông của tác giả Steve Harvey.
Anna và Nụ hôn kiểu Pháp - Stephanie Perkins
Tên eBook: Anna và nụ hôn kiểu Pháp (full prc, pdf, epub) Tác giả: Stephanie Perkins Thể loại: Lãng mạn, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Người dịch: Thanh Trúc Kích thước: 14.5 x 20.5 cm Số trang: 432 Ngày xuất bản: 16/05/2014 Giá bìa: 99.000 ₫ Công ty phát hành: Thái Uyên Nhà xuất bản: NXB Lao Động Chụp pic: sundaefruit Type   koi_fish: 1-9 canmoon28: 10-20 dungntk54: 21-33 Meobongxu87: 34-hết  Beta: hoahanhanh Làm ebook: Dâu Lê Nguồn: luv-ebook.com Giới thiệu    Anna, một nữ sinh trung học người Mỹ đã "bị" bố mẹ gửi sang Paris để học năm cuối Trung học sau bao nỗ lực cầu xin ở lại không thành. Bị ép phải xa nhà, ép phải đến Paris, Anna không ngờ rằng mình lại bị Paris hút hồn đến thế. Paris hút hồn Anna bởi cảnh vật và con người nơi đây quá đỗi tinh tế, ngọt ngào; bởi những rạp chiếu phim kinh điển có nhiều không kể xiết; bởi những món bánh trứ danh không thể tuyệt hơn; bởi những người bạn mới thật tốt bụng, chân thành. Và còn bởi nơi đây có Etienne St. Clair, một chàng trai mang trong mình dòng máu cả Anh và Mỹ. St. Clair khác biệt và quyến rũ. Cậu khờ dại và đầy đam mê. Cậu làm cho con tim Anna thổn thức và trao cho Anna nụ hôn đúng chất Pháp say đắm, ngọt ngào...   Top 100 sách cho teen hay nhất đến nay do Đài phát thanh Mỹ NPR bình chọn.   Top 2 tiểu thuyết hiện thực cho teen hay nhất do thành viên Goodreads.com bình chọn. ***  “Rất tinh nghịch. Rất hóm hỉnh. Rất lãng mạn. Bạn nên ‘hò hẹn’ với cuốn sách này”   - Maureen Johnson, tác giả của những đầu sách bán chạy nhất New York Times.   “Perkins đã viết nên cuốn tiểu thuyết đầu tay đầy mê say với các nhân vật tươi mới và dí dỏm”   - School Library Jounal   “Nhân vật phong phú, tình huống thông minh, cuốn sách chắc chắn sẽ khiến bạn đọc say mê”   - Romantic Times Book Review  ***  Tác giả Stephanie Perkins   Sinh ra ở miền . Trước khi trở thành nữ nhà văn nổi tiếng của dòng lãng mạn đương đại, bà đã từng đi bán sách rồi làm một thủ thư. Dù mới viết được ba cuốn tiểu thuyết Anna and the French kiss (Anna & nụ hôn kiểu Pháp), Lola and the boy next door, Isla and the happily ever after, nhưng bà đã được bạn đọc vô cùng yêu mến bởi giọng văn trữ tình trong sáng vừa sâu sắc vừa hóm hỉnh, kết hợp với những tình tiết vừa bất ngờ vừa đáng yêu. Mời các bạn đón đọc Anna và Nụ hôn kiểu Pháp của tác giả Stephanie Perkins.
Kho báu của Các Hiệp Sĩ Đền Thờ - Steve Berry
Tên eBook: Kho báu của các Hiệp sĩ đền thờ Tác giả:  Steve Berry  Thể loại: Best seller, Tiểu thuyết, Phiêu lưu, Văn học phương Tây Nhà xuất bản:  Nxb văn học  Nhà phát hành:  Võ Thị  Khối lượng:  720.00 gam  Kích thước:  16x24 cm Ngày phát hành:  11/2007 Số trang:  588 Nguồn: Hoa Quân Tử - fb.com/nhut.huynhminh.129 Giới thiệu: Dòng tu cổ của Hiệp Sỹ Đền Thờ sở hữu một kho báu vô kể và một quyền lực tuyệt đối trên cả các vị vua và các Đức giáo hoàng. Khi bị đưa ra xét xử ở toà án Dị giáo vào thế kỷ XIV, họ bị xoá sổ, và những của cải của họ cũng biến mất.  Nhưng giờ đây, hai thế lực đang ganh đua để giành kho báu, và họ cũng nhận ra rằng không chỉ có của cải như họ từng nghĩ, mà kho báu kia cũng còn chứa đựng một "bí mật lớn" có thể khiến cả thế giới hiện đại choáng váng. Cotton Malone, một thời từng là đặc vụ cấp cao trong Bộ tư pháp Mỹ, đang tận hưởng một cuộc sống mới thanh bình của người buôn bán sách cũ ở Copenhagen, Đan Mạch. Nhưng rồi một tình huống nguy hiểm bất ngờ ập đến, khơi dậy bản năng hành động sẵn có và lôi anh trở lại với cái thế giới của các thế lực đen tối mà anh ngỡ đã bỏ lại sau lưng. Stephanie Nelle, cựu chỉ huy của anh, đến Đan Mạch với một mục đích đặc biệt và bị một kẻ lạ mặt giật mất chiếc túi xách khi đi trên đường phố. Khi biết mình đang nắm giữ những đầu mối quan trọng dẫn tới một loạt những câu đố đã tồn tại từ hàng thế kỷ bị phân tán rải rác khắp châu Âu, Stephanie quyết định sẽ khám phá điều bí ẩn đã ám ảnh các học giả và những kẻ săn lùng kho báu từ nhiều năm nay, bằng cách tìm ra chốn truyền thuyết đó, nơi cất giấu của cải và những "Bí mật lớn" tưởng như đã mất theo Dòng tu các Hiệp sỹ Đền Thờ từ thế kỷ XIV. Cùng với tham vọng tìm thấy món quà của lịch sử, một kẻ cuồng tín giấu mặt - Robert de Roquefort, cùng với đám sát thủ của y - đã bằng mọi thủ đoạn liều mạng chiếm đoạt những tài liệu quan trọng trong tay Stephanie. Dẫu được hoan nghênh hay không, cotton vẫn lao vào cuộc tìm kiếm, mặc cho những bất hòa nảy sinh trong suốt cuộc đua nguy hiểm này. Nhưng, càng hiểu thêm về những âm mưu xa xưa xung quanh các Hiệp Sỹ Đền Thờ, anh càng nhận ra rằng điều gì đó còn lớn hơn những sinh mạng đang bị lâm nguy. Kết thúc trò chơi chết người trong cuộc chinh phục kho báu mà ở đó, đầy rẫy những mưu mô, sự phản bội, những tham vọng quyền lực đớn hèn, là một khám phá gây chấn động có thể làm rung chuyển thế giới văn minh đương đại và khiến các thế lực đen tối phải quỳ gối. Một cuốn tiểu thuyết hoàn hảo cho các fan thích đọc chuyện ly kỳ cũng như chuyện lịch sử. Cốt truyện hoang đường lắt léo. Và hơn hết, còn có một "bí mật lớn" mà những kẻ truy tìm kho báu lẫn các học giả nhiều thời đại đều bị ám ảnh phải khám phá đến cùng, một bí mật có thể làm rung chuyển thế giới văn minh đương đại. Bằng lối kể chuyện cuốn hút, ngôn từ giản dị mà tài tình, nhà văn Steve Berry đã khôn khéo dẫn dắt người đọc đi hết từ bất ngờ này đến ngạc nhiên khác, và dâng tặng độc giả một kết thúc hoàn toàn thoả mãn. Ông xứng danh là tác giả best-selling trên toàn thế giới do tờ New York Times danh tiếng bình chọn. Mời bạn đón đọc Kho báu của Các hiệp sĩ đền thờ của tác giả Steve Berry.
Người Tử Tù
Tựa gốc: A Tale of two cities Phiên dịch: Thái Bìng Dương Bản dịch khác của Đăng Thư: Hai Kinh Thành Sách bảo Anh-Mỹ hiện nay có rất nhiều. Tuy nhiên ngoại trừ mốt số người có một trình độ Anh Văn khá, phần đông độc giả người Việt, nhất là giới học sinh, vẫn còn bở ngỡ, ngại ngùng khi đọc một cuốn tiểu thuyết hoặc một tờ báo Anh ngữ. Lý do chính là sự thiếu ngữ vựng và thành ngữ để có thể hiểu nghĩa một cách thấu đáo và mau chóng, Với dụng ý góp một phần nhỏ trong việc giải quyết vấn đề nói trên, chúng tôi cho ra đời loại sách song ngữ nầy. Chúng tôi chủ tâm dịch sát nghĩa để quí vị độc giả có thể đối chiếu một cách dể dàng bằng Việt văn và bản Anh văn. Tuy vậy để bản dịch có hành văn Việt Nam chúng tôi đã bỏ đi hoặc thêm vào một vài từ ngữ cần thiết. Những chuyện dịch về loại này, chúng tôi đều chọn những bản đã thu ngắn và dể đọc của những tác giả thuộc chương trình của ban trung học đệ nhị cấp để các bạn học sinh ban chuyên khoa có thể, với một quãng thời gian tương đối ngắn, có một khái niệm về những tác phẩm của các tác giả có trong chương trình học. Chúng tôi sẽ tiếp tục phiên dịch những chuyện hay của những nhà văn hiện kim Anh-Mỹ với mục đích cung cấp cho quí vị độc giả những tinh hoa văn chương nước ngoài. TÁC GIẢ   *** NGƯỜI CHẾT PHỤC SINH Một buổi chiều tháng mười một năm 1775 trong phòng giải lao của khách sạn “Hoàng Gia” ở Đa Vân có hai người khách: một người đàn ông trạc độ 60 tuổi, bận y phục màu xám, cách phục sức rất đứng đắn, trên đầu mang một mớ tóc giả ngắn, và một thiếu nữ trạc độ 17 tuổi vận y phục lữ hành, nàng người nhỏ và xinh xắn, mắt xanh, tóc vàng óng ánh. Người đàn ông là ông Lưu Kỳ, chủ ngân hàng có văn phòng ở Luân Đôn và Ba Lê hiện có rất nhiều khách hàng người Pháp. Người thiếu nữ là nàng Liễu Chi, sanh tại Pháp Quốc, mồ côi cả cha lẫn mẹ, trước đây đã từng học tại Anh Cát Lợi (England) dưới sự chỉ dẫn của ông Lưu Kỳ. Ông Lưu Kỳ nói: - Liễu Chi, sở dĩ bác bảo cháu tới đây là vì bác có câu chuyện đặc biệt quan trọng cần nói cho cháu rõ. - Dạ, bác đã bảo cháu là phải sẵn sàng chịu đựng mọi sự kink ngạc, cháu xin vâng lời, vậy bác cứ nói. - Câu chuyện này có liên quan tới ba cháu. Để bác kể lại từ đầu cho cháu nghe. Ba cháu trước đây là một bác sĩ Pháp nổi tiếng mà cũng là một khách hàng của bác ở Ba Lê. Ba cháu kết hôn với một thiếu nữ người Anh tức là má cháu, và như là cháu đã biết đấy, má cháu mất năm cháu mới lên hai. Trước khi qua đời, má cháu căn dặn rằng chỉ nên bảo cho cháu hay là ba cháu cũng đã quá cố. Thực ra thì ba cháu chưa chết, ba cháu chỉ bị giam cầm một cách oan ức tại Ba Lê mà thôi. Ngày ấy không ai biết đích xác ba cháu bị giam ở chỗ nào mà cũng chẳng nhận được tin tức gì về ba cháu cả, mãi đến bây giờ mới biết là ba cháu còn sống và đã được phóng thích sau 18 năm vòng lao lý. Tên của ba cháu chìm sâu vào trong sự lãng quên của người đời thì ngày nay, ba cháu lại xuất hiện. Chắc ba cháu đổi thay nhiều lắm, có lẽ đau ốm cũng nên. Hiện giờ ba cháu đang ở với người lão bộc tại Ba Lê và bác sắp đưa ba cháu trở về Anh Cát Lợi. Lúc này mà tính chuyện rửa hận để minh oan cho ba cháu thì chưa thể được, vừa vô ích mà lại còn nguy hiểm là đằng khác. Nhưng kìa Liễu Chi cháu làm sao đó? Từ nãy, nàng Liễu Chi càng nghe chuyện lại càng xúc động rồi ngất đi. Ông Lưu Kỳ vội gọi người tới vực nàng dậy và người nhũ mẫu của nàng là chị Bột liền chạy tới săn sóc nàng. Ông Lưu Kỳ để mặc người nhũ mẫu trông nom nàng và đi lo thu xếp cuộc hành trình ngày hôm sau. *** Review tama: Hơn một trăm năm sau khi cách mạng tư sản thành công, nước Anh bước vào thời đỉnh cao của cách mạng công nghiệp, trở nên bá chủ thế giới. Cùng lúc đó, bên kia biển hẹp, không khí cách mạng sục sôi rộng khắp, một thể chế già cỗi dần đi đến hồi kết, nước Pháp đang thay da đổi thịt. Giữa cơn tao loạn, người chết tái sinh từ lãng quên, mang theo nỗi ám ảnh trải khắp hai kinh thành - một câu chuyện sống động, một ví dụ xuất sắc thể hiện sự bất toàn trong nhân cách con người, và cũng chính vì lẽ đó, nó mô tả vẹn toàn bức tranh nhân loại. Có thể nói quyền thống trị là một yếu tố quan trọng bậc nhất định hình xã hội loài người. Theo bước tiến văn minh, chúng ta tạo ra vô số công cụ - mà thường hiện diện dưới vỏ bọc đạo lý, tư tưởng - để kiềm toả chính mình, bằng cách này hay cách khác, nhằm duy trì lợi ích của một thiểu số nắm giữ quyền lực. Đến thời điểm nhất định nào đó, khi thế cân bằng bị phá vỡ, cách mạng tất xảy ra. Cách mạng sinh ra bởi ý chí, và từ trong cách mạng, vỏ bọc bị xoá bỏ, bản chất nguyên thuỷ được hé lộ. Về điểm này, nữ công dân Defarge là sáng tạo tuyệt vời của Dickens. Ra đời từ hận thù và được cách mạng nuôi dưỡng, bà Defarge như một quả bom hai màu xanh đỏ, nhập nhằng giữa tình yêu nước và hận thù mù quáng. Bà ta đe doạ nổ tung bất kỳ lúc nào bà ta muốn, rồi cuối cùng cũng nổ, kéo theo nhiều cái chết khác. Defarge đại diện cho những gì u ám nhất của cuộc cách mạng, cho những điều không ai muốn xảy ra nhưng đã xảy ra theo những cách không ngờ nhất, cho bóng tối thẳm sâu trong tâm hồn con người. Nhưng chớ hiểu lầm, không phải toàn bộ là bi kịch. Với Dickens, ánh sáng và bóng tối luôn song hành. Nếu chết chóc thường trực quanh Defarge, thì Lucie toát lên hào quang cứu rỗi. Nếu hận thù kéo Defarge xa khỏi cõi người, biến bà ta thành cỗ máy giết chóc thì tình yêu của Lucie giúp cha cô vượt qua cơn loạn trí, trở lại làm người. Nếu Defage gieo nỗi kinh hoàng với mỗi đường len, thì bên ngoài nhà giam, Lucie ươm mầm hy vọng. Sự hiện diện của Lucie mang lại cân bằng đáng kể cho Hai kinh thành. Trước bản tính lương thiện của cô, quyền lực của Defarge dường như không thể thắng được, không phải bởi cái ác yếu kém, mà bởi lòng thiện tâm lan toả của Lucie. Sydney Carton, dù bất hạnh, nhưng là minh chứng rõ nhất ảnh hưởng của Lucie. Dưới con mắt của Dickens, một người chỉ sống ở London thời điểm mấy chục năm sau ngày phá ngục Bastille, những nguyên nhân sâu xa của cách mạng Pháp và triều Bourbon mục ruỗng không được thể hiện trọn vẹn trong Hai kinh thành. Tuy vậy, nhờ điều đó, chúng ta không bị chính trị làm sao nhãng, không quá sa vào nghị trường rối ren, mà vẫn cảm nhận được tinh thần cách mạng trong từng trang sách. Điều này, đến lượt nó, tạo thuận lợi giúp cho ta nhìn nhận toàn diện bức tranh tự sự cùng chân dung nhân vật. Do đó, những người khó tính nhất vẫn có thể có phần cảm thông với Defarge và cả những người dễ tính nhất có thể không đồng tình với Lucie ở vài điểm nhỏ nhặt. Sự bất toàn đẹp như vậy đấy. Charles Dickens đã có lý khi nói Hai kinh thành là áng văn hay nhất của ông. Tác phẩm được viết rất khéo léo, không kém phần khôn ngoan và hài hước. Muôn tầng ý nghĩa được truyền đạt thành thạo đồng thời Hai kinh thành xây dựng hàng loạt nhân vật hành xử kỳ quặc nhưng cũng rất mực hợp lý và thông qua những nhân vật này, ý chí tác giả len lỏi khắp câu chuyện. Ở Hai kinh thành, Dickens không chủ tâm viết một tiểu thuyết dài dòng, khó hiểu hay phức tạp. Nó đơn giản là tiếng nói cuối đời của ông được cô đọng trên giấy, vì thế, muốn hiểu Dickens, nhất định phải đọc Hai kinh thành. Ngày nay, lúc văn học đã đi đến hậu hiện đại, không phải ngẫu nhiên mà Hai kinh thành vẫn giữ được sức hút của nó. Vào những ngày trống trải, khi đã quá chán ngấy thế giới lung lay mơ hồ, quá đau đầu vì thời gian phi tuyến tính, quá hụt hẫng với những kết mở ngày càng phổ biến, hay đơn giản quá mệt mỏi để suy nghĩ, hãy quay về văn học kinh điển như Hai kinh thành. Vào những ngày ấy, hãy đọc Hai kinh thành không phải vì kinh điển, mà vì sức cám dỗ trên bề mặt con chữ của nó; hãy để dòng tự sự thuần tuý là động lực duy nhất thúc đẩy ta lật từ trang này sang trang khác, cho đến hết mới thôi. *** Charles John Huffam Dickens sinh năm 1812 tại Portsmouth, Anh quốc. Ngay từ khi còn nhỏ ông đã phải làm việc vất vả để giúp gia đình. Cuộc sống khổ cực trong nhà máy và những khu phố nghèo đã giúp ông hình thành tư tưởng cho nhiều tác phẩm nổi tiếng về sau. Được xem là tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng nhất thời nữ hoàng Victoria, sự nghiệp văn chương của Dickens đầy ắp các tác phẩm, các bài báo và rất nhiều buổi diễn thuyết thành công, trong đó tiêu biểu là Oliver Twist (tiểu thuyết, 1837-1839); Nicholas Nickleby (tiểu thuyết, 1838-1839); Bài ca lễ Giáng sinh (truyện vừa, 1843); David Copperfield (tiểu thuyết, 1849-1850); Kỳ vọng vĩ đại (tiểu thuyết, 1860-1861)... Nhiều cuốn sách của ông đã được chuyển thể thành phim, kịch, nhạc kịch, hoạt hình... và đến nay các phiên bản mới vẫn tiếp tục ra đời. Dickens mất năm 1870 tại hạt Kent, Anh quốc. Một số tác phẩm của tác giả Charles Dickens được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Hồn ma đêm giáng sinh (Bài Ca Mừng Giáng Sinh) Chuyện Vặt Ông Pickwick Oliver Twist David Copperfield Hai Tòa Tháp (Người Tử Tù) Những Kỳ Vọng Lớn Lao ... *** Mời các bạn đón đọc Người Tử Tù của tác gải Charles Dickens.