Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 2 (Dolores Cannon)

NOSTRADAMUS. Thậm chí đến tên của ông ấy còn mang theo hơi hướm bí ẩn. Thật sự thì, ông ấy là ai? Nhà tiên tri vĩ đại nhất từng sống trên đời này? hay là một tên bất tài bịp bợm khét tiếng? Ông ấy đã có thể thật sự nhìn thấy trước tương lai hay ông ta chỉ cố tình viết theo dạng thức không tài nào hiểu được để khiến người ta rối rắm và tiếp tục đoán mò mãi? Có lẽ ông ấy đã là tất cả những điều này, nhưng chắc chắn một điều, ông ấy là tác giả của những câu đố bí ẩn vĩ đại nhất từng sống trên đời. Để giữ được cho người ta hứng thú và cố gắng giải câu đố của ông ấy tận hơn bốn trăm năm thì không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nhưng có lẽ nếu ông ấy không viết dưới dạng những câu đố, thì công trình của ông ấy đã không thể tồn tại nổi. Nếu ông ấy viết những lời tiên tri của mình bằng ngôn ngữ đơn giản, không cách nào lầm lẫn, ông ấy hẳn đã bị tuyên cáo là một kẻ điên rồ đồng lõa với Quỷ dữ, và sẽ bị đem thiêu trên giàn hỏa cùng với những tiên tri của mình. Nếu ông ấy thực sự đã là một nhà tiên tri vĩ đại, ông ấy hẳn đã cố tình làm cho công trình của mình trở nên tối nghĩa, để bản chất tọc mạch của người đời sẽ tiếp tục nỗ lực giải mã cho ra những ý tứ của ông ấy cho đến khi một sự kiện xảy ra rồi qua đi. Sự nhận thức muộn màng thật tuyệt diệu. Những người giải mã công trình của ông ấy thường chỉ có thể nhìn ra ông ấy đã cố tiên đoán về điều gì sau khi sự kiện đã xảy ra rồi.

Nostradamus sống ở Pháp trong những năm 1500s. Ông ấy viết những lời tiên tri của mình dưới dạng từng đoạn tứ tuyệt (bốn câu), vốn là những bài thơ bốn dòng. Có gần một nghìn bài tất cả. Mỗi đoạn thơ bốn câu theo lý là được gắn liền với một sự kiện cụ thể, nhưng chúng được làm cho khó (giải nghĩa) hơn bởi vì cách ông ấy chèn tiếng Latin và những từ tối nghĩa khác vào tiếng Pháp Cổ của thời đại ông ấy. Ông ấy cũng đã thích dùng các phép tượng trưng, phép đảo chữ cái, và từ đồng âm khác nghĩa. Một phép đảo chữ cái là một từ mà trở thành một từ khác bằng cách thay đổi thứ tự của những chữ cái và thậm chí là thêm vào hoặc bỏ đi các chữ cái. Nó khá phổ biến với những người hâm mộ câu đố chữ và người ta đã đồng ý với nhau rằng Nostradamus đã dùng phép đảo chữ một cách rộng rãi trong những tiên đoán của ông, đặc biệt là khi đề cập đến tên riêng.

Cũng có những chuyên gia cho rằng nhiều bài thơ bốn câu của ông ta thật vô nghĩa và không cách gì lý giải được. Họ nói rằng mọi sự tương đồng với các sự kiện đã xảy ra chỉ đơn thuần là những sự trùng hợp không hơn. Họ cho rằng người đàn ông này chỉ đơn thuần là đang chơi một trò chơi khăm khổng lồ, thứ mà đã liên tiếp gây hoang mang cho con người trong suốt những năm nay, và rằng Nostradamus hẳn là đang hưởng thụ một trận cười chế giễu, rằng ông ấy nào giờ đã thành công trong việc lừa phỉnh người ta trong suốt một thời gian dài như vậy. Nhà tiên tri hay kẻ bịp bợm, ông ấy đã tiếp tục làm dấy lên sự hứng thú và sẽ tiếp tục làm được điều này khi nào loài người còn yêu thích một sự thử thách và một điều bí ẩn.

Khi cuộc phiêu lưu của tôi bắt đầu, hiểu biết của tôi về người đàn ông này cũng chỉ như mọi người khác thôi. Bởi vì tôi đã có hứng thú với các hiện tượng tâm linh được nhiều năm rồi, tôi đã đọc về ông ấy và tôi đã xem chương trình TV, Người Thấy Được Ngày Mai (The Man Who Saw Tomorrow), được dẫn chính bởi Orson Wells. Nostradamus đã là một bác sĩ chính thống và là một người bí ẩn ở thời đại của ông ấy bởi vì khả năng đưa ra những phương thuốc mà không một bác sĩ nào khác có thể bắt đầu thực hiện được. Tôi đã chưa bao giờ nghiên cứu về những bài thơ bốn câu của ông ấy. Ai mà muốn chứ? Chúng thật phức tạp. Từ những điều giới hạn mà tôi biết về ông ấy, tôi đã có khuynh hướng nghĩ rằng ông ấy là người đã đi trước thời đại của mình và rất có thể đã nhìn thấy trước những sự kiện ở tương lai. Tôi tin rằng ông ấy không thể hiểu được những gì ông ấy đã nhìn thấy và vì vậy mới dùng đến phép tượng trưng, thứ mà cũng được dùng trong Kinh Thánh (đặc biệt là trong những linh ảnh (khải tượng) tiên tri trong phần Khải Huyền) để miêu tả những khải tượng của ông ấy.

Mặc dù tôi đã luôn hâm mộ người đàn ông này, tôi chưa bao giờ trong những giấc mơ hoang đường nhất của mình, lại có thể nghĩ đến việc gặp ông ấy hay làm việc như một công cụ diễn giải những lời tiên tri bí ẩn của ông. Là một người làm công tác hồi quy, tôi đã có được những cuộc phiêu lưu đầy hứng khởi qua thời gian và không gian, thông qua việc thôi miên, bằng cách sống lại lịch sử lần nữa qua nhiều tiền kiếp của những đối tượng nghiên cứu của tôi. Nhưng ý tưởng làm việc cùng Nostradamus hay thậm chí là tìm ra bất cứ thứ gì về ông ấy đã chưa bao giờ xuất hiện trong tâm trí tôi dù chỉ một lần. Tìm mua: Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 2 TiKi Lazada Shopee

Chuyến phiêu lưu bắt đầu với nhầm lẫn vô hại và đơn giản. Tôi theo lệ thường tham gia buổi gặp gỡ của những người có hứng thú với hiện tượng tâm linh và những chủ đề về siêu hình. Tôi đi tới những buổi này mỗi tháng và tôi cảm thấy việc ở xung quanh những người có tâm hồn đồng điệu với mình nạp lại năng lượng cho tôi. Lúc nào cũng thật tốt khi được ở với những người mà có sở thích tương tự như mình. Tự do ngôn luận về những chủ đề lạ thường mà không phải e sợ việc buộc tội lẫn nhau thật là tuyệt diệu. Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Dolores Cannon":Ba Làn Sóng Tình Nguyện Viên Và Trái Đất MớiCon Người Đa ChiềuVũ Trụ Đa ChiềuVũ Trụ Xoắn - Quyển 2Vũ Trụ Xoắn - Quyển 3Những Người Trông Nom Trái ĐấtNhững Người Giám HộTừ Sau Khi Chết Đến Tái SinhVũ Trụ Xoắn - Quyển 1Vũ Trụ Xoắn - Quyển 4Vũ Trụ Xoắn - Quyển 5Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 1Họ Đã Dạo Bước Cùng Chúa JesusCuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 2Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 3Di Sản Từ Các Vì SaoMột Linh Hồn Nhớ Về HiroshimaNăm Cuộc Đời Được Ghi NhớTìm Kiếm Tri Thức Thiêng Liêng Còn Ẩn GiấuJesus Và Những Người Essense

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Cuộc Trò Chuyện Với Nostradamus - Quyển 2 PDF của tác giả Dolores Cannon nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Thuật Xử Thế Của Người Xưa Thu Giang - Nguyễn Duy Cần
Thuật Xử Thế Của Người Xưa (Tái Bản 2021)Thuật xử thế của người xưa thông qua những điển tích Trung Hoa để rút ra những bài học uyên thâm và đầy ngụ ý, nhằm hướng người đọc đến những giá trị chân thiện mỹ, góp phần giáo dục đạo đức lối sống của thanh niên. Trong xã hội hiện đại, con người mải mê chạy theo những giá trị vật chất mà bỏ quên mất việc tu dưỡng đạo đức, lối sống. Xã hội càng phát triển bao nhiêu thì đạo đức xã hội lại càng băng hoại đi bấy nhiêu. Vì vậy, những câu chuyện trong Thuật xử thế của người xưa tuy đã trải qua hàng vạn năm nhưng vẫn còn vẹn nguyên giá trị đức dục. Cuốn sách góp phần định hướng người đọc đến các giá trị chân thiện mỹ trong cuộc sống.MUA SÁCH (TIKI) MUA SÁCH (TIKI)
Bách Gia Chư Tử
Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Bách Gia Chư Tử (諸子百家; Bính âm: zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Hoa cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao. Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh"; Bính âm: bǎijiā zhēngmíng). Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay. Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc trưng ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó. Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn. Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó.Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Hoa được nhà Tần thống nhất, hệ thống tư tưởng ở Trung Hoa bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu. Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất. Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính ứng dụng hơn. Ông được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo. Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức, Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và phấn đấu. Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu.Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để đảm bảo đời sống cho người dân. Tuy nhiên, ông tin rằng nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia. Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo, Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi nhân dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng. Lòng tin vào việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.
THẦN, NGƯỜI VÀ ĐẤT VIỆT! - TẠ CHÍ ĐẠI TRƯỜNG
Chuyên khảo Thần, người và đất Việt trình bày sự hình thành và biến chuyển của các hệ thống thần linh của người Việt từ cổ đại tới cận đại, từ hệ thống các nhiên thần (các thần cây, đá; các thần sông nước) đến các nhân thần sơ khai, tiếp đó là các hệ thần mới, nảy sinh do tiến trình hình thành thể chế quân chủ tập quyền, đồng thời do sự giao lưu với tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc phương Bắc và phương Nam trong tiến trình lịch sử của cộng đồng Việt. Chuyên khảo Thần, người và đất Việt trình bày sự hình thành và biến chuyển của các hệ thống thần linh của người Việt từ cổ đại tới cận đại, từ hệ thống các nhiên thần (các thần cây, đá; các thần sông nước) đến các nhân thần sơ khai, tiếp đó là các hệ thần mới, nảy sinh do tiến trình hình thành thể chế quân chủ tập quyền, đồng thời do sự giao lưu với tín ngưỡng và tôn giáo của các dân tộc phương Bắc và phương Nam trong tiến trình lịch sử của cộng đồng Việt. Không chỉ là một công trình quan trọng nghiên cứu cách thức suy nghĩ và ứng xử của người Việt trong đời sống tâm linh, ‘Thần, người và đất Việt’ còn là một bức tranh đa sắc về các hệ thống thần linh Việt; mỗi trang trong sách như một mảng màu miêu tả những biến chuyển văn hóa ẩn sâu dưới lớp hỗn độn của thần thoại, huyền sử và tín ngưỡng. Từng gương mặt nhiên thần rũ bỏ vàng son tô vẽ, trở lại nét nguyên sơ trong sự vọng tưởng về văn hóa bản địa linh thiêng. Hiểu rằng thẳm sâu trong tâm thức người Việt luôn có một quan niệm về sự tồn tại thế giới siêu nhiên, ‘Thần, người và đất Việt’ đã không dừng lại ở những khảo sát hệ thống thần linh thủa sơ khai, mà còn đặt những bước đi đầu tiên trong việc làm sáng tỏ chiều hướng kết tập thần linh mới. Không chỉ là một công trình quan trọng nghiên cứu cách thức suy nghĩ và ứng xử của người Việt trong đời sống tâm linh, ‘Thần, người và đất Việt’ còn là một bức tranh đa sắc về các hệ thống thần linh Việt; mỗi trang trong sách như một mảng màu miêu tả những biến chuyển văn hóa ẩn sâu dưới lớp hỗn độn của thần thoại, huyền sử và tín ngưỡng. Từng gương mặt nhiên thần rũ bỏ vàng son tô vẽ, trở lại nét nguyên sơ trong sự vọng tưởng về văn hóa bản địa linh thiêng. Hiểu rằng thẳm sâu trong tâm thức người Việt luôn có một quan niệm về sự tồn tại thế giới siêu nhiên, ‘Thần, người và đất Việt’ đã không dừng lại ở những khảo sát hệ thống thần linh thủa sơ khai, mà còn đặt những bước đi đầu tiên trong việc làm sáng tỏ chiều hướng kết tập thần linh mới.
NGÔN NGỮ CỦA CHÚA
Ngôn ngữ của Chúa: Một nhà khoa học trình bày chứng cứ cho đức tin (nguyên ngữ tiếng Anh: The Language of God: A Scientist Presents Evidence for Belief) là một tác phẩm của Francis Collins có tên trong bản liệt kê sách bán chạy nhất của tờ New York Times, trong đó ông bày tỏ lập trường ủng hộ thuyết tiến hóa hữu thần. Francis Collins là bác sĩ y khoa và nhà di truyền học người Mỹ, nổi tiếng do những khám phá nổi bật về các loại gen bệnh cũng như khả năng lãnh đạo của ông trong Dự án bản đồ gene người (HGP). Collins hiện đang phục vụ trong cương vị Giám đốc Viện Y tế Hoa Kỳ. Trong quyển Ngôn ngữ của Chúa, Collins tóm lược những trải nghiệm của mình khi trở nên một tín hữu Cơ Đốc cũng như luận bàn ý niệm về Thiên Chúa trong những lĩnh vực như sinh học, vật lý học vũ trụ, tâm lý học, và các chuyên ngành khác.[1][2] Ông cũng trưng dẫn nhiều nhà tư tưởng nổi tiếng, nổi trội hơn hết là C. S. Lewis bên cạnh những nhân vật khác như Augustine, Stephen Hawking, Charles Darwin, Theodosius Dobzhansky....