Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle - Jules Verne

Câu chuyện được khởi đầu từ hai bức thư có nội dung mâu thuẫn nhau mà kỹ sư James Starr nhận được trong cùng một ngày. Một là của người thợ mỏ già Simon Ford kêu gọi ông tới ngay mỏ than Aberfoyle nơi ông đã từng làm việc mấy chục năm về trước để chứng kiến những điều kỳ diệu đang xảy ra, hai là một bức thư nặc danh không người gửi với nội dung đe dọa và ngăn cản việc kỹ sư tới đó. Từ hai bức thư đó đã thôi thúc trí tò mò của ông và ông đã quyết định tới mỏ than theo lời mời gọi của người bạn già. Điều gì sẽ xảy ra... Với một quyết tâm sắt đá, kỹ sư James Starr cùng gia đình nhà Simon Ford lao vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, cuộc phiêu lưu mà họ có thể phải trả giá bằng mạng sống của mình, để khám phá ra những điều bí ẩn nói trên. Liệu họ có đạt tới mục đích cao cả sau cùng? Với văn tài riêng biệt của ông về thể loại tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm, viễn tưởng, Jules Verne lại một lần nữa dẫn dắt chúng ta vào thế giới kỳ vĩ ẩn sâu trong lòng đất của vùng than Aberfoyle, một vùng mỏ giàu có của xứ Scotland thuộc vương quốc Anh. *** Kính gửi kỹ sư J. R. Starr K Số 30 Canortgate - Edimbourg Nếu ngày mai, ông kỹ sư James Starr trở về khu mỏ Aberfoyle, hố Dochart, giếng Yarow, ông sẽ được biết một tin quan trọng. Ông kỹ sư sẽ được đón tại nhà ga Callander, trong suốt cả ngày. Người ra đón ngài là anh Harry Ford, con trai của người cựu đốc công Simon Ford. Chúng tôi kính mong ngài giữ kín lời mời này đứng để người khác biết. Trên đây là nội dung bức thư thứ nhất mà kỹ sư James Starr, nhận được ngày mùng 3 tháng Chạp năm 18... Ngoài bì thư có đóng dấu bưu cục Aberfoyle, quận Stirling, xứ Scotland. Trí tò mò của ông kỹ sư được kích thích cao độ. Ông không hề nghĩ là lá thư này chứa đựng một chuyện lừa phỉnh. Đã nhiều năm nay, ông quen biết Simon Ford, một trong những cựu đốc công của vùng mỏ Aberfoyle, nơi mà trong hai chục năm, ông từng làm giám đốc, hay còn gọi là quản đốc, theo cách gọi ở các mỏ than Anh quốc. James Starr là một con người có thể tạng vững chắc, vì vậy, mặc dù đã năm mươi nhăm tuổi mà trông ông cứ như đang tuổi bốn mươi. Ông thuộc một dòng họ cổ xưa vùng Edimbourg, lại là lớp người ưu tú của dòng họ. Công việc của ông đã làm vẻ vang cho toàn thể các kỹ sư khai thác mỏ than ở Vương quốc Anh, cũng như ở Cardiff, từ New Castle cho đến các quận vùng Hạ Scotland. Tuy nhiên, chính ở trong lòng các mỏ than bí ẩn vùng Aberfoyle, tiếp giáp với vùng mỏ Alloa và chiếm gần hết diện tích quận Stirling, tên tuổi của kỹ sư James Starr mới được nhiều người nhắc đến. Chính tại vùng này, ông đã sống gần hết cuộc đời mình. Người Anh đã gọi toàn thể các mỏ than rộng lớn của họ bằng một cái tên rất có ý nghĩa: “Các xứ Ấn Độ đen” ; và các xứ Ấn Độ này có thể đã đem lại cho Vương quốc Anh sự giàu có khủng khiếp còn hơn sự đóng góp của nước Ấn Độ phương Đông. Tuy nhiên sự tiêu thụ năng lượng đã gia tăng một cách đáng kể trong những năm cuối của thế kỷ. Điều này dẫn tới sự khai thác đến mức kiệt quệ của vỉa than. Giờ đây các mỏ than gần như bị bỏ trống, trơ ra những lỗ giếng toang hoác và những đường hầm vắng lặng. Đó chính là tình trạng của khu mỏ than Aberfoyle. Mười năm về trước, chiếc xe ben cuối cùng đã bóc đi tấn than cuối của mỏ. Tất cả các công cụ dùng trong việc khai thác đã được kéo lên khỏi các giếng và được vứt chỏng trơ trên mặt đất. Mỏ than cạn kiệt nom giống như những bộ xương khủng long hóa thạch. Trong số những dụng cụ đó, nay chỉ còn sót lại những chiếc thang bằng gỗ, dùng để đi xuống những hầm than sâu qua lối giếng Yarow - đó là lối duy nhất có thể dẫn vào những ngách hầm phía trong của hố Dochart, kể từ sau khi công việc khai thác mỏ đã ngưng nghỉ. Phía bên ngoài mỏ, người ta còn thấy sót lại những ngôi nhà xưởng, nơi đặt những máy khoan, những cái giếng, miệng hố dẫn vào trong hầm. Những chỗ đó nay cũng bị bỏ hoang phế như toàn bộ khu mỏ Aberfoyle vậy. Năm ấy, vào một ngày buồn, những người thợ mỏ đã từ giã mỏ than, nơi họ đã sống và làm việc trong nhiều năm tháng. Vài ngàn người thợ mỏ đang tập trung, họ là những người tích cực và quả cảm nhất của khu mỏ. Những con người tốt bụng này, đã từ nhiều năm qua, cha truyền con nối, lao động tại đây, khu mỏ Aberfoyle. Giờ đây họ náu lại để nói lời từ biệt với ông kỹ sư, một lời từ giã không hẹn ngày tái ngộ. Kỹ sư James Starr lúc này đang đứng chờ họ trước cửa những gian nhà xưởng, nơi đã bao nhiêu năm ông điều hành các cỗ máy với áp suất hơi nước cực lớn, dùng cho công việc khai thác. Simon Ford, người đốc công của hố Dochart, năm đó đã năm mươi lăm tuổi, cùng vài người cai thợ đang đứng vây quanh ông kỹ sư. James Starr tiến về phía họ. Đám thợ mỏ, ngả mũ, đứng yên lặng chờ nghe ông nói. Cái cảnh chia tay này mới cảm động và cao cả làm sao. - Thưa toàn thể các bạn, - Ông kỹ sư nói - giờ phút chia tay của chúng ta đã tới. Khu mỏ than Aberfoyle, nơi mà trong nhiều năm qua đã tập họp chúng ta lại vì công việc chung, nay đã cạn kiệt. Chẳng những chúng ta không khám phá ra được một vỉa than mới nào mà lại còn tiếp tục khai thác chỗ than cuối cùng của hố Dochart này! Giờ đây, tất cả đã cạn kiệt! Lời nói cuối cùng mà tôi dành cho các bạn là lời chào từ biệt. Tất cả chúng ta đã từng sống nhờ vào công việc khai thác than, giờ đây than đã hết. Đại gia đình của chúng ta sẽ buộc phải phân tán và trong tương lai cũng khó lòng có cơ may để tập họp lại những đứa con ly tán. Nhưng dù các bạn có đi đến bất cứ nơi nào, chúng tôi vẫn để mắt dõi theo bước đi của các bạn, và những lời dặn dò, tiến cử của chúng tôi vẫn đi theo các bạn. Giờ đây, xin từ biệt các bạn và cầu Chúa luôn ở bên các bạn! Nói xong, mắt đẫm lệ, James Starr giang rộng vòng tay ôm lấy người thợ già nhất mỏ. Kế đó, những người đốc công của các giếng khác nhau, lần lượt đến siết chặt tay ông kỹ sư, trong lúc đám thợ mỏ, giơ cao nón và reo hò: - Từ biệt ông James Starr, người giám đốc và cũng là người bạn của chúng ta! Những lời từ biệt đó, rồi đây sẽ trở thành một kỷ niệm sâu sắc trong những trái tim quả cảm. Và lần lượt kẻ trước người sau, đám thợ rời khỏi mảnh sân rộng đó. Chỉ còn lại duy nhất một người ở lại bên James Starr. Người đó chính là đốc công Simon Ford. Bên cạnh ông già là một thiếu niên, tuổi chừng mười lăm, cậu bé đó chính là Harry, con trai ông, người đã từ vài năm qua, bắt đầu học việc trong mỏ. James Starr và Simon Ford quen biết nhau từ lâu, và càng hiểu nhau, họ càng quý trọng nhau. - Từ biệt nhé, Simon - Ông kỹ sư nói. - Từ biệt ông James, - Viên đốc công đáp lại - nhưng có lẽ ông cho phép tôi nói thêm. Tạm biệt ông! - Đúng vậy, tạm biệt Simon! - James Starr tiếp lời - Chắc ông cũng hiểu là tôi sẽ vui sướng chừng nào khi gặp lại ông để ta cùng trò chuyện về khu mỏ Aberfoyle của chúng ta! - Vâng tôi biết, thưa ông James. - Đừng quên là cánh cửa ngôi nhà tôi ở Edimbourg luôn mở rộng với ông! - Edimbourg quá xa vời! - Viên đốc công lắc đầu nói. - Vâng! Thế ông dự tính sẽ cư trú ở đâu? - Ngay nơi đây, thưa ông James! Chúng tôi sẽ không rời xa khu mỏ, nơi đã nuôi nâng đời tôi, dù cho nguồn sữa mẹ đó có cạn kiệt! Vợ tôi, con trai tôi và tôi, chúng tôi sẽ thu xếp sao cho mình luôn trung thành với khu mỏ này! - Vậy thì vĩnh biệt Simon - Ông kỹ sư nói mà giọng đã nghẹn ngào vì cảm động. - Không, không phải vĩnh biệt mà là tạm biệt, thưa ông! - Viên đốc công trả lời - Ông hãy tin lời Simon Ford này là vùng mỏ Aberfoyle sẽ gặp lại ông! Đây là toàn bộ những gì đã xảy ra mười năm về trước, mặc dù ý muốn của người đốc công là sẽ sớm gặp lại, nhưng kể từ đó James Starr đã không còn nghe nói đến người đốc công này nữa. Và thế là sau mười năm xa cách, lá thư của Simon Ford đã đến tay người kỹ sư, trong thư lại khẩn khoản mời ông tới ngay mỏ than Aberfoyle. Một tin quan trọng! Nhưng tin gì mới được chứ? Hố Dochart, giếng Yarow à? Ôi! biết bao nhiêu kỷ niệm của quá khứ đã ùa về trong tâm trí ông? James Starr đọc đi đọc lại bức thư. Ông tìm cách lật đi, lật lại vấn đề theo mọi chiều hướng có thể được. Tại sao Simon lại không viết rõ thêm một chút. Ông thầm trách Simon Ford quá tiết kiệm lời nói. Rất có thể là viên đốc công này đã khám phá ra một vỉa than mới có thể khai thác? Không! “Không, ông tự nhắc lại lần nữa, không! Làm sao có thể tưởng tượng những gì mà ta đã hoài công tìm kiếm, giờ đây lại được Simon Ford phát hiện? Tuy nhiên, viên đốc công già này thừa biết trên đời này, ta chỉ quan tâm đến có một điều, rồi còn đề nghị ta giữ kín chuyện này nữa chứ...” James Starr cứ loay hoay mãi với những ý nghĩ trên. Mặt khác, người kỹ sư hiểu rất rõ Simon Ford là một người thợ mỏ khéo léo, rất có ý thức về nghề nghiệp của mình. Ông chưa bao giờ gặp lại người đốc công này kể từ khi công việc khai thác ở mỏ Aberfoyle chấm dứt. Ông cũng không rõ viên đốc công già giờ đây ra sao, hiện làm gì, ở đâu cùng với vợ con. Tất cả những gì ông biết bây giờ chỉ là một cuộc hẹn ở giếng Yarow và người con trai của Simon Ford tên là Harry sẽ chờ ông ở nhà ga xe lửa Callander suốt cả ngày mai. Rõ ràng là họ muốn mời ông đến thăm khu hố Dochart. “Ta sẽ đi, nhất định ta sẽ đi!” James Starr lẩm bẩm trong miệng, trong lòng như có lửa đốt khi thấy giờ hẹn càng đến gần. Thế nhưng, một sự cố bất ngờ đã xảy ra. Nó giống như một dòng nước lạnh làm ngưng tụ nhất thời những giọt hơi nước bốc lên trong ấm nước sôi. Thực vậy, vào khoảng sáu giờ chiều, người gia nhân đã mang đến cho ông một lá thư thứ hai. Lá thư này đựng trong một chiếc phong bì xấu xí, nét chữ đề ngoài phong bì được viết bởi một bàn tay ít khi cầm đến bút. James Starr vội xé phong bì ra. Bên trong chỉ một mẩu giấy nhỏ đã bị thời gian làm ố vàng. Hình như nó được xé ra từ một quyển tập cũ. Trên mẩu giấy đó chỉ vẻn vẹn một dòng chữ sau đây: “Kỹ sư James Starr không cần bận tâm đến lá thư của Simon Ford làm gì. Lá thư đó giờ đây không còn nói lên điều gì nữa”. Bức thư không có tên người gửi. ... Mời các bạn đón đọc Phiêu lưu vào mỏ than Aberfoyle của tác giả Jules Verne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giải Khăn Sô Cho Huế - Nhã Ca
TỰA NHỎ : VIẾT ĐỂ CHỊU TỘI Tôi được sinh ra ở Huế, lớn lên với Huế, nhưng khi trưởng thành, đã rời gia đình, bỏ thành phố và ra đi biền biệt. Hồi trước Tết Mậu thân, hôm 23 tháng chạp năm mùi, đang cùng chồng con cúng ông táo, tôi bỗng nhận được điện tín từ Huế : về ngay, ba hấp hối. Với một gói hành lý vội vàng, đứa con hư hỏng của gia đình và thành phố là tôi, đã trở lại Huế để chụi tang người cha thân yêu. Và rồi như bao người khác, đã phải chịu luôn cái tang lớn cho cả thành phố, khi biến cố tết Mậu Thân bùng nổ. Sau cả tháng dài lạn lọn trong địa ngục Huế, khi sống sót trở về Sàigòn, tôi đã thao thức mãi về việc phải thất một giải khăn sô cho Huế, phải viết một hồi ký về những ngày giờ hấp hối của Huế. Nhưng thời sự những ngày sau biến cố Tế Mậu Thân ồn ào quá, bên cạnh cơn khóc than vật vã của Huế, người ta còn bận bịu với việc khai thác những chi tiết ly kỳ của chiến cuộc, những thành tích chiến thắng trên tro tàn, thật chưa phải là lúc viết ra những sót sa, tủi nhục, tuy tầm thường nhất, nhưng cũng lại là sâu sác nhất của một thành phố hấp hói. Chính vì vậy mà sau khi phác họa một vài nét đại cương trên nhật báo Sông hồi ấy, mặc dù được tòa soạn yêu cầu tiếp tục và sau đó được nhiều nhà xuất bản thúc dục, tôi cũng đã cố gắng ngưng lại. Phải ngưng lại, để nếu không nghiền ngẫm được kỹ hơn, thì ít ra cũng tách rời được khỏi những hậu ý xô bồ của thời cuộc, để chờ đợi một giây phút yên lặng hơn, trầm tĩnh hơn, khi viết về Huế. Cái thời gian chờ đợi ấy, đến nay, đã gần hai năm qua, Hai năm, hài cốt cả chục ngàn dân Huế bị tàn sát, vùi nông ở bờ bụi, vứt bỏ xuống đáy sông đáy suối, đã được thu nhặt dần. Những nấm mồ tập thể đã tạm thời xanh cỏ. Những nền nhà đổ nát đã tạm thời dựng lại. Cơn khóc than vật vã của Huế, những tiếng nói xô bồ về Huế, như vậy, cũng đã bớt ồn ào. Đây, chính là lúc chúng ta có thể cùng nhau chít lại giải khăn sô, đốt lại nén hương nhỏ trong đêm tối mênh mông của chiến tranh và tang tóc, để hồi tưởng về Huế. Có nhiều loạt súng đạn, nhiều loại tang tóc, đã nổ và đã tàn phá Huế. Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chụi trách nhiệm. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đoan, một cô bạn học cùng lớp với tôi ngày nào, đang ngồi trên ghế đại học ở Sàigòn, bỗng về Huế, đeo băng đỏ nơi tay, dát súng lục bên hong, hâng hái đi lùng người này, bắc người khác, để trở thành một nữ hung thần trên cơn hấp hối của Huế. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loặt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc : - Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm. Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ. Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có từng đoàn người, hàng trăm người, cha có, sư có, già có, con trẻ có, mỗi người cầm một lá cờ trắng để ra dấu đầu hàng bất cứ phe nào, đi thất thểu trong một thành phố đầy lửa cháy. Cứ như thế chạy ngược chạy xuôi, cho đến khi gục ngã gần hết. Cũng chính trong thời đại chúng ta, ngày thứ hai mươi mấy trong cơn hấp hối của Huế, đã có một con chó nhỏ kẹt giữa hai lằn đạn, chạy ra sủa bâng quơ ở bên bờ sông Bến Ngự. Con chó thành mục tiêu đùa rỡn cho những mũi súng hờm rẵn từ bên kia sông. Họ bắn cho con vật khốn khổ sợ hãi rơi xuống sông. Rồi lại bắn vào những bờ sông mà con chó nhỏ đang lóp ngóp bơi vào. Những phát súng đùa cợt không có tình bắn chết con chó nhỏ, mà chỉ có trêu chọc cho con chó chới với giữa giòng nước, để có chuyện đùa chơi với máu lửa. Thành phố Huế, và có lẽ cả quê hương khốn khổ của chúng ta nữa, có khác gì thân phận của con chó nhỏ đã chới với giữa giồng nước ấy. Thế hệ chúng ta, cái thế hệ ưa dùng những danh từ đẹp đẽ phô trương nhất, không những chúng ta phải thắt một giải khăn sô cho Huế, cho quê hương bị tàn phá, mà còn phải chịu tội với Huế, với quê hương nữa. Gần hai năm đã qua, hôm nay, nhân ngày giỗ thứ hai của biến cố tàn phá Huế sắp trở lại, tôi xin viết và xin gửi tới người đọc tập giải khăn sô cho Huế này như một bó nhang dèn góp giỗ. Xin mời bạn, chúng ta cùng thấp đèn, châm nhang, chịu tội với quê hương, với Huế.   Sàigon, năm Dậu. NHã CA ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Giải Khăn Sô Cho Huế của tác giả Nhã Ca.
Đường Tự Do - Sài Gòn - Nhã Ca
Một đầu, dòng sông Saigon lấp lánh. Một đầu khác, tượng Đức Mẹ trắng toát trước Vương Cung Thánh Đường. Lòng đường hẹp mà vỉa hè rộng. Con đường ấy, một thời ngắn ngủi thôi, mang tên là Tự Do. Tên cũ của nó, thời Pháp: Catinat. Tên mới, thời sau 1975: Đồng Khởi. Không biết đã hoặc sẽ còn những tên nào khác nữa? Với tôi, mãi mãi, con đường ấy mang tên là Tự Do. Đủ loại gót giày, từ Nam chí Bắc, từ năm châu bốn biển, đã nện trên vỉa hè Tự Do. Không chỉ giày dép đâu, mà con người, cả tôi nữa, khi đi đứng, hít thở, hòa mình vào sinh hoạt ở trên con đường này, đã hòa hợp với mạch sống của mọi thời đại, mọi hoàn cảnh. Bắt đầu từ một buổi trưa nắng sau khi Saigon đã thay tên đổi đời... ***   Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Đường Tự Do - Sài Gòn của tác giả Nhã Ca.
Bước Chạy Thanh Xuân - Miura Shion
ĐIỀU TUYỆT VỜI NHẤT CỦA THANH XUÂN LÀ KHÔNG BAO GIỜ BỎ CUỘC! Chúng ta nghĩ rằng chúng ta không thể. Mãi mãi không thể chạm vào vạch đích đó. Như tuổi thanh xuân lỡ mơ mộng và chỉ mơ mộng mà thôi. Không dám thử sức, không dám hết mình. Trong những năm tháng tuổi trẻ ấy, ở khu trọ Chikusei, có 9 chàng trai trẻ tuổi, mang trong mình những trăn trở, những sở thích và tính cách hoàn toàn khác biệt, cùng nhau ngày qua ngày sống một cuộc đời giản đơn, nhạt nhẽo. Ngỡ như tuổi trẻ của họ sẽ trôi qua mà chẳng có gì đáng nhớ. Cho đến khi chàng trai Kakeru như ngọn lửa sáng xuất hiện khiến đóm tàn trong ý chí của Kiyose – người say mê điền kinh và khao khát trở lại đường đua cháy bừng rực rỡ trong phút chốc. Hai người họ, bằng cách nào đó đã khiến 8 chàng trai khác trong khu trọ Chikusei, những người ban đầu vốn không mấy ưa chuyện vận động và chẳng hề có chút kinh nghiệm nào trong bộ môn điền kinh, bỗng nhiên cũng nuôi mộng Hakone - đường đua được cả Nhật Bản dõi theo và bao người mơ ước được đặt chân đến một lần trong đời. Thanh xuân của họ bắt đầu với ngọn lửa đam mê nhen nhóm rồi rực sáng như thế. Những giờ tập đẫm mồ hôi, những đánh đổi trong thói quen sinh hoạt và sở thích, những tranh cãi nảy lửa, một quá trình đầy rẫy khó khăn và thiếu thốn. Nhưng những chàng trai trẻ đầy nhiệt huyết ấy chưa bao giờ từ bỏ, ngược lại ngày một khao khát mãnh liệt hơn để chạm đến vạch đích trên đường đua Hakone. *** “Cậu có biết lời khen tặng quý giá nhất đối với một người chạy trên đường đua là gì không? Nhanh. Không phải, là mạnh mẽ.” Phải rồi, tuổi trẻ cũng giống như đường đua. Sự quý giá nhất không phải nhanh hay chậm, giỏi hay tệ mà là sự mạnh mẽ. Mạnh mẽ đối đầu với thử thách, mạnh mẽ theo đuổi những thứ mình đặt ra, mạnh mẽ vươn đến những ranh giới mà mình nghĩ mình không thể chạm vào. Đó chính là điều tuyệt vời nhất của thanh xuân, những bước chạy không ngừng nghỉ để phá vỡ giới hạn của bản thân. Những bước chạy ấy, có thể sẽ không hoàn hảo, có thể sẽ không phải là nhanh nhất, nhưng quan trọng là họ đã dám vượt lên chính bản thân, dám đánh đổi để thành công, dám mơ ước để đạt đến những ranh giới cao hơn, xa hơn và rực rỡ hơn trong tuổi trẻ của mình! *** Bước chạy thanh xuân - cuốn sách tràn đầy nhiệt huyết dành cho những người trẻ của Miura Shion, tác giả tiểu thuyết xuất sắc của Nhật Bản. Cuốn sách sẽ khiến bạn nhận ra rằng chẳng có giới hạn nhất định nào cho con người. Chỉ cần chúng ta đủ kiên nhẫn, đủ can đảm và đủ tin tưởng vào chính bản thân mình, mọi chuyện nhất định sẽ thành công. *** Đi bộ từ tuyến đường số 8 đến khu vực này mất chừng 20 phút. Không khí ban đêm thật trong lành. Đèn đường trong khu phố đơn điệu chỉ còn sáng vài cây. Xung quanh trở về với vẻ tĩnh lặng. Vừa bước đi trên con đường hẹp một chiều dành cho người đi bộ, Kiyose Haiji vừa ngước nhìn bầu trời đêm. Màn sao ở đây không thể so với quê nhà Shimane của anh được, nhưng rõ ràng Tokyo vẫn có riêng của mình vài đốm sáng yếu ớt. Anh ước gì bây giờ có thể thấy được sao băng. Nhưng nền trời vẫn lẳng lặng chẳng hồi đáp. Gió gợn qua cổ anh. Sắp tới tháng tư rồi mà trời vẫn còn rét căm căm. Làn khói bốc lên từ nhà tắm "Tsurunoyu" bay về phía những mái nhà thấp lè tè. Kiyose không nhìn trời nữa, mà vùi cằm vào cổ chiếc áo khoác kiểu Nhật, chân bước nhanh hơn. Nước nóng của nhà tắm công cộng ở Tokyo nóng thật. Hôm nay kiyose cũng đứng lên ngay sau khi trầm hết cơ thể trong bồn. Bác thợ xây - khách quen của"Tsurunoyu" nhìn thấy cảnh đó liền bật cười: "Vẫn nhát như mọi khi nhỉ, Haiji? Dân Edo chính gốc hồi ấy tắm nước nóng đến nỗi bỏng mông luôn đó." Giọng của bác thợ xây vọng lại từ trần nhà lát gạch men. Chẳng có bóng người nào phía nhà tắm nữ. Có lẽ trong đây chỉ có mỗi kiyose và bác thợ xây. "Cháu lúc nào cũng thắc mắc, không biết có nên hỏi chuyện này không..." "Gì đó?" "Khu này không phải vùng ngoại ô mà là nằm trên đồi bác nhỉ?" Cạo râu xong, kiyose lại bước đến bên bồn. Vừa nhìn vào ánh mắt bác thợ xây anh vừa vặn vòi nước. Nhiệt độ của nước lần này khác với lần trước. Kiyose yên tâm bước chân vào. "Có thể phân biệt đâu là khu ngoại ô đâu là khu trên đồi, xem ra cậu cũng quen với cuộc sống ở đây rồi?" "Cũng được bốn năm rồi mà ạ." "Chikusei thế nào rồi? Năm nay nhắm hết phòng nổi không?" "Còn một người nữa. Cháu cũng chẳng biết phải tính sao." "Thế tức là nổi chứ gì?" "Vâng." Kiyose thật lòng nghĩ thế. Đây là năm cuối cùng rồi. Cơ hội ngàn năm có một sắp sửa cận kề. Chỉ một người nữa thôi. Kiyose theo bác thợ xây bước ra khỏi nhà tắm. Bác dắt xe đạp, còn anh thong dong rảo bước bên cạnh. Nhờ tắm nước nóng nên kiyose hoàn toàn không thấy lạnh. Lúc anh tính cởi áo khoác ra thì đằng sau lưng chợt vang lên tiếng chân chạy, rồi tiếng la hét. Ngoái đầu lại, Kiyose trông thấy con đường hẹp phía trước có hai bóng người. Để thoát khỏi bóng người đàn ông đang hét toáng lên, bóng đen còn lại đang phóng về phía Kiyose và bác thợ xây. Trong chớp mắt, cái bóng ấy đã áp sát hai người bọn họ. Là một thanh niên, vẫn còn quá trẻ, Kiyose vừa nghĩ thế thì cậu ta đã kịp chạy biến. Nhân viên cửa hàng tiện lợi đuổi theo sau với tốc độ chậm hơn nhiều. Cậu thanh niên vừa này tông qua vai Kiyose không có lấy một nhịp thở dốc. Kiyose theo phản xạ định đuổi theo, nhưng bác thợ xây đã lên tiếng càm ràm. "Mấy thằng ăn cắp dạo này kinh thật." Nói mới nhớ, người nhân viên khi nãy cũng có kêu lên "Ăn cắp" thì phải. Nhưng Kiyose lại chẳng để ý đến chuyện đó vì trong phút chốc, anh đã bị thu hút bởi sức lực và đôi chân linh hoạt của cậu thanh niên kia. Kiyose vớ lấy chiếc xe đạp của bác thợ xây rồi leo lên. "Cho cháu mượn." Bỏ lại bác thợ xây với gương mặt ngơ ngác, Kiyose dốc toàn lực đạp xe đuổi theo vết tích cậu thanh niên đã biến mất vào đêm tối. Chính là cậu ta. Mình phải tìm cậu ta cho bằng được. Con tim Kiyose như bị nuốt chửng bởi dòng dung nham đặc quánh. Không có lý nào anh lại để mất dấu cậu ta. Trên con đường hẹp tối tăm này, thứ toả sáng duy nhất chỉ có hình dáng cậu thanh niên nọ. Áo khoác của Kiyose no gió. Cuối cùng thì xe đạp cuối cùng cũng chiếu đến cậu thanh niên kia. Thăng bằng tốt lắm. Kiyose cố gắng nén sự phấn khích để quan sát bước chạy của cậu ta. Lưng thẳng theo trục. Chân từ đầu gối trở xuống duỗi thẳng. Bờ vai thả lỏng, cổ chân nhịp nhàng nhận lấy sung động mỗi lần bàn chân chạm đất. Bước chạy vừa mềm mại vừa đầy uy lực. Có vẻ cậu ta đã phát hiện ra có người đang đuổi theo nên đến chỗ có ánh đèn đường liền ngoảnh đầu lại. Trông thấy khuân mặt nhìn nghiêng ấy, Kiyose không khỏi à lên một tiếng. Là cậu sao? Lòng anh dâng lên một cảm xúc, chẳng biết là niềm vui hay nỗi sợ hãi. Kiyose có linh cảm rằng đây nhất định là khởi đầu cho điều gì đó. Anh tăng tốc, lao lên chạy song song với cậu thanh niên. Như thể bị ai đó xui khiển, Kiyose vuột miệng hỏi: "Cậu thích chạy bộ à?" Cậu thanh niên đột ngột dừng lại rồi nhìn Kiyose với vẻ mặt không phải bối rối, cũng chẳng phải tức giận. Con ngươi đen láy ẩn chứa nhiệt huyết mãnh liệt soi ngược vào anh. Khoảnh khắc đó chính là lúc Kiyose nhận ra: Hạnh phúc và những điều tốt đẹp có lẽ tồn tại trên thế gian này thật. Đối với mình, tất cả những thứ ấy chính là chàng trai này.   Mời các bạn đón đọc Bước Chạy Thanh Xuân của tác giả Miura Shion.
Hành Trình Đến Tận Cùng Đêm Tối - Louis Ferdinand Céline
Louis Ferdinand Céline (1894-1961) tên thật: Louis-Ferdinand Destouches, vừa là nhà văn vừa là thầy thuốc. Ông lấy tên bà ngoại, Céline, làm bút danh. Năm 1912, ông tình nguyện nhập ngũ và giải ngũ năm 1914 với 75% thương tật. Sau đó, ông sang châu Phi tham gia việc chiếm đóng một thuộc địa cũ của Đức là Cameroun; trở về nước năm 1916, với bệnh sốt rét mạn tính. Năm 1918, ông theo học đại học y khoa, từng làm thầy thuốc cả ở New York, Mỹ lẫn Paris, Pháp. Đây là những chi tiết sẽ xuất hiện trong tiểu thuyết đầu tay của ông năm 1932 với tựa đề Hành trình đến tận cùng đêm tối. Đây là một trong những cuốn sách hiếm hoi vừa ra mắt đã lập tức trở thành một sự kiện lịch sử văn học. Céline đã dựa vào thứ ngôn ngữ truyền khẩu và bình dân mà văn học Pháp đã không biết đến suốt ba thế kỷ, để kịch liệt tố cáo thực trạng xã hội, từ đó tạo ra một sức mạnh chưa từng có và dùng nó đế đặt một nghi vấn siêu hình về con người và thân phận làm người. Nhiều từ điển bách khoa Pháp đặt Hành trình đến tận cùng đêm tối ngang với các tác phẩm văn học kinh điển và thường dành một mục từ riêng cho tác phẩm và cho rằng tác phẩm đã "được viết với một văn phong méo mó, tràn ngập những lộng ngôn", nhưng cũng phải thừa nhận "tác phẩm đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn học Pháp hiện đại". Năm 1995, tờ tuần báo Pháp L’Évènement du Jeudi cùng Đài Phát thanh và Trung tâm văn hóa Pompidou ở Paris đã tổ chức một cuộc trưng cầu ý kiến để chọn lấy 10 cuốn sách hay nhất trong văn học Pháp cho thế hệ năm 2000. Kết quả là, cuốn Hành trình đến tận cùng đêm tối được xếp thứ hai, sau cuốn Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, nhưng đứng trên các tác phẩm xưa nay nổi tiếng của Albert Camus, André Malraux, Marguerite Yourcenar hay Jean- Paul Sartre. Hoàng Phong​ *** Chuyện ấy đã bắt đầu như thế đấy. Tôi thì tôi chẳng bao giờ nói gì đâu. Chẳng nói gì cả. Nhưng Arthur Ganate lại gợi cho tôi nói. Arthur, một thằng bạn sinh viên, cùng khoa y với tôi. Hai đứa gặp nhau ở quảng trường Clichy. Lúc ấy đã sau bữa trưa. Cậu ta có chuyện gì đó muốn nói với tôi. Tôi nghe cậu ta. “Thôi, không ngồi ngoài này nữa, chúng mình về đi”, cậu ta bảo. Tôi về với cậu ta. Thế đấy. Rồi cậu ta bắt đầu câu chuyện. “Ngoài hiên này dành cho khách ăn trứng la-coóc. Chúng mình lại đằng kia đi!” Lúc ấy đường phố vắng tanh, chẳng có ma nào, vì trời nóng bức; xe cộ cũng không, chẳng có gì hết. Trời lạnh thì cũng chẳng ma nào ngoài phố; tôi nhớ rằng chính cậu ta nói với tôi cái ý này: “Dân Paris cứ làm ra vẻ lúc nào cũng bận bịu, nhưng thật ra họ dong chơi suốt từ sớm đến tối. Chứng cớ là khi nào thời tiết không đẹp để họ đi chơi, hoặc lạnh quá hoặc nóng quá thì có thấy họ quái đâu, tất cả còn chúi mũi vào quán cà phê hay quầy bia hơi. Là thế đấy! Họ bảo rằng thế kỷ của chúng ta là thế kỷ tốc độ! Đâu nào? Rồi lại nói đến những thay đổi lớn! Nói thế thôi, thay đổi gì nào? Thật ra chẳng thay đổi cái quái gì cả. Họ chỉ bốc nhau lên đó thôi. Mà cái chuyện bốc nhau thì cũng chẳng mới mẻ gì. Toàn chuyện ngôn từ, mà ngôn từ thì cũng có đổi mới được bao nhiêu đâu! Hai ba cái ở chỗ này, chỗ kia, toàn những đồ nhỏ nhoi, vặt vãnh”. Khoái trí vì gióng được lên những hồi chuông tưởng như là chân lý hữu ích, cả hai đứa chúng tôi ngồi lỳ ở đó, thích thú, nhìn ngó các cô hàng cà phê. Sau đó, câu chuyện quay về với tổng thống Poincaré vừa cắt băng khai mạc, đúng vào sáng hôm ấy, cuộc triển lãm chó cún; và thế rồi, chuyện tán róc rỉ rả trên tờ Thời báo (Le Temps). Arthur nói chọc tôi: “Thằng cha Thời báo quả là bậc thầy làng báo. Không thể có lấy hai tờ báo như thế để mà bênh vực cái giòng giống Pháp này!” Tôi bảo: “Rõ ràng là cần có một giòng giống Pháp, nhưng làm quái gì có!” Trả miếng hắn ta như thế để tỏ ra rằng tôi cũng là thằng nói năng có sở cứ lắm chứ. “Có đấy! Có một giòng giống Pháp, mà lại là giòng giống tốt nữa cơ - hắn nhấn mạnh - thậm chí còn là giòng giống tốt nhất thế giới cơ đấy. Chỉ tội một nỗi là rất khỏe bị cắm sừng mà lại cứ nói ngược!” Thế là hắn ta bắt đầu nổi khùng với tôi. Tất nhiên tôi phải tự trấn tĩnh và vững vàng. “Không đúng đâu. Cái mà cậu gọi là giòng giống, chỉ là một mớ táp nham những kẻ khố rách áo ôm như loại tớ thôi, toàn là một bầy chấy rận, toét mắt, run rẩy trôi giạt vào đất này, lại còn bị đủ thứ đói rét, dịch hạch bám đuổi, những kẻ thất thế khắp bốn phương trời đổ về đây. Họ không còn đi xa hơn được nữa vì biển cả đã ngăn bước chân họ lại. Đấy, nước Pháp và dân Pháp là thế đấy”. Trầm hẳn giọng xuống và đượm vẻ buồn, cậu ta bảo tôi: -     Bardamu ơi, ông cha mình đáng tự hào lắm, chớ có nói bậy! -     Cậu có lý, Arthur ạ. Cái ấy thì cậu có lý! Luôn luôn hằn học và dễ bảo, bị xâm phạm, bị đánh cắp, bị moi ruột và ngốc nghếch... Ông cha ta đáng tự hào lắm chứ! Cậu có thể nói là thế! Chúng ta có gì thay đổi nào? Giầy tất, không thay đổi; chúa tể, không thay đổi, chính kiến cũng không, hay có chăng thì cũng quá muộn mằn, chẳng còn đáng để trông đợi nữa. Chúng ta bẩm sinh đã là những kẻ trung thành, điều ấy thì rõ quá đi rồi! Lính tráng không lương, anh hùng cho tất cả mọi người, cho tất cả những con khỉ biết nói tiếng người... Những từ ngữ đã làm khổ tai nhau quá rồi. Chúng ta chỉ là những thần dân của Đức Vua Khốn khổ. Ngài chính là chúa tể của chúng ta. Chừng nào mà ta không ngoan ngoãn thì ngài siết chặt lại. Những ngón tay ngài siết chặt cổ tất cả chúng ta, nói đã chẳng ra lời, còn phải liệu, thần hồn nếu muốn ăn nuốt cho trôi... Ngài bóp hầu bóp cổ ta chẳng cần có nguyên cớ gì hết... cứ thế thì còn cóc gì là đời nữa... -     Còn chứ, còn tình yêu, Bardamu ơi! ... Mời các bạn đón đọc Hành Trình Đến Tận Cùng Đêm Tối của tác giả Louis Ferdinand Céline.