Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tiểu Long Nữ - Nguyễn Huy Thiệp

Tiểu thuyết là một thể loại văn học đặc sắc có cả ở phương Đông lẫn phương Tây. Tiểu thuyết văn xuôi có ở Việt Nam xuất hiện vào khoảng thời gian đầu thếkỷ ~ khi mà chữ quốc ngữ bắt đầu đuởc phổ biến. Nhiều nhà nghiên cứu văn học coi Hoàng Ngọc Phách, tác giả của tiểu thuyết "Tố Tâm" (xuất bản năm 1925) là người đầu tiên viết tiểu thuyết ở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có ý kiến bác lại, cho rằng tiểu thuyết ở Việt Nam có sớm hơn (khoảng trong những năm Đại chiến thế giới thứ nhất) và những tiểu thuyết đó ra đời đầu tiên ở Nam Bộ. Lỗ Tấn (nhà văn lớn Trung Quốc) khi trích dẫn lời người xưa cho rằng "nhà tiểu thuyết gom góp những câu nói vụn vặt, những mẩu chuyện vụn, lấy thí dụ gần đó để làm ra những cuốn sách ngắn, gọn, tuy vậy cũng có thể lấy đó để răn mình, sắp xếp việc nhà". Những nhà tiểu thuyết đầu tiên ở Trung Quốc phần lớn "thuộc dòng phái sinh ra tử các chửc quan nhỏ, sách họ làm là do câu chuyện đường phố, lời nói ngõ làng, vào lỗ tai ra lỗ miệng mà tạo ra". Trong biển cả tiểu thuyết mà các "nhà văn" sáng tác ra (khái niệm "nhà văn" là một khái niệm chỉ những người viết hư cấu, "bịa đặt" - chữ của Nguyễn Công Hoan - hẳn cũng chỉ là một khái niệm mới, ở ta từ thế kỷ XIX về trước không có) bao gồm đủ mọi thử chuyện ái, ố, hỷ, nộ trên đời: Tính chất thị phi, không tin cậy khiến người ta thậm chí nghi ngờ tư cách của chính những người viết ra nó. Trong câu trích dẫn trên đây từ sách của Lỗ Tấn ("Sơ lược lịch sử tiểu thuyết Trung Hoa") tôi đặc biệt chú ý đến chi tiết người viết tiểu thuyết ("nhà văn' ) đều là "các chức quan nhỏ'? Vì sao lại thế? Các chức quan nhỏ từ xưa tới nay phần lớn đều nghèo, họ thuộc bậc thang thấp nhất trong giới quan trường nhưug lại đứng đầu trong "bọn thảo dân". Địa vị "trung dung" không cao, không thấp "chân không đến đất, cật không đến trời", cộng với sự rỗi hơi trong công việc khiến họ có thể có nhiều cơ hội "nắm thông tin" trong thiên hạ nhiều hơn những người ở tầng lớp khác. Chữ nghĩa đầy mình cũng chẳng làm gì, thời gian nhàn rỗi cũng chẳng làm gì… Vậy thì tôt nhất ngồi viết tiểu thuyết. Trong quan niệm của tôi, truyện ngắn là một thể loại viết khó hơn tiểu thuyết nhiều. Nó là một thứ "luyện công" cho nghệ thuật viết văn, là một thử mỹ nghệ kim hoàn đòi hỏi tinh vi, khéo léo và "bác học". Tiểu thuyết tạp hơn, có thể viết "tất tay" và không phải tôn sức nhiều như truyện ngắn. Đương nhiên, đây là tôi muốn nói đến những nhà văn có tài Trời cho thực sự, họ hoàn toàn có thể viết những tiểu thuyết (đọc được, không cầu toàn lắm vì thể loại tiểu thuyết không đòi hỏi cầu toàn) dễ dàng như "thò tay vào túi lấy đồ vật, Nhiều cuốn tiểu thuyết người ta chỉ viết trong vòng một tháng. Tôi cũng đã từng có cơ hội làm việc như vậy (tiểu thuyết "Tuổi 20 yêu dấu" viết trong một tháng và viết tiểu thuyết "Tiểu long nữ" trong 15 ngày). Tôi nghĩ rằng ở những nhà tiểu thuyết "đại hiệp" như Kim Dung thì việc viết ra "Tiếu ngạo giang hồ, "Thiên long bát bộ" v.v… chắc có lẽ cũng không mất nhiều công sức cho lắm. Nhà văn Nguyễn Việt Hà (sinh năm 1962 ở Hà Nội) quan niệm khá chính xác về sự "bừa", hồn nhiên, ôm đồm và trần tục của tiểu thuyết. Xét về khía cạnh nào đó, tiểuthuyết có lẽ không phải là một thể loại "đứng đắn" nếu nhìn bằng con mắt nghiêm khắc của các học giả "đại thuyết". "Tiểu thuyết - sách mua vui" cần phải được các nhà văn ở ta nhận thức ra và quan niệm lại (ít nhất cũng giống như những nguởi "cổ xưa"), nhu thế thì "chữ nghĩa mới tuôn ra trên đầu ngọn bút như nước chảy" được. Trong nhiều năm nay, rất tiếc giới nghiên cứu lý luận văn học ở ta và các nhà phê bình văn học thuộc môn phái "hành quyết" đã đặt vào tiểu thuyết nhiều rào chắn quá, khiến cho các nhà văn thực sự muốn viết cũng sợ hãi không dám viết tiểu thuyết. "Tiểu long nữ" là một cuốn tiểu thuyết thời sự. Nó được viết ra từ một chuyện nhảm nhí và tôi nghĩ cũng không phải khó khăn gì mấy (nó không bõ để tôn sức). Thực ra, ý nghĩa của nó cũng chỉ để mua vui và kiếm tiền. Có lẽ bởi vậy nó sẽ gần với quan niệm của các nhà tiểu thuyết "đại hiệp" như Tản Đà, Lê Văn Trương, Hồ Biểu Chánh… ở ta ngày xưa chăng? Nguyễn Huy Thiệp *** Trong nhà Chi. Trên chiếc ghế xa-lông rách, Thúy Vinh ngồi nép vào một góc sợ hãi. Bà Dung ôm Chi ngồi ở ghế, Chi vẫn nước mắt sụt sùi. Khôi ra treo tấm biển: "Nghỉ không bán hàng" rồi khép cửa lại đi vào. Khôi đi đi lại lại trước mặt ba người. Khôi ra rút soạt con dao bầu lăm lăm trong tay. Khôi dừng lại trừng mắt hỏi Chi: - Thế hiếp dâm mày nó là thằng nào? Chi sợ hãi chỉ Thúy Vinh. Chi nhìn con dao trên tay Khôi, khiếp đảm: - Con không biết… Bố hỏi chị ấy! Khôi quay sang Thúy Vinh, uy hiếp. Khôi dứ con dao trước mặt Thúy Vinh: - Nó là thằng nào? Nói! Thúy Vinh sợ hãi, lắp bắp: - Ông ấy… Ông ấy là Nguyễn Quốc Lương, một quan chức bự… Khôi cười nhạt: - Thế thì nó là một thằng có tóc… Được rồi! Tóm thằng có tóc không ai tóm thằng trọc đầu! Tốt lắm! Thế thì tốt lắm! Thế thì nó chết đầu nước với tao… Tao sẽ cho nó đi tù phen này… Thế mày quen nó lâu chưa? ... Mời các bạn đón đọc Tiểu Long Nữ của tác giả Nguyễn Huy Thiệp.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chỉ Một Lần Yêu - Bà Tùng Long
Khi được tin Sơn bị thương ở mặt trận Tây Nam, Tuyết lo lắng đứng ngồi không yên:  - Không biết anh bị thương ra sao, có hề gì không, đang nằm điều trị ở đâu? Tuyết hồi hộp chờ Lan, em gái Sơn, đem tin về cho Tuyết biết nơi Sơn nằm điều trị là Tuyết sẽ xin phép cha mẹ đi thăm Sơn. Tuyết cho đó là bổn phận mà mình phải làm. Người ta không quen nhau, chưa có cảm tình với nhau, mà các em gái hậu phương còn đem quà ủy lạo các thương binh nằm ở Quân y viện, thì lẽ nào Tuyết lại làm ngơ khi nghe Sơn bị thương? Tuyết và Sơn là bạn học từ khi còn ngồi "ê, a" trên ghế trường làng. Tình bạn thời thơ ấu đã đưa họ đến tình yêu khi cả hai khôn lớn. Biết bao lần Tuyết và Sơn bàn đến chuyện tương lai, hy vọng được cha mẹ chấp thuận để tình yêu họ được kết thúc bằng một đám cưới. Nhưng rồi cũng như bao thanh niên khác trong khi nước nhà có chuyện binh đao, Sơn nhập ngũ đi làm nghĩa vụ đối với Tổ quốc và Tuyết ở nhà đỡ đần cha mẹ, may vá thêu thùa chờ ngày Sơn hoàn thành nghĩa vụ trở về. Hai năm nay, cha mẹ Tuyết nhiều lần khuyên Tuyết nên lập gia đình có nhiều người đến dạm hỏi, nhưng Tuyết vẫn một lòng chờ đợi Sơn. Cha mẹ Tuyết cũng biết Tuyết đã yêu Sơn nên không muốn lấy quyền làm cha mẹ ép buộc Tuyết phải quên Sơn. Bà Hương, mẹ của Tuyết, không khỏi ái ngại cho con gái. Thêm một năm trôi qua là bà thêm sợ Tuyết phải ế ẩm hoặc dở dang. Bà thường nói:  - Đời con gái như cánh hoa sớm nở tối tàn, khi còn hương sắc thì o­ng bướm dập dìu, nhưng đến khi hoa phai phấn lạt thì biết tìm đâu ra người yêu thương mình? Tuyết không nghĩ vậy. Tuyết tin ở tình yêu của Sơn, một mối tình dệt những mười mấy năm, ngày tháng chỉ làm thêm bền chặt chứ không thể làm phai lạt. Tuyết thuộc hạng người yêu chỉ một lần, vì thế dù phải đợi Sơn đến bao giờ, Tuyết cũng đợi được. Những ngày được về phép, Sơn đến thăm Tuyết và nhắc Tuyết lời hẹn ngày nào. Sơn luôn giữ gìn cho Tuyết, lúc nào cũng yêu thương trong sự tôn trọng, quý mến. Sơn nói với Tuyết:  - Anh phải giữ cho em là vì đời lính không có gì chắc chắn. Nếu mai đây anh có bề gì thì em vẫn còn được tấm thân trong trắng để về với người chồng sau này. Như thế anh sẽ không ân hận... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Một Lần Yêu của tác giả Bà Tùng Long.
Đời Con Gái - Bà Tùng Long
Mười hai tuổi, Xuân Lan bắt đầu nhận thấy mình không được yêu thương như các anh chị em khác trong nhà. Mẹ Xuân Lan, bà Phương, dường như ghét bỏ nó. Chỉ có cha và chị Mai Lan, người chị đã đi tu, con riêng của bà Phương với chồng trước, là thương con bé. Những buồn tủi, nghi ngờ trong Xuân Lan lớn lên cùng với sự bất hòa, hục hặc trong gia đình, để rồi khi tất cả bùng nổ đã hé lộ bí mật đầy trái ngang, tội lỗi về sự ra đời của con bé. Đời con gái chỉ cần được yêu thương, nhưng yêu thương cũng chính là nguồn cơn bất hạnh… *** Xuân Lan bắt đầu hiểu chút ít về chuyện đời và nhận xét những sự việc xảy ra trong gia đình từ khi lên mười hai tuổi. Năm ấy nó thi đậu vào lớp đệ thất trường Gia Long, một trường nữ trung học lớn nhất ở miền Nam. Trong khi nó đậu thì Ngọc Hương, chị nó, lớn hơn nó một tuổi, lại rớt và phải ghi tên học ở một trường tư. Vì lẽ ấy mà sự thi đậu của nó không được gia đình đón tiếp một cách vui vẻ. Nó đậu không ai khen, không ai mừng, trái lại cha nó, mẹ nó, các chị nó đều thương Ngọc Hương vì không may bằng nó. Xuân Lan biết suy nghĩ từ lúc đó. Tại sao cũng là con mà nó lại không được yêu thương như các chị nó? Tại sao mỗi sáng chủ nhật, trong khi cha mẹ nó và các chị các anh, cả mấy em nữa, đều được lên chiếc xe sang trọng để đi Thủ Đức, hoặc về quê hay ra Vũng Tàu đổi gió, thì nó lại được mẹ dặn: – Con ở nhà trông nhà nhé. Chóng ngoan mẹ về sẽ thưởng. Khi mọi người đi rồi, chị bếp, người giúp việc trung thành của gia đình, đã nhìn nó với tối mắt đầy thương xót, rồi lắc đầu nói một mình: – Tội nghiệp con bé! ... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Đời Con Gái của tác giả Bà Tùng Long.
Lầu Tỉnh Mộng - Bà Tùng Long
Lầu tỉnh mộng là câu chuyện mang nhiều ý nghĩa về tình yêu, cuộc sống hôn nhân – gia đình. Lấy bối cảnh ngôi nhà mang tên Lầu Tỉnh Mộng ở vùng cố đô Huế. Gia đình bà Hoàng là một gia đình giàu có, có gốc gác hoàng tộc. Nhưng ngôi nhà ấy không sang trọng, xa hoa mà chứa đựng sự đói nghèo, kham khổ của bà Hoàng và bốn con gái cùng niềm mong mỏi đứa con trai duy nhất đang du học bên trời Tây. Vì bản di chúc kỳ lạ mà gia đình bà phải sống trong đói rách, khó nghèo dù di sản để lại rất lớn. Bức di chúc ấy muốn được đảm bảo bằng tình yêu chân thành, không vụ lợi bằng chính những kinh nghiệm về cuộc đời của người ông quá cố. Bản di chúc ấy cũng cho ta thấy một gia đình có nguồn gốc quyền quý trong cơn nghèo khó họ sống và đối xử với nhau như thế nào. Một người mẹ hết lòng vì con cái, không nỡ để các con cực khổ kiếm sống nhưng cũng chỉ bất lực ngồi nhìn; Mỹ Kim xấu hổ, bực bội vì cái nghèo, Lan Chi thì tìm quên trong những trang sách, Bích Diệp mơ mộng theo làn khói thuốc lá, chỉ có Bích Ngọc là chấp nhận cái nghèo, cố gắng để lo lắng, quán xuyến cho cả gia đình...  Câu chuyện cũng là những bài học về tình cảm nam nữ, vợ chồng đầy ý nghĩa, mang đậm phong cách Á Đông. Đó là những ước vọng tình yêu không vụ lợi, không phân biệt sang hèn; là sự thấu hiểu, tin tưởng, chung thuỷ và đức hy sinh cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam sống ở thời phong kiến và đất nước đang mở cửa cho những nền văn hoá, tư tưởng mới từ phương Tây du nhập. Qua chuyện tình của Bích Ngọc và Ấm Mạnh, của Lan Chi và Thiện, rồi tình cảm vợ chồng qua bao nhiêu thử thách của Bích Ngọc và Huyện Tích… tác giả đã khẳng định những đức tính cao quý của người phụ nữ Việt Nam, về luật nhân quả, yêu thương ở đời. Bằng lối viết văn xưa mộc mạc, giản dị, những tình tiết không gay cấn, căng thẳng mà thắt nút mở nút nhẹ nhàng, không hấp tấp vội vàng cũng khồng rề rà, kể lể. Lầu Tỉnh Mộng giúp ta thức tỉnh một cơn mộng về cuộc đời, về tình yêu và cuộc sống, để biết trân trọng những giá trị cao quý của tình cảm gia đình, cuộc sống hôn nhân và tin tưởng vào những điều tốt đẹp của tình yêu. *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Lầu Tỉnh Mộng của tác giả Bà Tùng Long.
Duyên Tình Lạc Bến - Bà Tùng Long
Hai anh em sinh đôi. Một ngoại hình. Hai tính cách. Dẫn đến hai cuộc đời đối lập. Và giông tố cũng từ đây nổi lên khi một dòng nước lạc tìm cách chen vào một bến đỗ đã bình yên. *** Chiếc xe nhà của ông Đại, giám đốc hãng Hồng Tân, vừa đỗ trước cửa thì Lý đã ngắt nhỏ Huệ: - Khổ quá! Đã tám giờ rồi mà sao Mỹ Dung chưa tới? Ông giám đốc đến kìa, không thấy Mỹ Dung chắc ông sẽ tức giận mà rầy cả tụi mình cho xem. Cúc vừa đánh máy vừa nói: - Làm việc đi các chị. Nếu không lại bị la cả đám. Không hiểu Mỹ Dung có bị bệnh không mà giờ này vẫn chưa thấy tới? Ông Đại đã vào đến chỗ ba cô thư ký. Họ cắm cúi làm việc như không để ý đến những gì đã xảy ra quanh họ. Ông Đại đi thẳng vào văn phòng. Cúc đợi ông đi khỏi liền nói: - Hú vía, ông ấy không để ý đến sự chậm trễ của Mỹ Dung. Tội nghiệp Mỹ Dung quá, độ rày trông nó bơ phờ như kẻ mất hồn. Lý nhún vai: - Ai bảo yêu cái thằng lưu manh ấy cho khổ. Huệ nói: - Các chị đừng nói như thế. Ai ở trong cuộc đời mới biết. Chị chớ nên bảo Mỹ Dung yêu thằng lưu manh Mỹ Dung nghe được sẽ buồn rầu, tội nghiệp. ... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Duyên Tình Lạc Bến của tác giả Bà Tùng Long.