Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Giờ Đức văn

Nước Đức sau Thế chiến II. Siggi Jepsen nhắm mắt, sông Elbe ngoài cửa sổ chảy không ngừng, bồng bềnh băng. Những tàu kéo chầm chậm xô dạt sóng nước, đẩy băng xanh chồm qua bờ cát tới bãi lau sậy, để chúng được lãng quên ở đó. Còn trong phòng biệt giam của cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, Siggi đối mặt  trang vở trắng đang chờ bài luận Đức Văn " Niềm vui nghĩa vụ" mà cậu đã không viết nổi chữ nào trong 2 giờ trên lớp. Dòng sông ký ức ngổn ngang của cậu lúc này buộc phải rã băng, ngược về nguồn, để tái hiện câu chuyện khởi sự năm 1943... Xuất bản năm 1968, Giờ Đức văn của Siegfried Lenz, biểu hiện mối xung đột giữa nhiệm vụ với lương tâm, đạo đức dưới hình thức kỳ quái và rối rắm trong câu chuyện đầy sức thuyết phục, được Library Journal đánh giá là một trong những tiểu thuyết sâu sắc nhất, di dỏm, cay đắng, say sưa nhất, khiến người đọc phải suy tư nhiều nhất của văn chương Đức đương đại. Sau một thời gian ngắn, cuốn sách được đưa vào nhà trường phổ thông, trở thành một trong những tác phẩm văn học kinh điển được đọc, mổ xẻ, phân tích rộng và sâu nhất ở CHLB Đức. Từ thập niên 1970, số ấn bản Giờ Đức văn, riêng tại Đức, đã vượt trên 1 triệu bản. *** “Giờ Đức văn”: Giới hạn của nghĩa vụ byZét Nguyễn  28/10/2019 Tháng 4 năm 2019, bà Angela Merkel cho gỡ bỏ hai bức tranh của Emil Nolde, một họa sĩ nổi tiếng người Đức thuộc trường phái biểu hiện khỏi phòng làm việc của mình trong phủ thủ tướng Đức. Cơn cớ cho sự việc mà báo chí đã tốn bút mực mổ xẻ nguyên do nằm ở chỗ: Emil Nolde là một nghệ sĩ huyền thoại dưới thời phát xít Đức, có các tác phẩm từng bị quy là nghệ thuật suy đồi, từng bị nhận lệnh cấm vẽ; song ông cũng chính là một nhân vật tích cực bài Do thái và ủng hộ Hitler. 51 năm trước, vào năm 1968, một tác phẩm mà đến thời điểm này đã đồng loạt độc giả, nhà phê bình lẫn nghiên cứu, coi là kinh điển của văn chương hậu chiến Đức, ra đời: “Giờ Đức văn” của Siegfried Lenz. Kể về một họa sĩ thuộc trường phái biểu hiện bị cấm vẽ, cuốn tiểu thuyết này nhanh chóng trở thành một trong hiện tượng văn chương thành công vang dội nhất ở Đức, được đưa vào đọc và dạy trong nhà trường, đã bán được hàng triệu bản, được dịch ra hàng chục thứ tiếng. Và không lấy gì làm ngạc nhiên, rất nhiều độc giả đã ngộ nhận rằng hình mẫu cho nhân vật người họa sĩ trong “Giờ Đức văn” chính là Nolde. Nhưng đọc “Giờ Đức văn”, với một sự gán ghép thô thiển đến như vậy, là một cách đọc hạn chế vội vàng gạt bỏ hết những chiều sâu tâm lý và hành vi mà người kể chuyện bậc thầy Siegfried Lenz đã đạt được để thực thi nghĩa vụ của mình trong văn chương, cái nghĩa vụ mà như một nhà phê bình đã nhận xét, là giúp người Đức “trả những món nợ khổng lồ mà người Đức cùng với Führer của họ đã đặt lên vai mình.” Hơn tất cả, “Giờ Đức văn” là một chiêm nghiệm nhức nhối đầy nhân văn về đạo đức và triết học, về gia đình và ký ức, về những tổn thương tâm lý để lại những sự méo mó rất khó lý giải. “Giờ Đức văn” do Siggi Jepsen, người kể chuyện ngôi thứ nhất, một chàng trai 21 tuổi ngồi trong phòng biệt giam trên cù lao cải tạo trẻ vị thành niên, thuật lại một quãng đời ngắn ngủi vào năm cậu 10 tuổi. Năm 1943, ở một vùng quê xa xăm, người bố cảnh sát Jens Ole Jepsen của cậu đã được trên giao cho một nhiệm vụ: thực thi lệnh cấm vẽ lên người hàng xóm là ông họa sĩ nổi tiếng thế giới Max Nansen. Vốn là bạn thân với nhau, ông Nansen còn từng cứu mạng ông Jepsen, nhưng giờ đây mệnh lệnh đã ban thì ông Jepsen phải chấp hành. Ông Jepsen, bất chấp gian khổ, mưa sa, gió quất, dèm pha từ hàng xóm, bất chấp cả tình bằng hữu, thực thi và thực thi bằng được cái lệnh cấm vẽ ấy, bởi đơn giản đó là nghĩa vụ. Ông Jepsen tận tụy và mẫn cán, huy động cả con trai là Siggi để làm gián điệp, để giúp tịch thu, thiêu hủy cả tranh đang lẫn đã vẽ của ông Nansen. Dùng ngôn từ tinh xảo để vẽ lại không chỉ các bức tranh mà còn cả một vùng thôn quê hẻo lánh, dùng ký ức để phục dựng lại chi tiết, đối thoại, cảnh huống, hành động, Siggi lần lại từng mẩu hồi ức, để bày ra trong những năm tưởng chừng không lấy gì làm biến động, ở cái vùng đất hẻo lánh ở cực Bắc bang Schleswig-Holstein giáp với Đan Mạch, nơi cái tên Hitler chưa bao giờ được nhắc đến, nơi Thế chiến thứ 2 cơ hồ vắng mặt, nơi người dân sinh hoạt trong cái nếp thường nhật an bình không gì có thể phá vỡ được. Ở nơi ấy, bi kịch đã rơi xuống đầu Siggi, ông họa sĩ, chị gái Siggi, anh trai Siggi, và còn nhiều hơn nữa. Thuật lại một câu chuyện tưởng chừng giản dị, song “Giờ Đức văn” lại đặt ra hàng loạt những câu hỏi nhức nhối. Vậy rốt cục, ông bố cảnh sát của Siggi là người đáng ngợi khen vì đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách nghiêm túc và nghiêm ngặt? Hay ông đáng bị phê phán vì đã mù quáng tuân theo nghĩa vụ mà không một lần chất vấn ý nghĩa của nó? Liệu ông có nhân danh nghĩa vụ mà lao theo cám dỗ của bản thân? Càng đến cuối, “Giờ Đức văn” càng lộ rõ cho độc giả thấy sự yếu đuối không dám phản kháng của ông Jepsen: sự cứng đầu đến ám ảnh để biến những ham muốn cá nhân trở thành nghĩa vụ. Ông Jepsen đã trở thành nạn nhân của chính nghĩa vụ. Trong một cuộc phỏng vấn, Lenz đã tâm sự rằng, với ông, không có hình thức nào phù hợp cho việc truyền tải trải nghiệm của con người bằng tự sự, và rằng, “Gần như mọi nhà văn, ở một nghĩa nào đó, viết để phô bày chính bản thân mình.”  Vậy, Lenz phô bày gì của chính mình, nếu không phải là một cam kết mãnh liệt của văn chương vào tâm thức của con người. Không khoan nhượng, “Giờ Đức văn” mổ xẻ và phơi bày cả một ám ảnh lớn lao về vai trò và trách nhiệm của dân tộc Đức để cho chủ nghĩa phát xít trỗi dậy, thống trị và reo giắc bao tàn khốc. “Giờ Đức văn” có lẽ vì thế thuộc về một dòng văn chương hậu chiến đầy suy tưởng và soi xét, như một sự “xét lại,” như một sự thức tỉnh mà rạch ròi nhìn vào quá khứ tội lỗi của mình. Đúng như nhận xét của Marcel Reich-Ranicki, nhà phê bình xuất sắc được gọi là giáo hoàng văn học Đức, “Giờ Đức Văn” có “cái mà Lenz miêu tả là mục đích của văn chương. Đó chính là nỗ lực để vạch trần thế giới để rồi không một ai còn cảm thấy vô tội hay thản nhiên được nữa. Cả một thế hệ đã nổi lên trong cái bài học vĩ đại về tinh thần Đức và sự ngớ ngẩn của người Đức.”  Người bẻ ghi để những con tàu chở tù nhân đi về phía trại tập trung, người lính bảo vệ khóa chặt cửa để người Do thái không trốn thoát được khỏi phòng hơi ngạt, hay người cảnh sát tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm vẽ áp lên một ông họa sĩ hàng xóm, là những những chủ đề cứ trở đi trở lại trong văn chương hậu chiến của Đức. Hơn ai hết, Lenz ý thức được vai trò của nghĩa vụ, nguyên tắc của việc phải thực thi nghĩa vụ, niềm vui trong việc hoàn thành nghĩa vụ, vả cả những hạn chế của nghĩa vụ. Đó chính là khi con người sa vào cái bẫy của sự phục tùng đầy phi nhân. Zét Nguyễn (Bài đã đăng trên TTCT *** Tác Giả (17/3/1926 - 7/10/2014) Siegfried Lenz sinh tại Lyck, thành phố nhỏ thuộc Đông Phổ. Ông tốt nghiệp đại học Triết học, Anh văn và Lịch sử văn học Đức tại Hamburg sau Thế chiến II, là biên tập viên báo Thế giới một thời gian ngắn (1950-1951) rồi trở thành nhà văn tự do sống tại Hamburg. Khởi đầu nghiệp văn chương, Siegfried Lenz đã được sánh tầm với các nhà văn lớn của Đức như Heinrich Böll, Günter Grass hay Martin Walser. Lenz đã được trao các giải thưởng: Peace Prize of the German Book Trade (1988), The Goethe Prize of Frankfurt am Main (2000), Italian International Nonino Prize (2010). Trước khi qua đời, ông đã kịp khởi xướng Siegfried Lenz Prize - một trong các giải thưởng văn chương danh giá nhất của Đức cho “các nhà văn quốc tế được ghi nhận trong hoạt động văn chương sáng tạo theo tinh thần Siegfried Lenz”. Siegfried Lenz để lại 14 tiểu thuyết, 120 truyện ngắn, nhiều truyện vừa và kịch bản sân khấu. Số lượng ấn bản sách của ông bằng tiếng Đức và 35 thứ tiếng khác đến nay đã ngót nghét 30 triệu bản và vẫn đang tăng lên. *** BÀI LUẬN Họ phạt tôi, bắt viết bằng xong bài luận. Lão Joswig đích thân dẫn tôi về phòng giam kiên cố, gõ gõ tay lên lớp lưới chăng trước cửa sổ, xoa xoa tấm đệm rơm; sau đó, viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất ấy ngó nghiêng xem xét kỹ cả chiếc tủ sắt lẫn hốc tường bí mật của tôi lâu nay vẫn nằm khuất sau chiếc gương soi. Chẳng nói, chẳng rằng, hậm hà hậm hực, lão ta xem xét hết cái bàn đến chiếc ghế đẩu chằng chịt vết khía, vết rạch, tò mò soi mói chỗ thoát nước trong chậu rửa, thậm chí, còn gõ gõ ngón tay như dò hỏi bậu cửa sổ, săm soi lò sưởi xem có gì khác thường không, rồi, xong xuôi đâu đấy, lão ta mới đến bên tôi, thong thả sờ nắn người tôi từ vai đến đùi để cầm chắc tôi không mang vật gì có hại trong túi áo túi quần. Sau rốt, với vẻ đầy trách móc, lão đặt quyển vở lên bàn tôi, vở tập làm văn - trên bìa vở có dán miếng nhãn màu xám ghi rõ: vỏ tập làm văn của Siggi Jepsen - rồi không nói không rằng đi ra cửa, với vẻ mặt đầy thất vọng, của một kẻ nhân từ bị xúc phạm; bởi vì lão Joswig - viên giám thị chúng tôi vẫn có cảm tình nhất đó - chịu đựng các hình phạt thỉnh thoảng chúng tôi phải chịu như thế này còn khổ sở hơn, lâu hơn và cũng thấm thía hơn cả chính chúng tôi nữa kia. Lão ta để lộ cho tôi biết nỗi buồn phiền của lão không bằng lời, mà bằng cái cách lão khóa cửa. Lão loay hoay nhét chìa khóa vào ổ, hờ hững, bối rối và lưỡng lự trước khi quay vòng đầu tiên, rồi vặn ngược trở lại, khiến ổ khóa kêu cạch cạch, rồi, như thể đã vượt qua phút do dự, lão ta hằm hằm quay luôn hai vòng liên tiếp. Vâng, không phải ai khác, mà chính lão Karl Joswig, người đàn ông có vẻ ẻo lả và nhút nhát ấy, đã khóa tôi trong phòng giam để viết cho xong bài luận. Ngồi thế này đã gần hết ngày mà tôi vẫn không sao bắt đầu viết cho được: nhìn qua cửa sổ ra ngoài, thấy sông Elbe đang chảy, dòng sông chảy xuyên qua bóng gương mặt tôi mờ mờ phản chiếu trên kính cửa sổ; tôi cố nhắm mắt lại, nước sông vẫn không ngừng chảy, mặt sông phủ đầy các tảng băng phơn phớt màu xanh da trời đang bồng bềnh trôi. Tôi cứ phải dõi theo mãi những chiếc tàu kéo; chúng từ từ chạy, mũi tàu xắn lên mặt băng những đường ngoằn ngoèo xám ngoét, cứ phải nhìn dòng nước mang theo các tảng băng trôi lổn nhổn, dồn những khối băng chồm lên bãi cát của chúng tôi, ken két xô đẩy chúng lên đến bãi lau sậy khô rồi để quên chúng ở đấy. Tôi miễn cưỡng dõi theo đám quạ đen; bọn chúng như thể hẹn hò nhau ở đây trước khi tạt về Stade không bằng. Chúng bay lẻ tẻ từ Wedel sang, từ Finkenwerder hay Hahnöfer-Sand tới, nhóm thành bầy đông nghịt trên đảo chúng tôi, rủ nhau cất cánh vút lên cao rồi lượn đi lượn lại, chờ ngọn gió thuận chiều sẽ hất chúng về phía Stade. Rặng liễu khẳng khiu, phủ lớp băng mỏng và đầy sương muối làm tôi để ý; hàng rào dây thép sơn trắng, khu xưởng, các biển cảnh báo cắm ở bãi cát, những luống đất đông cứng trong vườn rau mà ra năm chúng tôi sẽ phải tự gieo trồng và chăm bón theo hướng dẫn của giám thị: tất tật những thứ ấy, thậm chí cả mặt trời, ánh nắng như đang chiếu qua một lớp kính mờ, hắt bóng dài nghiêng nghiêng, đều làm tôi sao nhãng. Thỉnh thoảng tôi cứ vừa định bắt tay vào chuyện viết lách thì ánh mắt tôi như thể lại vô tình bắt vào bệ cầu tàu nổi méo mó, xây xước, neo bằng dây xích, cùng chiếc xuồng gắn máy rộng bè bè và sáng loáng đồng thau từ Hamburg vừa đến neo vào đó - chiếc xuồng mỗi tuần, thì cứ nói ang áng thế, thả chừng một ngàn hai trăm nhà tâm lý học xuống đảo, đám chuyên viên tâm lý học quan tâm đến mức bệnh hoạn tới đám vị thành niên khó dạy bảo như chúng tôi. Tôi không rời mắt nhìn theo họ lần bước trên lối đi gồ ghề qua bãi cát, trước khi họ được đưa vào ngôi nhà màu xanh của Ban Giám đốc, cử hành lễ nghi chào hỏi như thường lệ; ở đó chắc thể nào họ cũng được nhắc nhở phải thận trọng và kín đáo khi tiến hành nghiên cứu, trước khi họ hối hả chen nhau ra ngoài, tràn ra khắp đảo chúng tôi, rồi làm bộ rất vô tình, theo nhau sán vào bắt chuyện với bọn bạn bè tôi: thằng Pelle Kastner, thằng Eddi Sillus hay thằng Kurtchen Nickel nóng tính chẳng hạn. Có lẽ, họ quan tâm đến bọn chúng tôi như thế là vì, theo số liệu Ban Giám đốc đã thống kê, gần tám chục phần trăm những ai từng qua cải huấn trên đảo đây đều không tái phạm nữa. Nếu lão Joswig không khóa trái tôi vào phòng giam đây để viết cho bằng xong bài luận, thì bây giờ hẳn họ cũng đang bám theo tôi, dùng kính lúp khoa học của họ soi xét cuộc đời tôi và sẽ bóp đầu, xoa trán, cố vẽ cho bằng được một bức tranh về tôi. Nhưng tôi phải viết bù hai giờ Đức văn, phải nộp bài luận mà cả lão Tiến sĩ Korbjuhn gầy gò và rụt rè lẫn ông giám đốc Himpel của chúng tôi đang trông ngóng. Trên cù lao Hahnöfer-Sand cạnh đây - cũng nằm trên sông Elbe, hơi chếch về phía Twielenfleth Wischhafen, và cũng là nơi giam giữ và cải tạo tụi vị thành niên khó dạy giống như trên cù lao chúng tôi - chắc chuyện sẽ không thể như thế này. Mặc dù hai cù lao này rất giống nhau, mặc dù cả hai đều bị bao quanh bởi thứ nước loang váng dầu như nhau, mặc dù cả hai cù lao cùng chứng kiến những con tàu như nhau chạy qua, được cùng một đám hải âu ghé đậu, song trên cù lao Hahnöfer-Sand không có lão Tiến sĩ Korbjuhn, không có giờ Đức văn, không có những đề luận ghê gớm đến mức, tôi thề không nói ngoa chút nào, làm đa số bọn chúng tôi phải đau đớn về thể xác như thế này. Bởi vậy, nhiều đứa trong bọn chúng tôi mong được cải tạo trên cù lao Hahnöfer-Sand hơn, nơi tàu viễn dương trên đường ra biển chạy qua trước và cũng là nơi ngọn lửa phần phật ồn ào trên ống khói nhà máy lọc dầu luôn luôn vẫy chào từng người một ấy. Mời các bạn đón đọc Giờ Đức văn của tác giả Siegfried Lenz & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Mật Của Elfangor
Artisth Elfangor-Sirinial-Samtul từ bỏ cuộc chiến. Anh chán ngán chiến tranh. Anh đã khiến cho một tên Yeerk bẩn thỉu xâm chiếm được cơ thể hoàng tử Andalite của mình, tạo nên một quái vật, mà hiện giờ được gọi với cái tên là Visser Ba. Anh đã không thể cứu được người bạn, người chiến hữu của mình - lính nhỏ Arbron - giờ bị kẹt vĩnh viễn trong cơ thể của một tên Taxxon. Thảm họa chất chồng thảm họa. Thất bại nối tiếp thất bại. Giờ đây anh từ bỏ tất cả. Anh trốn chạy đến hành tinh có tên là Trái Đất cùng với Loren, cô gái loài người mà anh yêu thương. Anh sẽ biến thành con người, sống như một con người, biến mất tăm giữa những con người. Rất có thể, biết đâu đấy, bằng cách nào đó, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc. Nhưng anh vẫn còn sở hữu thứ vũ khí vĩ đại nhất của dải Ngân hà từ trước tới giờ. Đó chính là Vòng Xoáy Thời Gian. Vòng Xoáy Thời Gian có thể xuyên thời gian đi ngược về quá khứ giống như một con tàu vũ trụ có thể bay xuyên không gian vậy. Người nào có được nó sẽ có quyền năng ngoài sức tưởng tượng, người đó có thể quay trở về quá khứ và viết lại lịch sử. Sử dụng Vòng Xoáy Thời Gian, những giống loài hiện có trong dải ngân hà sẽ có thể bị huỷ diệt, có khi còn hơn cả là bị huỷ diệt: Chúng có thể được làm cho thành chưa bao giờ tồn tại nữa kìa. Nó có quá nhiều quyền năng như thế nên không thể tin tưởng trao nó cho bất cứ ai. Đặc biệt là, Elfangor cay đắng nghĩ, một kẻ thất bại như mình. Vòng Xoáy Thời Gian có hình cầu, cao hơn đầu người. Phá huỷ nó bằng những phương pháp vật lý thông thường là một điều bất khả thi. Nhưng anh có thể giấu nó đi, trong một khoảng thời gian, ít nhất là như thế. Anh tìm thấy một nơi trống trải, không có gì ngoài cây cối. Sử dụng những thiết bị mà bất cứ con người nào có thể dùng, anh đào một cái hố và lăn Vòng Xoáy Thời Gian xuống, lấp hố lại, rồi biến hình thành người. Hai giờ đồng hồ sau, anh không còn là người Andalite nữa. Anh cố tình bị kẹt trong lốt hình biến - con người. Mãi mãi là một con người, không còn đóng một vai trò nào nữa trong cuộc chiến dữ dội giữa người Andalite và loài Yeerk. Anh đã tự do. Hay là anh đã cho là như thế. Nhiều năm sau, anh trở lại đúng chỗ đó, nóng lòng muốn sử dụng Vòng Xoáy Thời Gian. Chỗ ấy đã trở thành một công trường xây dựng. Lần này, anh không thể trốn chạy được nữa. Thời gian của anh đã hết. Chỉ cần rướn người thêm vài mét nữa, chạm vào được thiết bị, anh sẽ có toàn bộ thời gian trên thế giới. ...   *** Megamorphs gồm có:  Megamorphs 1: Món Quà Của Người Andalite. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #1: The Andalite’s Gift. Ebook mới tương đương tập 44 cũ (Quái vật Sao Thổ) · Megamorphs 2: Thời Đại Khủng Long. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #2: In The Time of Dinosaurs. Ebook mới gồm hai phần:– Thời đại khủng long (tập 45 cũ)– Thảm hoạ sao chổi (tập 46 cũ) · Megamorphs 3: Bí Mật Của Elfangor.Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #3: Elfangor’s Secret. · Megamorphs 4: Trở Lại Những Ngày Đầu. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #4: Back to before. *** Katherine Alice Applegate là một nữ tác giả rất được ưa chuộng với: Animorphs, Remnants, Everworld, và hàng loạt cuốn sách khác, mặc dầu nhiều cuốn bị ảnh hưởng bởi phong cách viết của những tác giả khác. Hầu hết những cuốn sách phổ biến nhất của Applegate thuộc về thể loại khoa học viễn tưởng, phiêu lưu mạo hiểm. Bà đã giành được giải thưởng Sách mới hay nhất dành cho trẻ em năm 1997 của Publishers Weekly. Bộ truyện Animorphs của bà, vẫn đang nhận được sự hâm mộ nồng nhiệt của độc giả trẻ trong những năm gần đây. Applegate sinh ra ở Michigan năm 1956. Sau đó bà đã chuyển đến sống ở nhiều nơi như: Texas, Florida, California, Minnesota, Illinois, Bắc Carolina, và sau khi sống ở Pelago, Italy, một năm, bà đã chuyển đến sống ở: Nam California. Kể từ hồi còn thơ ấu, bà đã là một người yêu động vật, điều đó chính là lý do để bà viết bộ Animorphs và viết như thế nào. Như hầu hết mọi người bình thường khác, Applegate cũng có những ước mơ từ thời thơ ấu. Bà đã có mơ ước trở thành một bác sỹ thú y hoặc một nhà văn. Ở trong trường trung học, một phần mơ ước của bà đã trở thành sự thật, khi bà làm những công việc của một bác sỹ thú y. Giờ đây, khi đã trở thành một nhà văn, phần kia của mơ ước cũng đã trở thành sự thật. Một vài công việc mà bà đã làm là: nhân viên đánh máy, phục vụ bàn và trồng trọt. Điều đó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc viết sách. Bà đã nghiên cứu rất nhiều về động vật để viết những cuốn sách của mình. Ngoài việc viết văn, bà còn là một cây violoncello nghiệp dư. Applegate còn thích làm vườn, du lịch và tất nhiên là… đọc sách. Mời các bạn đón đọc Megamorphs Tập 3: Bí Mật Của Elfangor của tác giả Katherine Alice Applegate.
Thời Đại Khủng Long
  Tôi là Marco. Tôi đúng là một tên đại ngốc khi vô tình xem tin tức trên ti vi, và lại còn vô tình nghe cả câu chuyện tàu ngầm hạt nhân bị chìm nữa chứ. Bạn đã từng bao giờ ước chỉ cần học được cách câm miệng chưa? Tôi thì có rồi đó. Ít nhất là trong trường hợp này. Vì nếu tôi chỉ cần im như thóc thôi thì tôi đầu có cần phải cố gắng đẩy không khí qua lỗ phun nước giữa cơn bão dữ dội tạo nên những ngọn sóng cao đến chín mét trên đầu mình như lúc này đây. Nhưng có lẽ tôi cần phải quay ngược lại thời gian một chút. Và trước hết tôi cần phải giải thích tại sao tôi lại có lỗ phun nước cái đã. Tôi sẽ giải thích ngắn gọn thôi: Có vài chuyện đang xảy ra ở đây, ngay trên Trái Đất quen thuộc và tươi đẹp này; những chuyện mà chắc chắn hầu hết mọi người chưa bao giờ mơ thấy nữa luôn á; những chuyện mà nếu như bạn kể cho người khác nghe, họ sẽ bảo với bạn, “Ừ, rồi. Muốn mặc đồ của bệnh nhân tâm thần hả?” Chúng ta đang bị xâm lược. Không phải bởi những con tàu ngoài không gian được trang bị những ụ súng bắn tia lửa chíu chíu đâu nha. Ý tôi là… đúng về chuyện “tàu không gian”, nhưng hầu hết bọn Yeerks thường không sử dụng súng bắn tia. Yeerk là loài ký sinh giống như giun đũa hay chí rận vậy, hay giống mấy ông huấn luyện viên môn thể dục dụng cụ cho rằng bạn không chơi bóng rổ được chỉ vì bạn hơi bị “bất mãn” chiều cao. Nhưng loài Yeerk không có bò trên đầu của bạn giống như con chí mà chúng bò vào bên trong đầu của bạn. Nó trườn vào trong tai của bạn, rỉ ra một chất lỏng sền sệt vào trong não của bạn, tự ép mỏng cơ thể mình trám hết toàn bộ những khe nứt trong bộ não của bạn và từ đó kiểm soát bạn. Nó thậm chí có thể bắt bạn nghe nhạc của Kenny G. Tôi nói thật đấy, không phải giỡn chơi đâu. Tôi thường hay biến những thứ khiến tôi khó chịu thành trò đùa. Mà loài Yeerk là một trong những thứ đó. Một trong những người bị biến thành nô lệ của chúng chính là mẹ tôi. Cha con tôi nghĩ là mẹ đã chết. Nhưng, không, mẹ không chết. Ít nhất là tôi nghĩ vậy. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy mẹ thì mẹ vẫn còn sống. Và thực sự là lúc đó bà đang cố tiêu diệt tôi và các bạn của tôi. Có chuyện gì còn tệ hại hơn việc cứ biện minh này nọ kia chứ. Dù sao đi nữa thì cũng có tồn tại loài Yeerk. Bọn ký sinh này hoành hành khắp dải thiên hà tìm kiếm những vật chủ mới. Chúng kiểm soát người Gedd - loài sống chung hành tinh với chúng. Chúng khống chế luôn người Hork-Bajir và loài Taxxon. Và mục tiêu kế tiếp của chúng là Trái Đất và loài người. Vậy chuyện bọn Yeerk này có liên quan gì đến việc tôi có lỗ phun nước không ư? Thế này nhé, trong chuyện này còn có một giống loài khác nữa. Người Andalite đó. Người Andalite đang dàn mỏng lực lượng của mình ra và cố gắng chống trả lại bọn Yeerk. Một lực lượng đặc nhiệm Andalite bị đánh bại khi bay trong quỹ đạo Trái Đất. Hoàng tử Elfangor - một chiến binh trong đội đặc nhiệm - đã lái con tàu hạ cánh xuống Trái Đất. Và tôi cùng đám bạn đang xớ rớ gần đó đã tình cờ chứng kiến vụ va chạm này. Ông ấy trao cho tụi tôi quyền năng biến hình của người Andalite - khả năng hấp thụ ADN của bất kỳ loài động vật nào, và thực tế sau đó, hoàn toàn theo nghĩa đen, sẽ biến thành chính loài động vật đó. Tụi tôi sử dụng quyền năng đó để chiến đấu chống lại bọn Yeerk. “Tụi tôi” ở đây gồm có sáu đứa trẻ. Jake, vị thủ lĩnh can đảm và già trước tuổi; Cassie - bà lang thú - cô nhỏ chuyên môn bảo vệ môi trường và cây cối; Rachel - em họ của Jake - xinh đẹp mà cũng khùng hết biết; Tobias - một chú diều hâu chuyên ăn chuột;  thêm một tên nửa hươu nửa bọ cạp người Andalite, nghiện bánh quế, được tụi tôi gọi là Ax; và tôi, Marco, anh chàng nhạy cảm, thông thái, thanh lịch, bảnh trai. Lại còn khiêm tốn và trung thực nữa chứ. À mà tôi nói tôi duyên dáng chưa nhỉ? Dù sao đi nữa, vào một ngày Chủ nhật mưa dầm dề, tôi ở tịt trong nhà với ba coi tivi. Tôi ngồi thu lu trong chiếc ghế bành, dán mắt vào ti vi, tự hỏi không hiểu mình có đủ năng lượng để lết vô nhà bếp lấy thêm một ít món Doritos nữa hay không, thì mẩu tin tai hại đó xẹt đến. Một tàu ngầm hạt nhân được báo cáo đã gặp trục trặc khi kích hoạt lò phản ứng hạt nhân. Nó chìm mất tăm xuống đáy biển sâu. Các tàu cứu hộ và những đội thợ lặn đã có mặt đông đủ tại hiện trường, nhưng công việc của họ đang gặp nhiều khó khăn vì bão lớn hoành hành. Người ta không thể tìm ra vị trí của con tàu ngầm, trong khi nếu để lâu thì toàn bộ thuỷ thủ đoàn sẽ có nguy cơ bị nhiễm phóng xạ. “Ui trời ơi,” tôi rền rẫm. “Hừ,” ba tôi phụ họa. Ông đang nằm ườn trên trường kỷ và hẳn đang tự hỏi: liệu mình có đủ ý chí để lê bước vô nhà bếp lấy món Cheez Puffs khoái khẩu hay không. “Ừm...” Tôi e hèm. *** Megamorphs gồm có:  Megamorphs 1: Món Quà Của Người Andalite. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #1: The Andalite’s Gift. Ebook mới tương đương tập 44 cũ (Quái vật Sao Thổ) · Megamorphs 2: Thời Đại Khủng Long. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #2: In The Time of Dinosaurs. Ebook mới gồm hai phần:– Thời đại khủng long (tập 45 cũ)– Thảm hoạ sao chổi (tập 46 cũ) · Megamorphs 3: Bí Mật Của Elfangor.Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #3: Elfangor’s Secret. · Megamorphs 4: Trở Lại Những Ngày Đầu. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #4: Back to before. *** Katherine Alice Applegate là một nữ tác giả rất được ưa chuộng với: Animorphs, Remnants, Everworld, và hàng loạt cuốn sách khác, mặc dầu nhiều cuốn bị ảnh hưởng bởi phong cách viết của những tác giả khác. Hầu hết những cuốn sách phổ biến nhất của Applegate thuộc về thể loại khoa học viễn tưởng, phiêu lưu mạo hiểm. Bà đã giành được giải thưởng Sách mới hay nhất dành cho trẻ em năm 1997 của Publishers Weekly. Bộ truyện Animorphs của bà, vẫn đang nhận được sự hâm mộ nồng nhiệt của độc giả trẻ trong những năm gần đây. Applegate sinh ra ở Michigan năm 1956. Sau đó bà đã chuyển đến sống ở nhiều nơi như: Texas, Florida, California, Minnesota, Illinois, Bắc Carolina, và sau khi sống ở Pelago, Italy, một năm, bà đã chuyển đến sống ở: Nam California. Kể từ hồi còn thơ ấu, bà đã là một người yêu động vật, điều đó chính là lý do để bà viết bộ Animorphs và viết như thế nào. Như hầu hết mọi người bình thường khác, Applegate cũng có những ước mơ từ thời thơ ấu. Bà đã có mơ ước trở thành một bác sỹ thú y hoặc một nhà văn. Ở trong trường trung học, một phần mơ ước của bà đã trở thành sự thật, khi bà làm những công việc của một bác sỹ thú y. Giờ đây, khi đã trở thành một nhà văn, phần kia của mơ ước cũng đã trở thành sự thật. Một vài công việc mà bà đã làm là: nhân viên đánh máy, phục vụ bàn và trồng trọt. Điều đó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc viết sách. Bà đã nghiên cứu rất nhiều về động vật để viết những cuốn sách của mình. Ngoài việc viết văn, bà còn là một cây violoncello nghiệp dư. Applegate còn thích làm vườn, du lịch và tất nhiên là… đọc sách. Mời các bạn đón đọc Megamorphs Tập 2: Thời Đại Khủng Long của tác giả Katherine Alice Applegate.
Món Quà Của Người Andalite
MEGAMORPHS 1: MÓN QUÀ CỦA NGƯỜI ANDALITE 1. Người kể chuyện: Tất cả 6 thành viên Hội Animorph, từng người một. 2. Nội dung: Visser Ba mang từ Sao Thổ về Trái Đất một quái thú bụi, Veleek . Nó được huấn luyện chuyên săn đuổi năng lượng biến hình. Veleek được Hội Animorph đặt tên là “th ợ săn hình biến ”. Ax và Marco đã bị Veleek bắt được mang về tàu Lòng Chảo. Quyết tâm không để bí mật của Hội bị tiết lộ, tận dụng mọi sức mạnh của quyền năng biến hình - món quà do ông hoàng Andalite Elfangor trao tặng - sáu bạn trẻ đã phát hiện được điểm yếu của Veleek và tiêu diệt con “chó s ăn ” m ột cách hoàn hảo, đồng thời cũng bảo toàn được lực lượng.  3. Nhân vật quan trọng: Hội Người hoá thú: Jake, Marco, Rachel, Cassie, Tobias Ax Visser Ba Veleek - quái thú bụi 4. Những loài thú mới được thu nạp: Jake: Marco: Chuột Rachel: Cassie: Cá voi lưng gù Tobias: Ax: Chuột, Bọ chét 5. Những lốt hình được sử dụng: Jake: Sói, Cọp Siberi, Cá heo Marco: Chuột, Sói, Khỉ đột, Mòng biển, Cá heo Rachel: Đại bàng đầu bạc, Voi, Gấu xám, Cú sừng, Cá heo Cassie: Ruồi, Sóc, Cú sừng, Cá heo, Gián, Cá voi lưng gù Tobias: Ax: Chuột, Người, Diều mướp phương Bắc, Bọ chét. *** Tôi tên là Jake. Không có họ, hoặc ít nhất là tôi không thể nói cho các bạn biết họ của tôi. Tôi là một người hoá thú. Điều đó khiến tôi trở thành một trong những sinh vật nguy hiểm và bị săn đuổi trên Trái Đất. Bọn Yeerk muốn tôi chết. Chúng cũng muốn các bạn tôi chết. Do vậy, nếu chúng biết tôi là ai và biết tìm tôi ở đâu, ắt hẳn tôi chẳng còn cơ hội sống sót. Bởi vậy tôi không muốn nói cho các bạn biết họ của tôi và tôi đang sống ở thành phố nào, thuộc tiểu bang nào, tôi muốn tiếp tục được sống. Thế nên tôi phải chiến đấu chống lại bọn chúng. Bạn có hay nhìn lên bầu trời đêm và băn khoăn liệu có một sự sống nào tồn tại ở trên một vì sao nào đó không? Bạn có biết đến đĩa bay không? Bạn có từng nghĩ rằng người ngoài hành tinh sẽ tới viếng thăm Trái Đất chưa? Ồ, khỏi cần phân vân nữa. Bọn Yeerk đã tới đây, tới Trái Đất của chúng ta rồi. Chúng là một loài ký sinh - giống hệt như những con sên không vỏ. Bọn sên này bò vào trong đầu bạn qua đường lỗ tai, quấn chặt bộ não của bạn và buộc bạn phải làm những điều chúng muốn. Bạn sẽ bị mất chính con người bạn, bạn trở thành một kẻ bị Mượn xác. Tụi tôi gọi những người bị bọn Yeerk kiểm soát với cái tên như thế. Khi bạn nói chuyện với một kẻ bị Mượn xác, bạn có thể đang nhìn khuôn mặt anh ta, nghe anh ta nói nhưng thực chất là bạn đang nói chuyện với một tên Yeerk. Chúng ở khắp mọi nơi. Nếu bạn nghĩ rằng bạn chưa từng gặp chúng thì bạn nhầm to. Chúng có thể là một viên cảnh sát đang ngồi trong xe tuần tra, là một nhân viên bán hàng trong tiệm tạp hoá, có thể là thầy giáo của bạn, có thể là mục sư hay là bác sĩ của bạn cũng nên. Bố mẹ anh chị em hay bạn thân của bạn đều có thể là một tên bị Mượn xác. Tôi biết, anh trai tôi, Tom, là một kẻ bị Mượn xác. Chúng đã biến anh trai tôi thành kẻ thù của tôi. Mỗi sáng tôi ngồi ăn sáng và nói chuyện gẫu với Tom trong khi tôi biết rõ rằng Tom không còn là Tom của tôi nữa. Bọn Yeerk cũng bắt mất mẹ Marco, thằng bạn nối khố của tôi. Ai cũng nghĩ mẹ của Marco đã chết. Chỉ có nó và tôi biết sự thật: Bà ấy cũng là một người bị Mượn xác. Chúng ở khắp nơi, có thể là bất cứ ai. Chúng làm tanh bành cuộc sống chúng ta. Chúng làm những chuyện chẳng thể nói thành lời. Và chúng tôi, chỉ có sáu đứa tụi tôi - năm Animorphs và một người Andalite - biết về mối hiểm hoạ này, đơn thương chiến đấu chống lại chúng. Năm đứa trẻ với quyền năng biến hình, có thể biến thành bất cứ một con vật nào sau khi chạm tay vào nó. Và còn một đứa trẻ nữa từ hành tinh khác - một sinh vật pha trộn giữa hươu, người và bọ cạp - một Andalite. Sáu đứa tụi tôi chống lại bọn Yeerk, và trên hết là chống lại kẻ lãnh đạo chúng, một con quỷ ác độc. Hắn là Visser Ba. Chính vì những lý do này khiến Rachel cứ lo cuống cả lên khi nhỏ tính rời thành phố chỉ có hai ngày cuối tuần. Rachel phải đi xa có vài ngày cuối tuần, vậy mà nhỏ cứ cuống lên như gà mắc tóc. Tối thứ Sáu ấy, mấy đứa tụi tôi tụ lại trong Dưỡng đường Thú hoang - chỉ năm đứa thôi: Marco, Cassie, Tobias, Rachel và tôi. Ax không dự vì ảnh hổng muốn mất công biến thành người chỉ vì cái lý do không đâu này. “Thiệt nhảm hết sức. Mình đăng ký dự hội trại thể thao này từ xưa xửa xừa xưa mà. Tới hai ngày lận,” Rachel cao giọng. “Chẳng có gì hay ho. Mấy thứ đó mình đã làm đi làm lại đến phát ngán rồi.” “Rachel, bồ nên đi đi,” Cassie ôn tồn nói. “Ngoài những trận chiến ác liệt với Yeerk, tụi mình cũng phải làm những điều bình thường chứ. Vậy thì… hãy tham dự hội trại thể thao đó đi. Còn bây giờ, vui lòng nâng cái lồng quạ này lên kệ coi…” Tobias đang đậu trên rui nhà ca cẩm bằng giọng truyền ý nghĩ. Trong lốt diều hâu đuôi đỏ, cặp mắt của Tobias lúc nào cũng như đang giận dữ kinh khủng lắm, chẳng bù cho cậu Tobias nhút nhát, hiền lành trước kia… *** Megamorphs gồm có:  Megamorphs 1: Món Quà Của Người Andalite. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #1: The Andalite’s Gift. Ebook mới tương đương tập 44 cũ (Quái vật Sao Thổ) · Megamorphs 2: Thời Đại Khủng Long. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #2: In The Time of Dinosaurs. Ebook mới gồm hai phần:– Thời đại khủng long (tập 45 cũ)– Thảm hoạ sao chổi (tập 46 cũ) · Megamorphs 3: Bí Mật Của Elfangor.Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #3: Elfangor’s Secret. · Megamorphs 4: Trở Lại Những Ngày Đầu. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #4: Back to before. *** Katherine Alice Applegate là một nữ tác giả rất được ưa chuộng với: Animorphs, Remnants, Everworld, và hàng loạt cuốn sách khác, mặc dầu nhiều cuốn bị ảnh hưởng bởi phong cách viết của những tác giả khác. Hầu hết những cuốn sách phổ biến nhất của Applegate thuộc về thể loại khoa học viễn tưởng, phiêu lưu mạo hiểm. Bà đã giành được giải thưởng Sách mới hay nhất dành cho trẻ em năm 1997 của Publishers Weekly. Bộ truyện Animorphs của bà, vẫn đang nhận được sự hâm mộ nồng nhiệt của độc giả trẻ trong những năm gần đây. Applegate sinh ra ở Michigan năm 1956. Sau đó bà đã chuyển đến sống ở nhiều nơi như: Texas, Florida, California, Minnesota, Illinois, Bắc Carolina, và sau khi sống ở Pelago, Italy, một năm, bà đã chuyển đến sống ở: Nam California. Kể từ hồi còn thơ ấu, bà đã là một người yêu động vật, điều đó chính là lý do để bà viết bộ Animorphs và viết như thế nào. Như hầu hết mọi người bình thường khác, Applegate cũng có những ước mơ từ thời thơ ấu. Bà đã có mơ ước trở thành một bác sỹ thú y hoặc một nhà văn. Ở trong trường trung học, một phần mơ ước của bà đã trở thành sự thật, khi bà làm những công việc của một bác sỹ thú y. Giờ đây, khi đã trở thành một nhà văn, phần kia của mơ ước cũng đã trở thành sự thật. Một vài công việc mà bà đã làm là: nhân viên đánh máy, phục vụ bàn và trồng trọt. Điều đó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc viết sách. Bà đã nghiên cứu rất nhiều về động vật để viết những cuốn sách của mình. Ngoài việc viết văn, bà còn là một cây violoncello nghiệp dư. Applegate còn thích làm vườn, du lịch và tất nhiên là… đọc sách. Mời các bạn đón đọc Megamorphs Tập 1: Món Quà Của Người Andalite của tác giả Katherine Alice Applegate.
Người Ngoài Hành Tinh Qua Đời
... *** Biên Niên Sử Người Andalite gồm có: Tập 1: Chuyến Du Hành Của Elfangor. Nguyên tác: The Andalite Chronicles #1: Elfangor’s Journey. Ebook mới tương đương tập 1 – Bộ đặc biệt cũ (Thiên hà lâm nguy) Tập 2: Sự Lựa Chọn Của Hoàng Tử Alloran. Nguyên tác: The Andalite Chronicles #2: Alloran’s Choice. Ebook mới tương đương tập 2 – Bộ đặc biệt cũ (Một tỉ dặm sai lầm) Tập 3: Người Ngoài Hành Tinh Qua Đời.Nguyên tác: The Andalite Chronicles #3: An Alien Dies. Ebook mới tương đương tập 3 – Bộ đặc biệt cũ (Người lạ mặt qua đời). *** Katherine Alice Applegate là một nữ tác giả rất được ưa chuộng với: Animorphs, Remnants, Everworld, và hàng loạt cuốn sách khác, mặc dầu nhiều cuốn bị ảnh hưởng bởi phong cách viết của những tác giả khác. Hầu hết những cuốn sách phổ biến nhất của Applegate thuộc về thể loại khoa học viễn tưởng, phiêu lưu mạo hiểm. Bà đã giành được giải thưởng Sách mới hay nhất dành cho trẻ em năm 1997 của Publishers Weekly. Bộ truyện Animorphs của bà, vẫn đang nhận được sự hâm mộ nồng nhiệt của độc giả trẻ trong những năm gần đây. Applegate sinh ra ở Michigan năm 1956. Sau đó bà đã chuyển đến sống ở nhiều nơi như: Texas, Florida, California, Minnesota, Illinois, Bắc Carolina, và sau khi sống ở Pelago, Italy, một năm, bà đã chuyển đến sống ở: Nam California. Kể từ hồi còn thơ ấu, bà đã là một người yêu động vật, điều đó chính là lý do để bà viết bộ Animorphs và viết như thế nào. Như hầu hết mọi người bình thường khác, Applegate cũng có những ước mơ từ thời thơ ấu. Bà đã có mơ ước trở thành một bác sỹ thú y hoặc một nhà văn. Ở trong trường trung học, một phần mơ ước của bà đã trở thành sự thật, khi bà làm những công việc của một bác sỹ thú y. Giờ đây, khi đã trở thành một nhà văn, phần kia của mơ ước cũng đã trở thành sự thật. Một vài công việc mà bà đã làm là: nhân viên đánh máy, phục vụ bàn và trồng trọt. Điều đó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc viết sách. Bà đã nghiên cứu rất nhiều về động vật để viết những cuốn sách của mình. Ngoài việc viết văn, bà còn là một cây violoncello nghiệp dư. Applegate còn thích làm vườn, du lịch và tất nhiên là… đọc sách. Mời các bạn đón đọc Biên Niên Sử Người Andalite Tập 3: Người Ngoài Hành Tinh Qua Đời của tác giả Katherine Alice Applegate.