Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cái Hôn Của Tử Thần - Ira Levin

TÌNH YÊU – THAM VỌNG – TỘI ÁC là ba phạm trù xoắn tít nhau tạo nên nhân vật "hắn". Hắn là ai? - Là người chúng ta bắt gặp trên đường phố, trong công viên, trong quán ăn, trong rạp hát, trong nhà trường...trong xã hội đó – Xã hội mà nhà văn nổi tiếng của Mỹ, ATR BUCHW ALD gọi là Xã Hội Vĩ Đại. Vĩ đại là vì nó đã sản sinh ra những đứa con sẵn sàng thản-nhiên-đến-lạnh-lùng gây tội ác để thực hiện những ước mơ, tham vọng cuồng điên. Hắn là ai? - Là một sinh viên hai mươi bốn tuổi đã khiến chúng ta phải rùng mình ghê sợ trước cái vẻ lì lợm, trâng tráo và tính tàn ác độc địa của hắn, là người vẫn còn bình tĩnh tự đánh giá về mình ngay sau khi đã phạm tội ác tầy đình: "Mày là một thằng điên!... Nhưng thực sự thì không bao giờ hắn gán cho mình là một thằng điên cả. Hắn nghĩ hắn là một thằng thông minh, gan da, anh hùng và liều lĩnh". Đấy! Hắn đấy – sản phẩm của một nền giáo dục bị tha hóa bởi sự sùng bái Danh Vọng và Tiền Tài Vật Chất. *** Kế hoạch của hắn đang tiến hành thông suốt thì giờ đây nàng lại làm hỏng đi. Một nỗi căm giận bùng lên phủ chụp xuống người hắn khiến khuôn mặt hắn trở nên méo mó một cách thảm hại. Cũng may đèn lúc này tắt. Còn nàng đang nằm trong bóng tối, úp mặt trên chiếc ngực trần của hắn khóc rấm rứt. Hơi thở của nàng phả ra nóng bỏng. Hắn muốn đẩy nàng ra. Nét mặt hắn dần dần dịu lại. Hắn choàng tay qua ôm và nhẹ xoa tấm lưng trần của nàng. Cái lưng hâm hấp nóng hay tại vì bàn tay hắn giá lạnh? Đôi chân hắn cựa quậy mãi như mỗi khi có điều gì làm hắn điên tiết lên hoặc khiến hắn không tiên liệu được. Hắn nằm yên lặng một chốc, đợi cho cơn giận lắng xuống. Hắn với tay kéo cái mền đắp lên đôi vai tròn trĩnh của nàng. - Khóc chẳng làm được cái quái gì cả – Hắn nói nhỏ. Ngoan ngoãn nghe lời hắn, nàng cố ngăn chặn tiếng nấc, lấy cái lai mền đã sờn lau nước mắt. - Em biết từ lâu, đã mấy tuần qua… nhưng em không dám nói, đợi xem chắc chắn… Bàn tay trên lưng nàng bỗng nóng rực hơn. - Em có nhầm lẫn không? – Hắn thấp giọng dù căn phòng vắng vẻ. - Không - Bao lâu rồi? - Khoảng hai tháng. Nàng ngẩng đầu lên. Trong bóng tối hắn nhìn thấy đôi mắt nàng đang nhìn hắn chăm chú. - Mình làm gì bây giờ hả anh? - Em không nói tên thật cho bác sĩ biết chứ? - Không, nhưng bác sĩ biết em nói dối. Thật khó… nếu ba em hay được… - Nàng lại ngã đầu lên ngực hắn. Hắn khẽ nhấc thân hình, một phần như để nhấn mạnh điều hắn sắp nói, một phần muốn đẩy nàng ra vì sức nặng đè nặng trên ngực làm hắn khó chịu. - Dorrie, nghe anh nói. Anh biết em muốn anh phải nói rằng chúng ta sẽ làm đám cưới vào ngày mai – cưới ngay! Em muốn anh phải nói rằng anh rất muốn lấy em làm vợ – Hắn ngừng, tìm lời. Thân hình nàng xoăn vào hắn, đợi chờ – Nhưng nếu ta cưới nhau theo kiểu này, bản thân anh trước đây chưa từng gặp ba em, vài tháng sau đứa bé lại chào đời… Em hẳn rõ ba em sẽ làm gì rồi. - Ba em không làm gì được – Nàng phản đối – Ba em chẳng làm gì được. - Anh không có ý nói đến việc hủy bỏ đám cưới hay đại loại việc gì như thế. - Vậy anh muốn đến cái gì? – Nàng sẵng giọng. - Vấn đề tiền bạc – Hắn trả lời – Dorrie, em biết ba em thuộc hạng người như thế nào không? Em đã kể cho anh nghe về ba em và thứ đạo đức thánh thiện của ông rồi. Mẹ em chỉ một phút lầm lỡ; tám năm sau ông phát hiện được và đã ly dị mẹ em không một chút thương tiếc, bất kể đến em, bất kể đến chị em của em, bất kể đến sức khỏe suy yếu của mẹ em. Nào, em thử nghĩ ba em sẽ đối xử với em ra sao? Ông sẽ không còn biết em có mặt trên cõi đời này nữa đâu. Em sẽ không đụng được đến một hào nào của ông hết. - Em không cần – Nàng sôi nổi nói – Anh tưởng em cần tiền đó lắm à? - Em không cần nhưng anh cần – Bàn tay hắn nhè nhẹ mơn trớn lưng nàng – Không phải cần cho riêng anh, anh thề có trời đất chứng giám. Anh chỉ nghĩ đến em. Chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng ta? Cả anh lẫn em đều phải thôi học. Em chăm sóc con. Anh đi làm. Anh sẽ làm gì? Một gã chỉ có hai năm đại học, không một mảnh bằng, sẽ làm cái nghề ngỗng gì đây hử? Một chân thư ký quèn? Một thợ vô dầu mỡ tại một nhà máy dệt? Hoặc là gì gì đó nữa? - Không quan trọng… - Sao lại không? Em có hiểu là nó cực kỳ quan trọng không? Em mới mười chín tuổi và lâu nay trong tay em luôn luôn có sẵn tiền. Thử hỏi em sẽ sống ra sao nếu em không có một đồng xu teng nào cả? Bản thân anh thì quá rõ điều này. Chúng ta suốt năm sẽ cấu xé nhau không biết mệt. - Không, không bao giờ có chuyện ấy. - Em cho rằng ta yêu nhau thì không thể có chuyện như thế xảy ra phải không? Em nghĩ chúng ta sẽ ở đâu? Ở trong một phòng trọ rẻ tiền? Aên mãi một món xpagéti suốt tuần suốt tháng? Nếu anh thấy em sống trong điều kiện như vậy và biết là lỗi tại anh nên mới ra cớ sự… - Hắn ngừng một lúc rồi hạ giọng nói tiếp – Anh sẽ đi bảo hiểm sinh mạng, sau đó lao mình vào mũi xe ô tô. Nàng lại bắt đầu thút thít khóc. Hắn nhắm mắt, mơ màng, giọng quyến rũ: - Anh đã vẽ ra trong óc một chương trình tuyệt đẹp. Vào dịp hè này chẳng hạn, em đưa anh lên New York giới thiệu với ba em. Chắc chắn ba em sẽ thích anh. Ba em để tâm đến cái gì, thích cái gì, ghét cái gì, anh đều biết. – Hắn ngừng lại – Và sau khi tốt nghiệp, mình sẽ làm lễ kết hôn, hoặc ngay vào dịp hè này luôn. Chúng ta sẽ trở lại đây vào tháng chín, chuẩn bị cho hai năm đại học cuối cùng. Và một căn nhà nho nhỏ gần khu đại học… Nàng ngẩng đầu dậy. - Anh định làm cái trò gì thế? – Nàng gằn giọng – Tại sao anh lại nói đến những chuyện này chứ? - Em nghĩ xem lúc đó em đẹp biết dường nào! Em thấy không? - Anh tưởng anh biết thôi à? – Giọng nàng nghẹn lại vì khóc – Nhưng bây giờ em đang có thai. Hai tháng rồi, anh biết không? – Một sự im lặng bỗng sụp xuống như thể tiếng động cơ ô tô bất chợt chết máy – Anh đang lẩn tránh sự thật này phải không? Anh muốn bỏ rơi em phải không? Anh muốn thế chứ gì? - Ồ, không có chuyện đó đâu em – Hắn bấu vai nàng, kéo khuôn mặt nàng lại sát mặt hắn – Không có chuyện ấy đâu, Dorrie. - Vậy anh sẽ làm gì cho em? Mình phải làm đám cưới ngay. Không còn sự lựa chọn nào khác. - Có chứ, Dorrie – Hắn nói cảm thấy tấm thân tê dại của nàng đang ép chặt vào người hắn. Nàng thì thào hốt hoảng: - Anh, đừng làm thế,anh ơi! – Nàng vùng vẫy, lắc đầu vẻ sợ hãi. ... Mời các bạn đón đọc Cái Hôn Của Tử Thần của tác giả Ira Levin.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd - Agatha Christie
Ở làng King’s Abbot, vụ tự sát của bà góa Ferrars làm dấy lên đồn đoán rằng bà đã giết chồng, bị tống tiền và có quan hệ mờ ám với ông Roger Ackroyd, một người giàu có trong làng. Tối hôm sau, ông Ackroyd bị giết trong phòng làm việc trước khi phát hiện được ai là kẻ tống tiền người đàn bà góa. Thám tử lừng danh Hercule Poirot ra tay phá án, với sự trợ giúp của bác sĩ James Sheppard. Xuất bản lần đầu năm 1926, Vụ ám sát ông Roger Ackroyd nhanh chóng trở thành hiện tượng xuất bản và sau này được coi là tác phẩm kinh điển của dòng văn học trinh thám phổ thông, mở ra một kỷ nguyên mới cho văn chương thể loại này *** Cách đây không lâu Agatha Christie, nữ nhà văn Anh nổi tiếng, chuyên viết truyện trinh thám, đã qua đời, hưởng thọ trên chín mươi tuổi. Truyện đầu tay của bà xuất hiện năm 1920. Suốt trên sáu mươi năm cầm bút, bà đã viết hàng mấy trăm truyện về tiểu thuyết trinh thám. Nhiều nước trên thế giới đã dịch in tuyển tập của bà, hoặc dựng thành phim. Agatha Christie khác với một số khá đông các nhà văn viết truyện trinh thám phương Tây. Bà không lạm dụng những sự việc rắc rối bí ẩn hoặc bất ngờ để làm chốt dẫn truyện. Bà chú ý đi sâu vào tâm lý con người. Nhân vật các truyện của bà bao giờ cũng được đặt vào những tình huống tâm lý xã hội phức tạp. Câu chuyện phát triển theo sự diễn biến của tâm cảnh các nhân vật và được giải quyết qua cách nhìn nhận thấu đáo cơ sở tâm lý xã hội của những hành động phạm pháp. Ngôn từ các nhân vật trong các truyện của bà rất phong phú thể hiện được tính cách nguồn gốc xã hội của họ, từ giới thượng lưu đến bọn lưu manh đao búa, đồng thời vẫn giữ vẻ độc đáo, gọn gàng, chính xác của tiếng Anh hiện đại. Do đó, như nhà nữ phê bình người Mỹ Ruth Penison đã viết: "Những truyện của Agatha Christie đã phác họa cho các thế hệ mai sau một bức tranh sinh động và chính xác về xã hội nước Anh hiện tại mà bà am hiểu rất tường tận." *** Bà Ferrars chết vào đêm hôm thứ năm, giữa hai ngày 16 và 17 tháng 9. Người ta gọi tôi đến vào lúc 8 giờ sáng ngày thứ sáu, song tôi không thể làm gì hơn được nữa. Bà ta đã chết được mấy tiếng đồng hồ rồi. Vào khoảng 9 giờ hơn, tôi về đến nhà. Cửa đóng kín. Tôi lặng lẽ mở bằng chiếc chìa khóa riêng, treo áo và mũ ở phòng ngoài. Tôi đứng yên một lúc; một cảm giác nặng nề và lo lắng đè nặng lên tôi. Không biết cái gì sẽ xảy ra sau đây, chắc chắn là tôi không thể đoán được. Nhưng trong đầu tôi cứ quay cuồng một ý nghĩ rằng trong thời gian tới đây, sẽ có nhiều điều bất ngờ nữa xảy ra như cái chết của bà Ferrars. Như người ta thường nói: Những gì con người không hy vọng thì luôn luôn xảy đến. Trong bếp có tiếng cốc va chạm nhau lách cách và một giọng nói khô khan vọng ra, đó là giọng của chị gái tôi: Caroline. - Cậu đã về đấy à, James? Một câu hỏi vô nghĩa, nếu không phải là tôi thì còn là ai khác nữa cơ chứ? Tôi vẫn im lặng không muốn trả lời, chính bà chị tôi là nguyên nhân của sự im lặng này. Caroline là một người đàn bà rất thóc mách và thậm chí còn hơn thế nữa, nếu người ta đề cập đến một vấn đề hay câu chuyện nào đó ở ngoài cái nhà này, Caroline có thể tìm mọi cách để biết cho bằng được những câu chuyện không đâu ra đâu của thiên hạ, mặc dù bà ta vẫn chỉ ngồi ở nhà. Tôi không biết bà chị tôi làm việc đó như thế nào, chỉ biết là bà ấy làm được thôi. Đó cũng chính là nguyên nhân tại sao tôi phải câm miệng. Tất cả những điều tôi sắp phải kể cho Caroline nghe bây giờ, xung quanh cái chết của bà Ferrars, có thể là những điều mà toàn thị trấn này đã được biết cách đây một giờ đồng hồ rồi. Song, bà chị tôi lại luôn luôn muốn biết những cái gì mà những người khác không biết cơ, đó đâu phải là lỗi của tôi. Chồng bà Ferrars bị chết cách đây đã được hơn một năm. Mỗi khi nói về cái chết của ông Ferrars, Caroline vẫn hay khẳng định rằng: Ông Ferrars chết là do bị bà vợ đầu độc. Caroline khẳng định như vậy không dựa trên một chứng cứ hoặc lý lẽ nào và thường xuyên cãi lại khi tôi nói rằng ông Ferrars chết vì bệnh dạ dày quá nặng, thêm vào đó, ông ta còn có thói quen uống rượu mạnh nhiều một cách kinh khủng. Đây là một bằng chứng đúng đắn vì hậu quả của nó đối với bệnh này của ông Ferrars cũng giống như kết quả của một vụ đầu độc. Nhưng Caroline không bao giờ dựa trên cơ sở này để đánh giá lại về bà Ferrars cả, mà vẫn buộc tội bà ấy là một kẻ giết người. - Cậu chỉ cần quan sát kỹ là hiểu ngay bà ta là một người như thế nào - Caroline vẫn thường nói với tôi như vậy. Tôi vẫn do dự đứng ngoài phòng khách không muốn vào và đang suy nghĩ về tất cả những điều đó thì giọng nói gắt gỏng của bà chị tôi lại vọng ra: - Cậu đang làm gì ngoài ấy thế hả, James? Sao không vào đây mà ăn sáng đi? ... Mời các bạn đón đọc Vụ Ám Sát Ông Roger Ackroyd của tác giả Agatha Christie.
Con Mồi Táo Bạo - Erle Stanley Gardner
Mason bảo vệ một người dính vào cuộc chiến cổ phiếu, bị cáo buộc giết hại thư ký của đối thủ. *** Theo GUINNESS, quyển sách ghi các kỷ lực thế giới, Erle Stanley Gardner được ghi nhận là tác giả sách bán chạy nhất của mọi thời đại. - Erle Stanley Gardner có trên 150 tác phẩm trinh thám tin cậy, đáng giá và hợp thời đại. - Erle Stanley Gardner, người đã tạo nên nhân vặt truyền kỳ luật sư Perry Mason, cô thư ký tinh ý Della Street, và viên thám tử tài ba Paul Drake. - Erle Stanley Gardner, tác giả duy nhất có sách bán chạy hơn cả bốn tác giả nổi tiếng khác cộng lại gồm: Agathe Chistie, Harold Robbins, Barbara Cartland và Louis L’amour   *** Một số tác phẩm đã được xuất bản tại Việt Nam:   1. Móng vuốt bọc nhung (Đôi tất nhung) [Perry Mason #1 - The Case of the Velvet Claws] (1933) 2. Cháu gái người mộng du [Perry Mason #8 - The Case of the Sleepwalker's Niece] (1936) 3. Vị giám mục nói lắp [Perry Mason #9 - The Case of the Stuttering Bishop] (1936) 4. Kẻ hùn vốn [Perry Mason #17 - The Case of the Silent Partner] (1940) 5. Con vịt chết chìm (Mười tám năm sau) [Perry Mason #20 - The Case of the Drowning Duck (Le Canard Qui Se Noie)] (1942) 6. Cô gái có vết bầm trên mặt [Perry Mason #25 - The Case of the Black-Eyed Blonde (La Blonde au Coquard)] (1944) 7. Lá thư buộc tội [Perry Mason # 44 - The Case of the Runaway Corpse] (1954) 8. Viên đạn thứ hai [Perry Mason #45 - The Case of the Restless Redhead] (1954) 9. Con mồi táo bạo [Perry Mason #54 - The Case of the Daring Decoy] (1957) 10. Kẻ mạo danh [Perry Mason #64 - The Case of the Spurious Spinster] (1961) 11. Người đàn bà đáng ngờ [Perry Mason #69 - The Case of the Mischievous Doll] (1963) 12. Vụ Án Hoa Hậu Áo Tắm [The Case of the Queenly Contestant] 13. Kẻ Giết Người Đội Lốt [Perry Mason #40 - The Case of the Grinning Gorilla] (1952)   *** Jerry Conway lật tờ báo đến trang sáu. Cùng một đề tài như vậy cả tuần nay rồi. Đó là bài báo quảng cáo chiếm hết nửa trang với tựa đề: “HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG ỦY NHIỆM”. Bài báo được viết một cách khôn khéo với lời lẽ chứng tỏ bề ngoài đầy sự thực: Quý vị cổ đông của hãng “Tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas” đã đầu tư cho hãng bởi vì quý vị muốn có lợi túc. Quý vị muốn có lợi tức để sử dụng cho chính quý vị, cho con cháu cũng như cho những người thừa kế. Nhưng quý vị đã nhận được gì? Ngoài sự hoàn toàn trông cậy vào may rủi, ông Giám đốc Jerry Conway đã làm được gì cho quý vị? Ông ta nói nào là phát triển, nào là xây dựng và nào là ông ta đang đặt một nền tảng vững chắc cho Công ty. Nhưng đó không phải là con đường của những chuyên viên thượng thặng bậc nhất lựa chọn. Các chuyên viên này đã nhận định rằng Jerry Conway chỉ đang đặt nền tảng trên bãi cát. Quý vị muốn có lợi tức, quý vị muốn có hành động. Quý vị muốn có lợi tức ngay bây giờ, năm tới hoặc trong năm tới nữa chứ không phải là mười hay hai mươi năm sau. Vậy xin quý vị hãy gửi phiếu ủy nhiệm cho Gifford Farrell. Gifford Farrell sẽ đảm nhận trọng trách giao phó và công việc sẽ phát triển tốt đẹp. Farrell chỉ bảo đảm bằng kết quả chứ không phải bằng lời hứa. Farrell chỉ bảo đảm bằng hành động chứ không phải tà tà, bằng quyết định chứ không phải bằng mơ hồ và bằng thành tích chứ không phải bằng hy vọng. Conway gấp tờ báo lại. Ông thấy rằng bài báo quảng cáo đó sẽ có kết quả và ông thấy mình bị tổn thương. Theo Hội đồng Cổ đông ủy nhiệm thì thật ra hoàn toàn do may mắn nên Công ty tìm kiếm và khai thác dầu mỏ California - Texas đã được nằm trong tổ hợp Turkey Ridge. Và do đó Jerry Conway đã tạo được một lợi tức lớn cho công ty và nâng giá trị của chứng khoán. Đúng ra thì Jerry Conway đã có dự trù đầu tư Công ty vào một tổ hợp khác cũng có tiềm lực mạnh tương đương với tổ hộp Turkey Ridge, nhưng lại không thành công. Gifford Farrell đã từng bị mất ảnh hưởng trong Công ty ngay từ đầu và đã bị Ban giám đốc cách chức, và bây giờ ông ta khởi sự lại cuộc chiến dành quyền ủy nhiệm. Ông ta quyết dành giật lấy quyền điều khiển Công ty từ tay Conway. Ai đã hậu thuẫn cho Farrell? Nguồn tài chính nào đã yểm trợ cho các quảng cáo trên báo chí? Conway rất muốn biết và cần phải biết để tìm cách đối phó. Kế hoạch đầu tư tổng quát chính yếu của Conway phải được thi hành một cách âm thầm. Giờ phút nào Conway để lộ ra kế hoạch, giờ phút đó coi như thất bại. Giá của các tài sản mà Conway hy vọng thu mua được sẽ tự động tăng vọt lên liền. Conway không thể giải thích trên báo chí được. Conway có ý định sẽ báo cáo trước đại hội đồng cổ đông và hy vọng rằng hầu hết các cổ đông lớn sẽ tham dự và sẵn sàng hậu thuẫn cho mình. Nhưng còn các cổ đông nhỏ hơn? Những cổ đông mà họ đầu tư đây một chút, kia một chút, những cổ đông mà họ chỉ muốn thấy hành động và lợi nhuận trước mắt? Liệu những người này sẽ đứng trong hàng ngũ Conway hay họ sẽ bỏ phiếu ủy nhiệm cho Farrell? Theo nghiên cứu các tài liệu cho biết, có khá nhiều các cổ đông nhỏ đã từng nắm được quyền điều khiển Công ty, với điều kiện là họ đoàn kết thành một khối. Nếu Farrell nắm được cái phiếu ủy nhiệm của họ có nghĩa là họ đã đoàn kết thành một khối. Tuy nhiên, nếu Gifford Farrell không thu thập được tối thiểu 60 phần trăm các cổ đông nhỏ này, và “nếu” Conway có khả năng nắm được các cổ đông lớn trong đại hội cổ đông thì mọi chuyện sẽ ổn thỏa. Tuy nhiên đó chỉ là hai chữ “Nếu” to tướng và hiện tại Jerry Conway chưa tìm được giải pháp. ... Mời các bạn đón đọc Perry Mason #54: Con Mồi Táo Bạo của tác giả Erle Stanley Gardner.
Tiền 3: Sòng Bạc - Paul Loup Sulitzer
Cimballi, chàng triệu phú 26 tuổi, góa vợ, một con trai, tốt bụng và ham chơi, một hôm bỗng điên rồ nảy ra ý định "tậu" một sòng bạc ở Mỹ để cuộc đời được có thêm phần vui vẻ, bởi vì cái sòng bạc này "...có thể tiếp đón cùng lúc Ba mươi ngàn khách chơi, tổng vốn đầu tư là Năm trăm triệu đô la và ...lãi đồng niên trông rõ được là Một trăm triệu đô la". Vậy thì vui quá rồi. Song, cả tiền lẫn niềm tin đều chưa tìm thấy thì đã thấy chàng Cimballi; nào lồng lên như ngựa vía khắp các châu lục trên trái đất, từ Mỹ sang Âu, Á, Phi rồi lại ngược từ Phi, Á, Âu về Mỹ; nào suýt phá sản; nào hơn thế, suýt bỏ mạng cùng hai đứa con - một đẻ một nuôi, trong đường hầm bên dưới sòng bạc của chính chàng. Bạn đọc sẽ ngạc nhiên và có thể, kinh hoàng, khi đi tới tận cùng của "Sòng Bạc". Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Vào quãng giữa tháng 7 năm 1976, ngày 18, cách đây hơn ba tháng tôi đã lao vào việc mua và xây dựng một khách sạn - sòng bạc khổng lồ trên đất Mỹ. Một sòng bạc đáng gọi là một sòng bạc: Sau khi xây dựng xong, nó sẽ có thể tiếp đón được trong cùng một lúc từ 29 đến 30 ngàn khách chơi. Không phải là nhỏ rồi! Dù sao nó cũng đủ để cạnh tranh với những sòng bạc Caesars hay Saudz của Las Vegas. Quy mô thì y chang như nhau hay cũng gần như thế. Nhưng về tầm quan trọng của công chuyện kinh doanh mà tôi đã dấn thân vào thì chỉ cần ba con số là đủ để biểu hiện nó: Tổng số vốn đầu tư là năm trăm triệu dolars, nếu không có gì bất thường thì số vốn này sẽ được khấu hao xong trong ba năm rưỡi, lãi đồng niên trông thấy được sẽ là một trăm triệu dolars nghĩa là 500 triệu francs mỗi tháng[1]. Trừ tiền thuế và các lệ phí. Ngày 18 tháng 7 năm 1976, một chiếc taxi đưa tôi đến một cao ốc ở Phố 65 Đông, tại Manhattan, New York, lúc đó là tám giờ tối, hơn kém khoảng một hay hai phút gì đó. - Tôi tên là Franz Cimballi. Ông Olliphan chờ tôi. Người bảo vệ có mang súng, tra một bảng danh sách để trên bàn làm việc nhìn chòng chọc vào mặt tôi, rồi gật đầu. Tôi đi về phía thang máy, anh ta gọi giật tôi lại, nói: - Tầng lầu của ông Olliphan có thang máy riêng. Anh ta đến gần tôi, đưa tôi đến trước mặt cái cửa bằng gỗ sồi đánh si, kỳ lạ là không có một quả đấm cửa hay bất cứ một thiết bị mở nào. - Xin mời ông nhìn vào chiếc camera này. Tôi phải ngẩng đầu và con mắt độc nhỡn của chiếc ống kính nhìn xuống tôi. Tôi gửi cho nó một nụ cười quyến rũ mà tôi có bí quyết. Mười giây, cái cửa không có khóa lặng lẽ quay, mở vào một thứ phòng khách của phụ nữ, căng bằng lụa mộc, có kê ở hai bên một chiếc tủ đứng kiểu Louis XVI, hai chiếc ghế fauteuil kiểu Adam, lưng ghế có phù hiệu. Tôi bước vào, cánh cửa đóng lại sau lưng tôi. Tôi không hề cảm thấy chiếc cabin khởi động, và cũng chẳng cảm thấy chấn động nhẹ nào báo hiệu đã lên đến nơi. Một cánh cửa mở ra, gác lầu thứ 64 trên cao, một người quản gia người Porto Rico thản nhiên đỡ chiếc áo choàng của tôi. - Xin mời ông đi lối này, thưa ông Cimballi. Nếu cứ xét theo cái thang, bằng gỗ mun rất hẹp đưa tôi lên một căn phòng có lẽ là căn gác cuối cùng của cao ốc này, thì tầng lầu này phải là song lập. Người mời tôi dùng bữa tối đang chờ tôi ở đầu một dãy hành lang hoàn toàn ốp gỗ, dẫn vào một phòng đọc sách cũng hoàn toàn ốp gỗ như vậy. Khi tôi bước vào, ông cất chiếc vĩ cầm vào hộp, và tôi có thể đoán chắc rằng chỉ riêng một cây đàn này thôi, ít nhất cũng bằng giá của cả tầng lầu song lập này và những gì nó chứa bên trong. Đó là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, cao lớn, mảnh mai, rất đẹp, rất lịch sự! Hai thái dương tóc điểm bạc, da mặt rám nắng, đôi mắt xanh cháy bỏng thông minh. Tên ông ta là James Montague Olliphan. Chính ông là người đứng làm trung gian để bán cho tôi khách sạn “Con Voi Trắng”. - Ông dùng một chút rượu thưa ông Cimballi? ... Mời các bạn đón đọc Tiền 3: Sòng Bạc của tác giả Paul Loup Sulitzer.
Tiền! Niềm Vui Sướng - Paul Loup Sulitzer
"Tiền!..." vào lúc này, chúng tôi hy vọng có thể giúp bạn đọc tiếp cận với "thế giới kinh doanh", với "nghệ thuật làm giàu", và còn hơn thế nữa, có một cái nhìn đầy đủ, xác thực về thời đại mình đang sống. Cậu chàng Frank Cimballi, 19 tuổi, con nhà tỉ phú chỉ biết ăn chơi, bỗng rơi tõm vào một cảnh ngộ bi đát: Bố, mẹ chết, người yêu tự sát, gia tài khổng lồ được thừa kế bị cưỡng đoạt sạch sành sanh. Bị đẩy đến xứ Kenya Châu Phi xa lạ với hai bàn tay trắng - theo đúng nghĩa đen, cậu chàng bắt buộc phải sống, phải làm lại cuộc đời mình. Thế mà chỉ năm năm sau, Cimballi đã trở thành triệu phú, lần luợt đánh bại tất cả những kẻ độc ác đã “gây nên cuộc lừa đảo có tầm cỡ thế kỷ”, kể cả tên trùm tư bản tài chính Martin Yahl. Đánh bại, không phải bằng vũ lực mà bằng chính sức mạnh của đồng tiền, bằng các mánh lới, các thủ đoạn kinh doanh. Và rồi chính Cimballi, đang ngất ngưởng trên đỉnh cao chót vót thắng lợi huy hoàng, lại một lần nữa bị lôi tuột xuống vực cũng bằng những cái “bẫy” nghề nghiệp... Sòng Bạc là tập thứ 3 của series tiểu thuyết Tiền của tác giả Paul Loup Sulitzer. Bộ Tiền gồm có: - Tiền! Niềm Vui Sướng - Tiền! Tiền Mặt Trả Ngay - Sóng Bạc *** Tác giả Paul L. Sulitzer trước khi trở thành nhà văn đã là một chuyên gia kinh tế, tham vấn cho nhiều công ty lớn. Nhờ thế ông đã có thể đi sâu vào gan ruột “giới làm ăn”, nắm được tối đa những lắt léo, những bí mật mà chỉ người trong cuộc mới biết. Có lẽ đó là lý do chủ yếu khiến "Tiền!..." có sức hấp dẫn lạ lùng của một cuốn truyện trinh thám. Nhưng khác với loại truyện ấy, vẫn là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội, một bức tranh thu nhỏ của thời hiện đại, với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, của tốc độ chuyển dịch, sức mạnh ma quái của đồng tiền, với lý tưởng, tình yêu, hạnh phúc, và khổ đau của con người... *** Tôi nghĩ rằng, ta có thể bắt đầu câu chuyện từ sáng 23 tháng mười một, vào lúc mười một giờ ba mươi phút, trong ngôi nhà ở đường Old Queen bên rìa công viên St. James thành phố London. Sao lại không? Chính vào lúc đó cuộc chơi bắt đầu. Có lẽ không thật đúng vào lúc mười một giờ ba mươi, mà là mười một giờ ba mươi rồi kéo dài trong năm sáu tiếng đồng hồ sau đó. Viên cảnh sát từ công viên Scotland tới ngồi trước mặt tôi. Đến bây giờ trong mắt tôi vẫn còn lưu lại đường nét chiếc veston bằng vải tuýt anh ta mặc hôm đó. Anh ta trạc độ bốn mươi, có khuôn mặt người xứ Scotland hung hung, mái tóc dày và xoắn có đường ngôi bên trái kéo dài sang phải bởi một làn sóng có hai chỗ duỗi, tên là Ogilvie hoặc Watts. Anh ta theo dõi những người dọn nhà thuê đang khuân vác đồ đạc. - Anh rời bỏ căn nhà này? - Chính nó rời bỏ tôi. Người ta đang lấy lại những thứ tôi chưa trả hết tiền. Tôi chưa trả hết tiền một thứ nào. Điện thoại, tôi nhấc máy, lại ngân hàng gọi tới: Tấm séc thứ hai đã tới nơi, họ không chịu đựng nổi tình thế này, tôi định làm gì, mấy giờ tôi mới đến gặp họ, không biết rằng càng sớm càng tốt hay sao? Tôi có biết chứng thư kháng nghị là cái gì không? “Tôi sẽ cố đến thật sớm! Bao giờ? - Một giờ nữa!” Tôi gác máy, thấy cặp mắt màu hạt dẻ đăm chiêu của viên cảnh sát vẫn dán vào tôi. Chắc chắn gã đã nghe hết, đã biết rõ ai gọi tôi, gọi để làm gì, nhưng cứ giả ngây giả điếc như chẳng hay biết gì. Gã bảo: - Hay, tôi vừa nảy ra một ý: Có lẽ tốt nhất là anh nên làm lại từng bước một những cái gì anh đã làm đêm hôm đó. Không bắt buộc đâu. Nhưng tranh thủ được thời gian. Và tôi có thể để anh dược tự do sớm hơn. Tôi đứng lên, chân nặng trịch. - Nào, đi! Các người dọn nhà thuê đã và đang làm việc rất tốt: Họ bắt đầu từ lầu hai, đã dọn sạch mọi thứ trên đó, lầu một cũng trống trơn, chẳng sót thứ gì. Bây giờ họ đang tấn công vào tầng trệt, mang đi hết, nhẵn nhụi, có mảnh giấy vẽ ngôi nhà ở St. Tropez bằng bút mực. - Anh bao nhiêu tuổi? - Hăm mốt. Hai mươi mốt năm, hai tháng và mười bốn ngày. - Anh thuê căn nhà này từ bao giờ? - Cách đây hai tháng mười bốn ngày. - Buổi tối hôm kia là lần đầu tiên? Tôi nhìn theo bức tranh trong tay một người dọn nhà thuê. - Không phải lần đầu. Giữa lầu một và tầng trệt có vài bậc tam cấp. Chúng tôi trèo lên. Tôi ngoái nhìn lại lần cuối cùng mong trông thấy bức vẽ, nhưng người mang nó đi đã ra tới ngoài phố, tới xe tải. - Không phải lần đầu, nhưng chắc chắn là lần cuối cùng. - Đêm ấy anh ăn mừng cái gì là chính? - Sự phá sản của tôi. - Chúng tôi lên thang gác lầu một. - Tôi nói - Tôi ở dưới kia, trong phòng khách bên phải. Trông rõ cô ta trèo lên cầu thang này. Cô dừng lại đứng chỗ này, quay đầu nhìn xuống. Nhìn tôi, giơ tay làm dấu rồi tiếp tục lên gác. - Có tỏ vẻ gì đặc biệt? ... Mời các bạn đón đọc tập 1 bộ Tiền: Tiền! Niềm Vui Sướng của tác giả Paul Loup Sulitzer.