Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Căn Phòng Của Giovanni

Tóm tắt, Review và Đánh giá sách Căn Phòng Của Giovanni của tác giả James Baldwin & Đoàn Duy (dịch): Đặt bút viết Căn phòng của Giovanni là một quyết định liều lĩnh, nhưng là một quyết định tôi buộc lòng thực hiện, nhằm khai sáng cho bản thân về niềm tuyệt vọng khôn kham của thân phận hiện sinh và giải mã những chất liệu kỳ dị đã dệt thành bản ngã của tôi. Đây không chỉ là một tiểu thuyết về đề tài đồng tính, đồng tính đơn thuần là phương tiện chuyên chở những gì cuốn sách muốn truyền tải. Với cá nhân tôi, tính dục có mối liên hệ mật thiết với tâm lý con người, xung đột nội tâm về đạo đức, và ý chí lập nghiệp với tư cách một nhà văn. Nếu như không viết Căn phòng của Giovanni, có lẽ tôi sẽ không thể cầm bút viết một tác phẩm nào nữa... (James Baldwin) *** Ẩn dụ bao trùm cuốn sách này chắc chắn là căn phòng của chàng người tình Giovanni, nơi cậu và David ẩn náu, căn phòng nơi cuộc sống trong đó “như đang xảy ra trong lòng biển. Thời gian trôi qua hững hờ bên trên chúng tôi; ngày giờ nào còn ý nghĩa gì”. Một người đàn ông da đen trần truồng trong một khu vườn nguyên sơ tựa như quần đảo Taihiti nơi xa khơi của Paul Gauguin, người đàn ông đó ngồi vắt chân, vừa có vẻ thoải mái mà cũng vừa có vẻ gượng gạo, người đàn ông đó là James Baldwin, hay nói đúng hơn, bức chân dung mang tên Dark Rapture (Sự mê ly tăm tối) về nhà văn James Baldwin trong mắt họa sĩ Beauford Delaney, được vẽ theo trường phái Dã Thú với những đường cọ rốt ráo nhưng thiếu dứt khoát và màu sắc mãnh liệt nhưng bị xé lẻ. Delaney vẽ rất nhiều tranh về Baldwin, đến mức làm cả một hợp tuyển mang tên Chúa đã làm ra gương mặt tôi. Nhưng trong số những bức tranh ấy, có lẽ không một bức tranh nào soi tỏ tâm hồn Baldwin rõ ràng hơn bức tranh này: một người Negro mới như đã sẵn sàng phô bày mình triệt để nhưng vẫn còn đó những nghi vấn, những mặc cảm và tội lỗi không thể giãi bày. James Baldwin ra đời năm 1924. Tình cờ hay định mệnh, đó cũng là năm phong trào Phục Hưng Harlem1 chính thức khởi điểm, sau một bữa tiệc ở câu lạc bộ Civic tại New York do nhà xã hội học kiêm biên tập viên của tờ tập san Opportunity là Charles S. Johnson  tổ chức, với sự xuất hiện của hơn 100 văn sĩ cả da màu lẫn da trắng. Năm 13 tuổi, Baldwin có bài báo đầu tiên đăng trên tạp chí trường trung học, với tựa đề: “Harlem, ngày đó và bây giờ” Harlem, khu phố của người Mỹ gốc Phi, nơi những Langston Hughes, Martin Luther King, Malcolm X, Ralph Ellison, George và Ira Gershwin, Oscar Hammerstein, anh em nhà Marx, Louis Armstrong, Billie Holiday, Bud Powell, Duke Ellington, Fats Waller, Nina Simone đều từng một thời lưu trú, là mối quan tâm suốt đời của James Baldwin. Sau tiểu thuyết đầu tay Go tell it on the mountain lấy bối cảnh Harlem, độc giả chờ đợi tác phẩm thứ hai của James Baldwin cũng là một tiểu cảnh Harlem nữa, nhưng không, đến Giovanni’s Room (theo bản dịch của Đoàn Duy do NXB Hội Nhà Văn và Tao Đàn phát hành là Căn phòng của Giovanni), Baldwin thoát ly khỏi Harlem, thậm chí, khỏi nước Mỹ, đẩy nhân vật của ông đến Paris và Cựu lục địa, và nhân vật của ông, lần này, thậm chí còn không phải một người da đen, mà là một người đàn ông da trắng: “Tổ tiên tôi từng chinh phục một lục địa, băng qua những bình nguyên đầy chết chóc, cho tới khi họ đến một đại dương quay lưng lại châu Âu nhìn vào một quá khứ tăm tối hơn” – không phải một chủng tộc Caucasian thượng đẳng và kiêu hãnh, mà là những kẻ chinh phục đã vượt qua địa ngục để chỉ đành đoạt lấy một miền đất buồn. Đằng nào thì con người dù đội lốt ra sao, đen hay trắng, cũng không qua mặt được những nỗi đau tham lam đã rình sẵn để ngốn ngấu lấy họ. Giờ đây, David, một người đàn ông Mỹ da trắng quay lại nơi bắt đầu, để, như trong cuốn tiểu luận Một câu hỏi về danh tính mà Baldwin từng viết, “chịu đựng những ống nước tồi tàn của Paris, những nhà tắm công cộng, tuổi đời của Paris, và sự bẩn thỉu – để theo đuổi một điều kỳ cùng nào đó, bí ẩn và đa phần là không thể diễn giải rõ, mà có thể gói gọn lại một cách tùy tiện trong một động từ là học”. Dĩ nhiên, sự học mà ông nhắc đến ở tiểu luận này là làm một  sinh viên, còn trong Căn phòng của Giovanni, nhân vật chính đã học về những cặn lắng trong bản ngã của mình, anh thả mình vào một dung môi mới, để những cặn lắng cũ xưa nổi lên – anh bị kéo vào một cuộc tình không thể cưỡng bách với một chàng trai tên Giovanni, hay nói một cách không hoa mỹ, anh “come out” với những khát khao đồng tính. Niềm khao khát nhúc nhắc như một sinh vật biết trườn dần siết chặt lấy anh và nếu muốn thoát ra khỏi nó, anh chẳng còn cách nào khác ngoài cách giết bỏ nó. Lời đề tựa của Căn phòng của Giovanni được trích từ thơ Walt Whitman: “Tôi là con người, tôi đã khổ đau, tôi đã ở đó.” Nó khiến người ta nhớ đến câu đầu tiên trong lá thư tình bất hủ De Profundis của Oscar Wilde gửi người tình đồng tính của mình khi ông ngồi trong ngục thất: “Sự đau khổ là một khoảnh khắc rất dài. Chúng ta không thể chia nó theo các mùa. Chúng ta chỉ có thể lưu trữ những tâm trạng của nó, và biên niên ký lại mỗi lần nó trở về”. Cả hai tác phẩm đều là những lời tự thú, nhưng khác với Oscar Wilde, nhân vật của James Baldwin chịu nỗi đau của người không bị xét xử, người sẽ bị hành hình cuối cùng không phải là anh, thứ duy nhất mà anh phải hứng chịu là một sự yên ổn nằm ngoài sức chịu đựng. James Baldwin dắt ta đi một con đường vòng dài quanh co mà phong cảnh hai bên trải dài tít tắp những trạng huống bi kịch, không điểm tận cùng, không có đích, bởi với một kẻ phạm tội không bị xử tội thì đích cũng đồng nghĩa với sự trở về vạch xuất phát. Ẩn dụ bao trùm cuốn sách này chắc chắn là căn phòng của chàng người tình Giovanni, nơi cậu và David ẩn náu, căn phòng nơi cuộc sống trong đó “như đang xảy ra trong lòng biển. Thời gian trôi qua hững hờ bên trên chúng tôi; ngày giờ nào còn ý nghĩa gì”. Trong văn chương, những căn phòng hoặc là chứa đựng một bí mật kinh hoàng hoặc là một thiên đường kỳ diệu. Căn phòng của Giovanni là cả hai điều đó. Căn phòng ấy là một mật thất của một tình yêu bị cấm, cũng là một tầng hầm của những giấc mơ đóng bụi. Những vách ngăn của căn phòng vừa là nơi trú ngụ và cư lưu, vừa là song sắt chắn giữ không để những say đắm lọt ra ngoài; rồi đến một ngày, căn phòng ấy cũng chính là lăng mộ chôn sống đối tượng của sự say đắm ấy. Phải, dường như Giovanni không phải đợi đến khi bị xử tử mới chết đi, cậu đã chết ngay trong căn phòng của mình vào lần cuối mà David bước vào đó, dưới ánh nắng lóa mắt ngập tràn chiếu lên thân thể cậu trần truồng, trắng bệch và bại hoại. Khi James Baldwin quyết định di cư sang Paris vào năm 24 tuổi, ông nói không muốn mình được đọc “chỉ như một người da đen; hay, thậm chí, chỉ như một cây bút da đen”. Có lẽ đó là một phần nguyên nhân khiến Căn phòng của  Giovanni là một cuốn sách toàn-tập-trắng. Nhưng chính qua sự phản tư của một người đàn ông da trắng bỗng thấy mình bị dạt ra vùng biên và lâm vào tình thế “đồng tính”, anh ta sẽ chiêm ngưỡng thế giới bị màu đen chiếm lấp ra sao. Màu đen không chỉ là một màu da, một dòng giống, một tộc người, mà ở đây, nó hiện diện trong bóng tối, trong những ngày nhập nhoạng Paris, trong một cuộc sống lấp liếm bên dưới bề mặt đời sống thường nhật, trong nỗi âu lo ngột ngạt bị phát giác, trong chính căn hầm mục rữa của tâm hồn anh, nó là tất cả những gì đối lập với ánh sáng lóa mắt của một người đàn ông da trắng dị tính. Thay vì vạch ra biên giới của màu đen, James Baldwin vạch ra biên giới của những gì không phải là màu đen, và trong khi màu trắng (sự sáng tỏ) ngày càng co cụm lại trong nỗi ân hận của mình thì màu đen (sự che đậy) của những nỗi thống khổ ngày càng dâng cao vời vợi. Vậy là, sẽ có lúc, ngay cả một người da trắng cũng sẽ sa vào bóng đen, ngay cả một kẻ ở trung tâm cũng sẽ thấy mình đã mất phương hướng và kẹt ở phía ngoại vi. Đen – trắng, đồng tính – dị tính, chúng chỉ là ẩn dụ của những xung đột giữa sự thật về con người và những kỳ vọng không tưởng mà ngoại cảnh áp đặt lên con người. Nhưng để làm gì? Đằng nào thì con người dù đội lốt ra sao, đen hay trắng, cũng không qua mặt được những nỗi đau tham lam đã rình sẵn để ngốn ngấu lấy họ. *** Tôi đứng bên cửa sổ ngôi nhà lớn này ở miền nam nước Pháp khi đêm xuống, cái đêm dẫn lối tôi đến buổi sáng kinh khủng nhất đời mình. Tôi cầm trên tay ly rượu, chai rượu cặp giữa khoeo tay. Tôi quan sát bóng mình trong khung cửa sổ lấp loáng đương tối dần. Cái bóng của tôi cao, có lẽ khá giống một mũi tên, mái tóc vàng lấp loáng. Khuôn mặt tôi giống một khuôn mặt bạn đã gặp nhiều lần. Tổ tiên tôi từng chinh phục một lục địa, băng qua những bình nguyên đầy chết chóc, cho tới khi họ đến một đại dương quay lưng lại châu Âu nhìn vào một quá khứ tăm tối hơn. Tôi có thể say trước khi trời sáng, nhưng sẽ chẳng ích gì. Kiểu gì tôi cũng sẽ bắt tàu đi Paris. Chuyến tàu sẽ vẫn vậy, những hành khách xoay xở trên những băng ghế gỗ thẳng lưng của toa hạng ba để được thoải mái, thậm chí giữ thể diện, sẽ vẫn vậy, và tôi sẽ y vậy. Chúng tôi sẽ lướt qua vẫn phong cảnh đồng quê không ngừng thay đổi ấy, để lên phía bắc, bỏ lại sau lưng những hàng ô-liu, biển cả và mọi vẻ huy hoàng của bầu trời miền nam giông bão, để tiến vào vùng mưa khói của Paris. Ai đó sẽ mời tôi ăn chung sandwich, ai đó sẽ mời tôi nhấp ngụm rượu vang, ai đó sẽ hỏi xin tôi tí lửa. Người người sẽ tha thẩn ngoài hành lang bên ngoài, nhìn ra cửa sổ, nhìn ngó chúng tôi. Đến mỗi ga, đám tân binh quân phục nâu thùng thình đầu đội mũ màu sẽ mở cửa dòm vào và hỏi Complet?1 Tất cả sẽ gật đầu Phải, như đồng lõa, yếu ớt mỉm cười với nhau khi họ đi khắp tàu. Hai hay ba người sẽ dừng bước trước cửa khoang chúng tôi, hét vào mặt nhau bằng chất giọng nặng nề, tục tĩu, hút thứ điếu nhà binh kinh tởm. Sẽ có một cô gái ngồi đối diện, tự nhủ sao tôi không ve vãn nàng, sẽ bồn chồn trước sự hiện diện của đám tân binh. Tất cả sẽ vẫn vậy, chỉ có tôi là nín lặng hơn. Và miền quê đêm nay cũng nín lặng, miền quê này phản chiếu xuyên qua hình ảnh của tôi trên tấm kính. Ngôi nhà này ở ngay bên ngoài một khu nghỉ dưỡng mùa hè nhỏ bé - vốn hãy còn trống vắng, mùa nghỉ vẫn chưa bắt đầu. Nó nằm trên một ngọn đồi nhỏ, ta có thể nhìn xuống những ngọn đèn phố thị và nghe thấy tiếng thình thịch của biển. Bạn gái tôi, Hella, và tôi thuê ngôi nhà này ở Paris sau khi xem mấy tấm ảnh chụp cách đây mấy tháng. Giờ thì nàng đã đi được một tuần. Giờ nàng đang ở ngoài khơi, trên đường quay về Mỹ. Tôi có thể thấy nàng, rất đỗi thanh lịch, căng thẳng, lấp lánh, bao quanh là ánh đèn vốn đang lấp đầy khách sảnh trên con tàu viễn dương, nốc rượu ừng ực, cười cợt, và quan sát bọn đàn ông. Đó là cách tôi gặp nàng trước đây, trong một quán bar ở Saint- Germain-des-Prés, khi ấy nàng đang uống rượu và quan sát, đó cũng là lý do tại sao tôi thích nàng, tôi đã tưởng nàng hẳn sẽ là người vui nhộn để cùng vui thú. Đó là cách chuyện này khởi sự, toàn bộ chuyện này chỉ có ý nghĩa đến thế là cùng; mặc cho mọi sự, giờ đây tôi không chắc rằng nó có bao giờ thực sự có ý nghĩa nhiều hơn thế đối với tôi không. Và tôi không nghĩ nó có bao giờ thực sự mang nhiều ý nghĩa hơn thế đối với nàng - ít nhất là không cho đến khi nàng làm một chuyến tới Tây Ban Nha, và có lẽ khi thấy mình cô độc, nàng bắt đầu tự vấn rằng liệu cả một đời uống rượu và quan sát đàn ông có phải chính xác là thứ nàng muốn. Nhưng tới lúc đó thì quá trễ tràng. Tôi đã ở cùng với Giovanni rồi. Tôi đã cầu hôn nàng trước khi nàng lên đường đi Tây Ban Nha; và nàng bật cười rồi tôi bật cười nhưng chuyện đó, vì lẽ nào đấy lại làm cho mọi thứ trở nên nghiêm trọng hơn đối với tôi, bao giờ củng thế, và tôi cứ kiên trì; rồi sau đó nàng bảo nàng sẽ phải đi khỏi đây và nghĩ về chuyện đó. Và ngay vào đêm cuối cùng nàng ở đây, ngay lần cuối cùng tôi gặp nàng, khi nàng đang gói ghém đồ đạc, tôi bảo nàng rằng tôi đã từng yêu nàng và tôi khiến bản thân mình tin là vậy. Nhưng tôi tự hỏi liệu có đúng thế không. Khi ấy hẳn là tôi đang nghĩ về những đêm của chúng tôi trên giường, về sự ngây thơ và sự tự tin đến dị kỳ, vốn sẽ không bao giờ trở lại, vốn là thứ làm cho những đêm ấy trở nên quá sức khoái cảm, quá sức khập khiễng với quá khứ, hiện tại, hay bất kỳ thứ gì sẽ đến, và rốt cục quá sức khập khiễng với cuộc đời tôi vì tôi thấy mình không cần đảm lấy bất kỳ trách nhiệm nào ngoại trừ trách nhiệm máy móc nhất cho những đêm đó. Và những đêm này được thực hiện dưới một bầu trời ngoại quốc, không ai trông chừng, không án phạt nào kèm theo - chính cái sự sau cuối này dẫn đến sụp đổ giữa chúng tôi, bởi không gì khôn kham hơn sự tự do, một khi ta đã có nó. Tôi cho đây là lý do tại sao tôi cầu hôn nàng: để ban cho chính tôi một thứ mà neo vào. Có lẽ đây là lý do tại sao, ở Tây Ban Nha, nàng quyết định là nàng muốn cưới tôi. Nhưng buồn thay, người ta đâu thể nào chế ra cột neo, chế ra tình nhân và bạn hữu, giống như họ đâu thể chế ra cha mẹ mình. Đời trao những thứ này rồi lại lấy chúng đi và điều khó khăn ghê gớm là nói Vàng với đời. Mời các bạn mượn đọc sách Căn Phòng Của Giovanni của tác giả James Baldwin & Đoàn Duy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sống
Tác phẩm của Dư Hoa đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như Anh, Pháp, Đức, ý, Tây Ban Nha, Hà Lan, Nhật Bản và Hàn Quốc. Truyện vừa Sống được nhà đạo diễn tầm cỡ quốc tế ngươì Trung Quốc Trương Nghệ Mưu dựng thành phim cùng tên, gây xôn xao dư luận một thời, làm xúc động hàng triệu triệu người xem trong và ngoài nước bởi khả nǎng chịu đựng của con người trước khổ đau hoạn nạn và thái độ lạc quan đối với thế giới. Sống đã được giải Mười cuốn sách hay của Thời báo Trung Quốc, giả Mười cuốn sách hay của Tạp chí Bác ích và giải thưởng vǎn học Gelin Thana Kapo của Ý *** Không thể tin được rằng, có một cuốn sách nào thực thà, tận cùng, vẹn nguyên đến chừng ấy... “Sống” là có lẽ là cuốn sách làm tôi khóc nhiều nhất từ trước đến giờ. Tôi đã khóc từ những trang đầu tiên cho đến tận trang cuối cùng của cuốn sách. Nỗi ám ảnh triền miên kéo dài sau đó. Tôi không thể tin được rằng, có một cuốn sách nào thực thà, tận cùng, vẹn nguyên đến chừng ấy.   “Sống” tái hiện trước mắt độc giả cuộc đời đầy biến động, thăng trầm với những giây phút giây đau khổ tột cùng và hạnh phúc mong manh của người nông phu Phú Quý. Phú Quý từ một công tử nhà giàu ham chơi, hư đốn đã biến thành một kẻ nghèo hèn, tận cùng xã hội, phải làm thuê trên chính đất đai của mình, chỉ vì một canh bạc. Trở về cuộc sống nghèo khổ, hàng ngày phải vật vã kiếm sống, nhưng anh lại từ cuộc sống cơ hàn ấy mà nhận ra tình yêu thương vô bờ bến của người vợ yêu quý, Gia Trân. Anh đã tưởng rằng, từ đây, dù nghèo khổ nhưng anh sẽ được thanh thản và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời bắt đầu như một sợi dây thừng thít cổ anh bằng những đau đớn, những mất mát, thương tổn tột cùng. Anh dần mất đi những người thương mến nhất đời mình. Người vợ Gia Trân chết vì bệnh nhũn xương. Con gái Phượng Hà chết vì sinh khó. Con trai Hữu Khánh chết vì bị lấy quá nhiều máu. Con rể Nhị Hỷ chết vì tai nạn bốc vác. Đứa cháu trai duy nhất, Khổ Căn rồi cũng bỏ ông mà đi, vì bội thực đậu luộc.   Sức lực của ông cứ bị mài mòn mãi đi, mài mòn cho đến tận cùng tâm hồn vì những sự ra đi đau đớn ấy. Có khi nào ông tự hỏi, cái đói cái nghèo chính là nguyên nhân của những hoàn cảnh bi ai ấy không hay ông nghĩ đó là sự trừng phạt của số phận, là sự oan nghiệt mà bất kì ai sống trên cuộc đời này cũng phải trải qua. Nhưng đáp lại ông chỉ là câm lặng đến ngàn đời. Thời gian cứ đằng đẵng trôi đi, cứ tàn nhẫn cướp đi của ông những hạnh phúc nhỏ nhoi, để trả lại là ngàn ngàn đắng cay. Đi đến gần hết cuộc đời, người đàn ông ấy lại chỉ lủi thủi một mình với con trâu già. Cô độc. Cô độc đến đỉnh điểm. Những giọt nước mắt nghẹn lại qua từng trang giấy mỏng mảnh. Ranh giới giữa hạnh phúc và đau đớn chưa bao giờ mong manh, nhỏ bé đến như vậy. Tôi chưa bao giờ sợ hãi, lo lắng như vậy khi lật từng trang giấy của “Sống”. Chỉ sợ rằng, chút hạnh phúc mà họ vừa mới nhận được sẽ tan đi như khói mây, để ập đến bên đời họ là bất hạnh. Mắt tôi nhòe đi trong cái khoảnh khắc người con trai gầy gò bé nhỏ Hữu Khánh của gia đình Phú Quý ngây ngô để người ta rút đến cạn kiệt máu trong cơ thể bé mọn của mình chỉ vì để cứu vợ của chủ tịch. Chút hạnh phúc mà gia đình Phú Quý có được khi Hữu Khánh được giải nhất cuộc thi chạy đã tan đi vội vã. Thấy mình đờ đẫn, căm giận, quặn đau. Thấy bàn tay trên trang giấy đã buông ra từ khi nào. Cuộc sống trôi nổi, càng trôi nổi. Chút vui được nhen nhóm lên từ trong mất mát đã bị chết yểu vào những giây phút tưởng như hạnh phúc nhất. Người cha khốn khổ đã âm thầm chịu đựng nỗi đau ấy, và âm thầm đón nhận những nỗi đau khác ập đến. Cảnh người con gái câm Phượng Hà rên rỉ, đau đớn để rồi chết vì mất nhiều máu quá khi sinh con đã đẩy sự bất hạnh đến cực điểm của nó. Tôi chưa bao giờ căm giận số phận khủng khiếp như giây phút ấy. Những gì nghiệt ngã nhất đã xảy ra. Vĩnh viễn chìm trong câm lặng. Giọt nước mắt đau khổ đã ngưng cạn, đã đóng đặc thành một khối u ẩn giấu trong lồng ngực. Tôi cũng cảm giác như Phú Quý đã không còn chút sức lực nào để sống nữa. Chính tôi cũng tưởng như trái tim mình ngừng đập, như chính mình đang đi giữa cuộc sống ấy, bất hạnh ấy, đau đớn ấy.   Tôi không còn chút cảm giác nào với hơi thở của chính mình. Nhưng ông vẫn sống, vẫn sống dai dẳng với cuộc đời này, như chờ đợi, như thách thức, như gặm nhấm. Có lẽ, đã đủ đau đớn nên người ta không còn cảm thấy sợ sống nữa. Một đời người đã trải qua tất cả hỉ, nộ, ái, ố của để rồi cuối cùng bơ vơ, nhưng chưa một giây phút nào ông ngừng sống. Ông chờ đợi từng ngày cho sự ra đi của mình trong lặng lẽ. Tôi chỉ biết khóc, vì bản thân đã không thể nào chịu đựng được những đau đớn ấy. Tôi lặng im vì mọi ngôn ngữ đều bất lực khi diễn ta nỗi đớn đau và bất hạnh.   Hình ảnh người đàn ông già nua lững thững bên con trâu cũng già như ông khiến tôi vĩnh viễn không thể nào quên được. Tôi ghi nhớ nó trong cuộc sống của mình như để nhắc nhở chính bản thân mình. Bước vào cuộc sống của những nhân vật trong câu chuyện ấy, tôi thấy mình nhỏ bé, hạnh phúc và may mắn. Trong hoang mang tận cùng, tôi vẫn tự dặn lòng mình phải sống, phải sống… Tác phẩm “Sống” của Dư Hoa thực sự đã đi đến tận cùng hai chữ “cuộc sống” mà chúng ta đôi khi cố công định nghĩa. Thế thôi, “Sống” đã đủ đầy, trọn vẹn, và bất tử. Trương Nghệ Mưu đã đưa “Sống” của Dư Hoa lên phim, với một kết thúc có hậu cho cuộc đời oan nghiệt của Phú Quý, như để cứu vớt trong lòng mỗi con người chúng ta một chút niềm tin còn sót lại. Khi bộ phim ấy kết thúc, nhìn Phú Quý hạnh phúc bên đứa cháu của mình, tôi lại xót xa nghĩ về một Phú Quý cô độc trên trang giấy của Dư Hoa. Nhưng ít ra, tôi đã có thể khóc nhẹ nhàng hơn… *** Lúc còn trẻ hơn bây giờ mười tuổi, tôi được giao cho một nghề rong chơi nhàn lắm: Về các vùng quê thu thập ca dao dân gian. Cả mùa hè năm ấy, tôi như một con chim sẻ bay tung tăng, rong ruổi trên đồng quê thôn xóm ăm ắp tiếng ve sầu và ánh nắng. Tôi thích uống nước trà có vị đắng của nông dân. Họ để thùng nước trà ở dưới bóng cây bên bờ ruộng. Tôi cứ việc cầm cái bát bám cáu trà đen nhẻm múc nước uống tự nhiên, lại còn rót đầy một bình toong của mình, nói với cánh đàn ông trên ruộng dăm ba câu vớ vẩn, rồi đi thẳng trong tiếng cười khúc khích vì tôi của các cô gái. Tôi đã từng nói chuyện với một ông già coi ruộng dưa cả một buổi chiều. Đây là lần tôi được ăn dưa nhiều nhất trong đời. Khi tôi đứng lên chào tạm biệt, đột nhiên phát hiện mình bước đi khó khăn như người đàn bà chửa. Sau đó, tôi ngồi ở ngưỡng cửa với một người phụ nữ đã lên chức bà nội. Bà vừa bện giày cỏ, vừa hát cho tôi nghe bài “Tháng mười mang thai”. Tôi thích nhất là vào lúc chiều tối, ngồi trước nhà nông dân, nhìn họ té nước giếng lên sân cho bụi khỏi bay lên, ánh nắng cuối ngày lung lay nhè nhẹ trên ngọn cây; tôi cầm cái quạt họ đưa cho, nếm miếng dưa nén của họ mằn mặn như muối, nhìn cô gái nào đó, nghe mấy bà già kể chuyện ngày xửa ngày xưa. Mùa hè ấy suýt nữa tôi còn lao vào một chuyện tình. Tôi gặp một cô thôn nữ xinh xinh thinh thích, mãi bây giờ khuôn mặt trái xoan bánh mật của cô ấy vẫn còn lấp lánh trước mắt tôi. Lúc tôi gặp cô ấy, thì cô ấy đang xắn ống quần ngồi trên bãi cỏ xanh bên bờ sông, tay cầm một cái roi tre, chăn đàn vịt béo mủm mĩm. Cô gái mười sáu mười bảy tuổi này đã e thẹn nói chuyện với tôi suốt một buổi chiều nóng nực. Tôi nhìn cô ấy len lén bỏ ống quần xuống, giấu che ngón chân đi đất của mình vào lùm cỏ. Chiều hôm ấy tôi tán dóc lắm, rêu rao kế hoạch sẽ đưa cô ấy đi chơi ở các nơi như thế nào. Cô ấy vừa ngạc nhiên vừa mừng. Lúc đang cơn say sưa, quả là tôi cũng đã nói những câu thật lòng. Có điều ở bên cô ấy, chỉ cảm thấy thâm tâm mình vui vẻ, chứ không suy nghĩ sau này sẽ ra sao. Nhưng sau đó, ba người anh trai lực lưỡng khỏe như trâu của cô ấy đi đến, tôi mới giật nảy người, cảm thấy mình nên vĩnh biệt cô gái đáng yêu này; nếu không, tôi sẽ chẳng thể tránh khỏi việc lấy cô ấy làm vợ. Tôi bỏ đi với dáng dấp thế này: Đầu đội mũ lá rộng vành, chân đi dép lê, một cái khăn mặt giắt vào thắt lưng da ở đằng sau như cái đuôi đập vào mông. Tôi há to mồm ngáp một cái, bước tản mạn trên con đường mòn. Đôi dép lê của tôi cứ lạch bạch lạch bạch, hất tung bụi đường, y như cảnh lúc bánh xe lăn qua. Mời các bạn đón đọc Sống của tác giả Dư Hoa.
Ở Đâu Đó Có Điện Thoại Gọi Tôi
Đây là quyển sách đầu tiên mà tôi đọc của Shin Kyung Sook, mặc dù lúc đó cô đã rất nổi tiếng tại Việt Nam qua quyển "Hãy chăm sóc mẹ". Nhưng điều khiến tôi chọn quyển sách này, trong vô số quyển sách có tại nhà sách Phương Nam gần ngôi chợ Đà Lạt lúc đó, không hề dính dáng gì đến sự nổi tiếng của Shin Kyung Sook. Tôi chọn sách này mang theo trong hành trình bất chợt của mình vì lời văn ở những trang đầu tiên quá đẹp, quá đỗi khiến người ta rung động đến độ không thể bỏ qua. Và càng đọc, tôi càng tự hỏi, vì sao quyển sách có thể sánh với Rừng Nauy thế này dường như lại ít được giới thiệu. Hay vì nó được giới thiệu ở đâu đó mà tôi không hề hay biết? Có thể là vậy chăng? Là quyển tiểu thuyết thứ 7 của Shin Kuyng Sook – "Ở đâu đó có điện thoại gọi tôi" chọn một chủ đề tương tự như Rừng Na Uy của Haruki Murakami, chỉ khác bối cảnh của nó diễn ra ở Hàn Quốc, những năm 80. Và một lần nữa, người ta trông thấy nỗi buồn, sự hoang mang đan xen niềm tin yêu, khát vọng, ngây thơ của tuổi trẻ. Tất cả được thể hiện một cách vẹn toàn và rực rỡ qua giọng kể mang đậm tính hướng nội của nhân vật tôi trong truyện. Câu chuyện của "Ở đâu đó có điện thoại gọi tôi" bắt đầu một cách nhẹ nhàng, như một viên sỏi nhỏ ném xuống mặt hồ phẳng lặng, một cú điện thoại từ nơi nào gọi đến cho nhân vật "tôi". Cú điện thoại bắt nguồn từ anh, một người tám năm không gặp, để báo cho cô biết người thầy mà họ từng thân thiết thời sinh viên giờ sắp qua đời. Cú điện thoại gợi lại cho nhân vật tôi những gì đã chìm sâu dưới mặt hồ. Rồi mỗi lúc kí ức mỗi về tràn về một cách chân thực. Để rồi người đọc đắm chìm trong những kỉ niệm sâu sắc của nhân vật tôi: “Vào lúc đó, ở nơi đó, nếu không gặp được họ, tôi làm cách nào trải qua những ngày tháng ấy đây?” Tôi, người kể nên câu chuyện của mình là một cô gái cô phần nào cô độc, mang trong mình nỗi day dứt vì không được sống cùng người mẹ đang bệnh nặng của mình. Cô đến thành phố, ở nhà chị họ, học một trường nghệ thuật, ở trong một căn phòng tự tay dán kín cửa sổ. Ở đó, cô gặp anh, con người chín chắn, ấm áp và trông thấy cô giữa trăm ngàn người, thấy vẻ đẹp bên trong ẩn sâu sự chật vật của cô. Ở ngôi trường nghệ thuật đó, cô gái nhỏ gặp người thầy gầy gò mà hiền từ, người đã đặt ra câu hỏi cho vô số sinh viên hay cho chính mình: trong thời đại này thì nghệ thuật có thể làm gì? Cũng tại nơi đó, trong thời thanh xuân cô gặp cô gái xinh đẹp ấy, cô gái luôn tự giấu đi đôi tay bị thiêu cháy. Và thanh xuân của cô, có một cậu bạn thầm thích cô, cậu bạn trong quân ngũ viết cho cô những bức thư đầy nhiệt huyết tuổi trẻ. Cuối cùng, sự ra đi của cậu không lời giải thích. Cùng nhau trải qua thanh xuân trong niềm dự cảm “sẽ không có ngày nào diễn ra hai lần”, trong những ngày xã hội hoang mang, đầy những cuộc biểu tình và biến động. Họ chỉ cùng nhau ăn cơm, đi bụi, lắng nghe nhau và kể chuyện, trong lúc lòng mỗi người đều âm ỉ sóng ngầm. Họ đã tìm thấy nhau. Rồi đánh mất nhau. Như bao câu chuyện đời thường khác. Mà sự tìm thấy và đánh mất đó mang ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Shin Kyung Sook đã chinh phục người đọc qua giọng văn như rút ruột của mình, tuy nhiên trong quyển tiểu thuyết này, khả năng viết và kiến tạo câu chuyện của cô đã vượt qua được lối “tự sự cá nhân”, phát triển thành một thế giới riêng hoàn chỉnh, trở thành một câu chuyện của chính nó, chứ không còn là một câu chuyện của tác giả. Sự đánh mất và tìm thấy của câu chuyện mang ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Như người ta cô độc để mạnh mẽ, đánh mất để tìm thấy, đó là những điều mà người ta phải dùng thanh xuân của mình để trải qua. Những trích đoạn hay trong tác phẩm: Thuộc tính của ký ức chính là chỉ nhớ thứ mình muốn nhớ. Hình ảnh mà ký ức gợi lại xen lẫn trong cuộc sống của chúng ta, bởi vậy đừng bao giờ tin ký ức của ta hay của ai đó là chuyện thực đã xảy ra. Nếu có người khăng khăng nhấn mạnh rằng Tôi đã nhìn thấy tận mắt, thì ta biết trong lời nói ấy trộn lẫn cả niềm hy vọng của chính người đó, và trái tim anh ta cất giấu mong muốn coi đó là sự thật. ... Tôi từng cho rằng việc hiểu rõ về nhau và cùng nắm giữ một bí mật nào đó, sẽ làm cho mối quan hệ thêm gắn bó. Tôi cũng từng vì muốn làm thân với một người mà thổ lộ cả những bí mật không thể nói.Để rồi đến ngày hôm sau, chứng kiến cái bí mật quý giá mà mình vốn chỉ cất giữ trong tim ấy bỗng chốc được truyền từ miệng người này sang miệng người khác, tôi đã thấy vô cùng mất mát.Tôi đã nghĩ rằng, biết đâu việc thổ lộ tấm lòng với một ai đó, không làm chúng ta trở nên thân thiết hơn, mà chỉ khiến bản thân khó xử.Biết đâu để trở nên gần gũi với một ai đó, ngược lại chỉ cần cùng đồng cảm trong yên lặng mà thôi. ... Tôi nghĩ rằng: Thời khắc đau khổ nhất của con người là khi không có ai để nghĩ tới. ... Giá như có ai hứa với mình thì tốt biết mấy. Rằng không có việc gì là vô nghĩa. Giá như có điều gì đó như là lời hứa để tin thì tốt biết mấy. Rằng sau quãng thời gian khủng khiếp, bất an, cô độc vì bị ruồng bỏ, sẽ có sự thay đổi nào đó... *** Shin Kyung-sook sinh năm 1963 trong một gia đình nghèo sống tại một ngôi làng nhỏ ở miền Nam Hàn Quốc. Không có điều kiện vào trường trung học, mười sáu tuổi cô lên Seoul lao động kiếm sống. Shin Kyung-sook khởi nghiệp viết văn năm 1985 và sớm gặt hái thành công. Các tác phẩm của cô luôn có lượng độc giả lớn và nhận được nhiều giải thưởng văn học trong nước cũng như trong khu vực. Với Hãy chăm sóc mẹ Shin Kyung-sook trở thành nhà văn châu Á nổi bật nhất năm 2009. Tác phẩm: Hãy chăm sóc mẹ Ở Đâu Đó Có Điện Thoại Gọi Tôi Chuyện kể trăng nghe Cô gái viết nỗi cô đơn ... *** Anh. Đến. Đó. Nhé? Đến tám năm rồi anh mới gọi điện thoại cho tôi. Tôi nhận ra ngay giọng anh. Tiếng "Alô" ở đầu dây bên kia vừa dứt, tôi liền hỏi: Anh đang ở đâu? Và anh lặng thinh. Tám năm, một quãng thời gian dài. Nếu lấy một giờ đồng hồ làm đơn vị rồi gỡ quãng thời gian ấy ra, có lẽ sẽ được một con số khổng lồ nằm ngoài tưởng tượng. Nói là tám năm, nhưng tám năm trước, chúng tôi đã từng gặp gỡ, từng nhìn về những hướng khác nhau, từng nhẹ nhàng nắm tay, rồi buông tay, vì điều gì chẳng còn nhớ nữa. Tất cả là vậy.   Tôi không còn nhớ đấy là đâu. Chỉ nhớ vào một đêm mùa hè, đã quá nửa đêm, trước một cầu thang dốc đứng nơi ngõ ngách sâu hoắm nào đó trong thành phố này. Tôi đã tiến đến và nắm lấy tay anh. Ngay gần đó là một cửa hàng hoa quả, hương mận thoảng đến rồi thoảng đi trong bầu không khí hầm hập đặc quánh. Tôi nắm tay anh rồi buông tay thay cho lời từ biệt. Còn anh không biết lúc đó đang suy nghĩ gì. Những điều tôi muốn nói với anh đọng lại trong lòng như những hạt ngọc trai. Tôi chẳng thể nói được câu Anh đi nhé, hay Hẹn gặp lại. Có lẽ cũng như khi xâu vòng bị đứt, các hạt trên sợi dây trong thoáng chốc sẽ rơi lách tách xuống sàn, nếu trót lỡ lời một câu thôi thì những lời nói lỗi thời sau đó cũng sẽ tuôn ra ào ào chẳng thể nào níu giữ. Chúng tôi đã cùng giữ chặt lấy khoảng thời gian sâu nặng có cùng nhau, nên nếu mọi thứ vỡ òa sẽ chẳng thể nào kiềm chế nổi tình cảm, vì vậy dù nội tâm đang vô cùng phức tạp nhưng ngoài mặt tôi vẫn cố ngụy trang bằng vẻ điềm nhiên lạnh nhạt. Chúng tôi không muốn xáo tung những ngày cùng kiếm tìm nhau, cùng dựa vào nhau theo cái cách như thế. Dù là tám năm trước hay bây giờ, thời gian đều công bằng với tất cả. Giây phút tôi lạnh lùng hỏi anh - người mà tám năm rồi mới gọi điện thoại cho tôi, Anh đang ở đâu, tôi mới nhận ra, những điều chưa thể nói với anh đã chẳng còn đọng lại trong tôi nữa. Tôi chẳng cần phải giả bộ rằng mình sống rất tốt để giấu đi cảm xúc mãnh liệt trong lòng. Anh đang ở đâu? Tôi thực sự đã hỏi anh đầy lạnh lùng như vậy. Những câu nói đã từng khiến tôi đi lang thang vô định - ôm trong lòng nỗi nghi hoặc và đau buồn đà đi đâu cả rồi? Cả những đắng cay ấy nữa?   Tôi đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Trong khi sự im lặng lặng lẽ trôi giữa hai chúng tôi thì ở bên bậu cửa, ánh nắng của buổi sáng mùa đông đã tràn vào. Dự báo thời tiết đêm qua nói rằng hôm nay có tuyết rơi nhưng chẳng có vẻ gì là tuyết sẽ rơi cả. Chỉ là một sớm tinh mơ khi những tia nắng ban mai vẫn còn đọng lại. Nếu không phải người trong gia đình hay bạn bè rất thân thiết, hẳn sẽ ngần ngại với những cuộc điện thoại trong khoảng thời gian này. Gọi điện thoại vào lúc này thường vì có việc gấp, hay để báo tin tức gì đó chẳng lành. - Giáo sư Yun đang ở bệnh viện. - … - Anh nghĩ phải báo tin này cho em. Tôi nắm chặt lấy ống nghe bằng cả hai tay. Tôi quên mất điều định nói, chớp mắt, thu lại ánh nhìn đang hướng về phía khung cửa. Anh nghĩ phải báo tin này cho em. Lời nói của anh như bông tuyết bay là là trước mắt tôi. Tôi nghiền ngẫm giọng nói của anh như thể muốn giữ chặt lấy lời nói ấy, khe khẽ nhấc mí mắt nặng nề. Thật khó tin, nhưng những bóng tuyết thật sự đang phản chiếu trên rèm chóp cửa sổ, - Hình như giáo sư nhập viện đã được ba tháng rồi. - … - Có lẽ phải chuẩn bị dần đi thôi. Giáo sư nhập viện đã được ba tháng rồi ư? Tôi vô thức bật ra một tiếng thở dài. Trong giây lát, cảm giác oán trách giáo sư Yun chợt dâng lên rồi lại lắng xuống. Lần cuối tôi gặp giáo sư Yun là ba năm trước. Giáo sư Yun, cũng giống như mẹ tôi, bệnh tình càng nặng lại càng muốn được ở một mình. Ông không hề vui khi có người đến thăm. Chẳng biết tự khi nào, giáo sư Yun đã trở thành một thực thể cô độc nằm trong căn phòng mà chỉ có thể bước vào sau khi đi qua rất nhiều cánh cửa đóng chặt. Ngay cả trước cái chết, ông vẫn nghiêm khắc và thực lòng muốn ở một mình. Ba năm trước, vào một buổi sáng đầu năm mới tôi đã ra ngoài định đến tìm giáo sư Yun nhưng rồi giữa đường lại thôi, từ đó về sau cũng chẳng nghĩ đến chuyện gặp ông thêm lần nào nữa. Buổi sáng mùa đông bắt đầu năm mới ấy, tôi đã nghĩ dù sao cũng phải đến chúc Tết giáo sư Yun. Tôi biết rằng giáo sư Yun vì khó thở nên chẳng thể ngồi được lâu, nhưng tôi cũng chỉ cần đến nhìn ông chút thôi là đủ. Sáng hôm ấy trời âm u, tuyết rơi dày đặc. Tôi lái xe rất tệ. Nếu có xảy ra đôi co gì về vấn đề xe cộ thì không phải bàn cãi, đó chắc chắn là lỗi của tôi. Những bông tuyết lớn mau chóng biến thành các tảng tuyết, rồi gió Bắc thổi đến. Qua đỉnh núi này là đến căn nhà nơi giáo sư Yun ở một mình, nhưng chiếc ô tô chạy chênh vênh nguy hiểm trên con đường tuyết lại mắc kẹt trong một hố tuyết. Tôi không làm sao được, đành cứ để mặc xe ở đó, cuốc bộ trong cơn bão tuyết. Má tôi tưởng vỡ ra vì lạnh, gấu quần đông cứng như những trụ băng. Bước đi một lúc rồi ngoái lại nhìn, chỉ thấy tuyết phủ mờ cả vạt núi. Mỗi khi cơn gió xoáy nổi lên, những đụn tuyết chất đầy trên sườn núi lại bay trắng xóa khoảng không, cuốn xuống thung lũng. Bông tuyết lúc này trở nên xám đục. Tuyết càng lúc càng rơi dữ hơn, ngôi nhà của giáo sư Yun vẫn ở xa mờ mịt. Tiến lên nào, tiến lên nào, cho dù tôi có tự nhủ thì việc phải một mình đơn độc bước đi trên con đường tuyết vẫn càng lúc càng trở nén đáng sợ. Mỗi khi nghe thấy âm thanh của những cành thông bị tuyết đè gãy, lòng tôi bỗng dưng lại chung hẳn xuống. Chứng kiến đám cây cối lớn đang khô héo trong rừng không thể nào chiến thắng được sức nặng của tuyết, cuối cùng rầm một tiếng đổ gục, tôi vội quay người lại, cảm giác như chính mình vừa bị đánh ngã. Mời các bạn đón đọc Ở Đâu Đó Có Điện Thoại Gọi Tôi của tác giả Shin Kyung-Sook.
Mùa Xa Nhà
Giới thiệu của nhà văn Nguyễn Đông Thức Đọc Mùa xa nhà: Một cuốn truyện hay về đời lính TT - Mùa xa nhà ra mắt bạn đọc khi cuộc chiến ở mặt trận Tây Nam Tổ quốc kết thúc đã 15 năm. Văn học thường cất tiếng quá chậm về đề tài chiến tranh, sau suốt từng ấy năm hầu như chưa có một truyện dài nào về cuộc chiến ác liệt này gây được ấn tượng với người đọc... 276 trang sách được dành để nói về cuộc sống và chiến đấu của chỉ một trung đội súng 12 li 7 thuộc một tiểu đoàn bộ binh VN đóng tại vùng Tây Bắc Campuchia, sát biên giới Thái Lan. Nhân vật chính là Huy, một chàng trai Sài Gòn đi nghĩa vụ quân sự, và các đồng đội trong trung đội của anh. Thời gian xảy ra khoảng từ năm 1984 đến 1987, lúc cuộc chiến đi vào cao điểm trước khi kết thúc. Chỉ với một trung đội và chỉ trong vài năm, thế nhưng tất cả những gì gọi là sự khắc nghiệt của chiến tranh vẫn xuất hiện đầy đủ trong Mùa xa nhà: những trận đánh ác liệt mà giữa sự sống và cái chết chỉ là một sợi chỉ mong manh; những cuộc hành quân liên miên với bao nhiêu là gian khổ, thiếu thốn - đặc biệt là chuyện thiếu nước uống trong mùa khô; nỗi nhớ nhà cùng sự cô đơn của người lính viễn chinh… Bao mất mát xé lòng trước sự ngã xuống của người đồng đội thân thiết nhất, để có thể nổi điên, có thể tự vẫn… Chân dung người lính từ đó cũng hiện ra hết sức đầy đủ: người anh hùng, kẻ hèn nhát; người chai sạn, kẻ yếu đuối… Thậm chí có cả những kẻ cầm súng đi cưỡng hiếp dân lành, để bị xử bắn…Trên tất cả sự khắc nghiệt đó là một thứ tình đồng đội chân thành, trong suốt, thương nhau còn hơn cả anh em trong nhà. Và tất nhiên, ở những người lính trẻ xa nhà, còn không thể thiếu chuyện tình yêu với các cô gái bản xứ - có người ở hẳn lại lập gia đình và sinh sống trên đất bạn, có người “chơi qua đường” cho xong thời gian nghĩa vụ, có người yêu thật lòng nhưng gặp phải sự tàn nhẫn của chiến tranh… Chân dung người lính đã đa dạng như vậy thì “lý tưởng cầm súng” cũng được trình bày không chút đơn điệu. Trở đi trở lại trong suy tưởng của Huy, của Quân… chính là một câu hỏi day dứt: Tôi đi sang đây chiến đấu và chết là vì cái gì? Liệu công việc này thật sự có ý nghĩa và cần thiết hay không?... Những câu hỏi đó, và cách mà mọi người tự tìm thấy câu trả lời cho mình để vẫn có thể yên tâm chiến đấu, mới chính là giá trị tư tưởng cao nhất của Mùa xa nhà. Nó cũng giúp cho cuốn truyện có được một sự chân thật đầy thuyết phục. Anh hùng rất đời thường. Ác liệt nhưng không bi lụy. Mọi thứ dường như đã được Nguyễn Thành Nhân viết ra quá dễ dàng, có cảm giác như anh đã viết một mạch chứ không phải suốt hai năm, "như rút ruột ra mà viết", theo lời anh tâm sự. Cho một phần tuổi trẻ của chính mình đã đi qua, cho những đồng đội đã nằm xuống. (Những đồng đội của tôi ơi! Mồ của các bạn đã được phủ lên bao nhiêu lớp cỏ úa mùa thu. Tên tuổi, hình ảnh của các bạn chỉ còn trong nỗi nhớ - những nỗi nhớ ngắn ngủi, bất chợt hiện ra trong giây lát, rồi lại chìm khuất dưới bao âu lo, suy tư của thực tế mỗi ngày. Điều quan trọng là tôi không được quyền quên!...). Mùa xa nhà nhắc người đọc nhớ hơn những điều không được quyền quên ấy, và xứng đáng được xếp vào danh mục những cuốn sách hay viết về chiến tranh. *** Nguyễn Thành Nhân sinh năm 1964 tại Sài Gòn. Tháng 3-1984, anh nhập ngũ và làm nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia, lính sư đoàn 5 đóng ở Batdomboong, giải ngũ năm 1987 với cấp bậc thượng sĩ. Vừa làm bảo vệ sân bóng đá Thống Nhất, anh vừa học Đại học Luật, và tốt nghiệp cử nhân năm 1994. Mối giao tình khiến hiện nay anh vẫn ở lại làm việc tại văn phòng Liên đoàn Bóng đá TP.HCM. Cầm bút viết về cuộc sống của lính tráng như là một thôi thúc tự bên trong của Nhân. Mùa xa nhà được âm thầm viết trong hai năm, hoàn thành năm 1999, và nhân cuộc thi Văn học tuổi 20 lúc ấy vừa phát động, Nhân đã gửi tham dự. Được cả hai ban sơ khảo và chung khảo đánh giá rất cao, hoàn toàn có thể được giải cao nếu tác giả chịu chỉnh sửa đôi chút cho… bớt căng, nhưng lúc đó Nhân vẫn cương quyết giữ nguyên bản thảo. Giờ đây, sau bốn năm, có lẽ anh đã nghĩ lại… Thực tế thì không tác giả nào không muốn đứa con mình được chào đời, và không nhà xuất bản nào muốn tác phẩm sau khi vào tay mình lại dở hơn. Mùa xa nhà được in, không hề có chất lượng kém hơn, quan trọng nhất là vẫn giữ đủ mọi điều Nhân muốn nói… NGUYỄN ĐÔNG THỨC ((Báo Tuổi Trẻ - 17/09/2004) *** Điếu niệm Kính viếng hương hồn Tân, và những đồng đội của tôi. Tân, Tôi nhớ những ngày mùa đông năm 1985, tụi mình cùng nhau lặn lội bắt cá suốt ngày ở suối Phum Pô. Tôi đeo cái rộng cá lội bì bõm trong dòng nước mấp mé vai, nhũng nhẵng bám sau lưng Tân, chỉ để Tân bỏ vào đó những con cá lóc, cá lăng vừa mò được. Tôi nhớ những đêm cuối năm trời lạnh căm căm, tôi trùm thêm một chiếc áo lên vai, ngồi co gối bên ánh đèn đốt từ mỡ lon thịt hộp, trên đầu gối là một miếng gỗ ván dùng để lót trong thùng đạn, trong tay là một cây bút chì ngắn củn. Tôi vẽ Tchiete. Không biết tôi đã vẽ nàng lên bao nhiêu mảnh ván. Nhưng chỉ nhớ là cùng với những nét vẽ vụng dại, đơn sơ đó, tim tôi đã ấm áp lạ thường, máu tôi đã chảy rộn ràng, nóng bỏng trong từng huyết mạch. Tôi đã quên đi cái lạnh của khí trời và cái lạnh của sự cô đơn trong những đêm đông ấy. Tôi không ngủ vì đang yêu. Ðó là điều dễ hiểu, và là chuyện thường tình. Nhưng cả Tân cũng không ngủ được. Tân nằm trăn trở trên chiếc võng, im lặng nhìn tôi, nhìn ngọn lửa nhỏ xíu, lù mù của chiếc đèn dã chiến, thao thức cùng tôi. Thương tôi, hiểu tôi trong những ngày tháng đó, còn ai hơn Tân nữa. Tôi nhớ sau khi chuyển xuống đại đội, có một lần Tân ghé tôi chơi. Tân có vẻ buồn khi trông thấy tôi mặc một chiếc áo cũ. Vai áo sờn rách, chằng chịt những đường chỉ vụng về. Thật ra lúc ấy chúng ta đâu còn đến nỗi phải mặc rách, phải không Tân? Nhưng áo mới của tôi, tôi cũng đã cho người khác, một người anh kết nghĩa Khmer. Sau đó vài ngày, Tân đã gửi lên cho tôi chiếc áo mới của mình. Rồi không bao lâu sau lần gặp cuối cùng đó, Tân đã rời xa vĩnh viễn. Không chỉ một mình Tân, tôi đã mất biết bao nhiêu đồng đội, người rất là thân thiết, người vừa quen mặt mà chưa kịp biết tên, trong những tháng ngày xa quê đó. Tân ơi! Những đồng đội của tôi ơi! Mồ của các bạn đã được phủ lên bao nhiêu lớp cỏ úa mùa thu. Tên tuổi, hình ảnh của các bạn chỉ còn trong nỗi nhớ - những nỗi nhớ ngắn ngủi, bất chợt hiện ra trong giây lát, rồi lại chìm khuất dưới bao âu lo, suy tư của thực tế mỗi ngày. Ðiều quan trọng là tôi không được quyền quên! Trái tim con người còn đập trong lồng ngực chúng ta không được quyền quên! Tân! Ðã sắp đến ngày giỗ lần thứ mười một của Tân rồi đó. Tôi viết những dòng này, thắp một nén hương trong tâm tưởng, hoài niệm hương hồn Tân và tất cả những anh em khác. Cầu mong hương hồn các bạn sẽ tìm được an bình.   TP.HCM, Tháng 11-1997 Mời các bạn đón đọc Mùa Xa Nhà của tác giả Nguyễn Thành Nhân.
Đi Ra Từ Bóng Tối
Bộ ba tự truyện nổi tiếng của Dave Pelzer – câu chuyện khó tin và có giá trị truyền cảm hứng về cuộc đời của chính tác giả – đã thu hút sự quan tâm theo dõi của hàng triệu độc giả trên toàn thế giới. Đi Ra Từ Bóng Tối là phần kết thúc được chờ đợi từ rất lâu trong bộ ba tác phẩm: Không Nơi Nương Tựa (A Child Called “It”), Đứa Trẻ Lạc Loài (The Lost Boy) và Đi Ra Từ Bóng Tối (A Man Named Dave). Câu chuyện là hồi kết cho cuộc đấu tranh sinh tồn không ngừng của cậu bé David đáng thương qua bao năm tháng sống trong sự bạo hành về thể xác lẫn tinh thần do chính người mẹ ruột gây ra. Câu chuyện đưa người đọc đi cùng chàng trai tên Dave qua những khúc quanh cuộc đời để trở thành một người đàn ông trưởng thành, đầy khát vọng sống. Giấc mơ cuộc đời, thất bại đắng cay, vinh quang ngọt ngào và hạnh phúc vẹn tròn là những gì người đọc sẽ cảm nhận được bằng những rung cảm chân thật nhất, sâu sắc nhất đằng sau những trang sách sống động của Đi Ra Từ Bóng Tối. Chàng thanh niên tên Dave sẽ phải đối diện như thế nào trước sự thật rằng cha mình - vị anh hùng trong những giấc mơ thuở bé của cậu - sẽ không còn sống được bao lâu nữa? Cậu sẽ làm gì với tâm nguyện một lần được trò chuyện với cha như bao đứa con trai bình thường khác khi ông thậm chí còn không đủ sức để siết nhẹ bàn tay cậu? Cậu sẽ đối xử như thế nào với người mẹ nghiện ngập, tàn bạo người đã chối bỏ sự tồn tại của con trai mình và đem đến bao nỗi kinh hoàng cho tuổi thơ của nó? Và cuối cùng, liệu có ai đó để cậu yêu thương, tin tưởng và giúp cậu lấy lại niềm tin vào tình cảm thiêng liêng của gia đình hay không? Đi Ra Từ Bóng Tối sẽ lần lượt giúp người đọc tháo gỡ tất cả những nút thắt ấy, dẫn dắt chúng ta tìm ra câu trả lời cho số phận của Dave, của từng nhân vật trong tác phẩm tự truyện. Và, có thể ở đâu đó trong tác phẩm, người đọc cũng sẽ tìm thấy câu trả lời cho cuộc đời của chính mình như những ai đã có may mắn được là người đầu tiên đọc và làm công việc chuyển ngữ cho bộ ba tác phẩm này vậy. Với sự bao dung vô biên và lòng can đảm tuyệt vời, Dave Pelzer đã làm nên một kết thúc hoàn hảo cho bộ ba tự truyện của mình cũng như cho chính cuộc đời của ông. Bằng kết thúc ấy, Dave Pelzer đã minh chứng một cách hùng hồn rằng: Không một thế lực, một xiềng xích nào có thể trói buộc được ý chí của con người. Ý nghĩa lớn lao này thật quý giá biết bao đối với những ai đang trên con đường đi tìm hạnh phúc đích thực trong cuộc sống. *** David James Pelzer sinh ngày 29/12/1960, là con trai thứ hai trong gia đình có năm người con trai. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên vô cùng tồi tệ khi David bắt đầu bị mẹ ruột của mình hành hạ từ năm lên 4 tuổi. Sự ngược đãi mà David Pelzer phải chịu đựng nghiêm trọng đến mức nó đã trở thành một trong những trường hợp ngược đãi trẻ em tồi tệ nhất được biết đến ở Mỹ. Bộ ba tác phẩm Không Nơi Nương Tựa(1995), Đứa Trẻ Lạc Loài (1997) và Đi Ra Từ Bóng Tối (1999) tái hiện câu chuyện tuổi ngây thơ rúng động dư luận của ông. Dave Pelzer được xem là một trong những phát ngôn viên quốc gia làm việc hiệu quả nhất và đáng tin cậy nhất, chuyên hoạt động trong các nhóm hội, tổ chức chuyên nghiệp về dịch vụ nhân quyền. Dave đã nhận được những lời khen tặng từ đích thân cựu Tổng thống Ronald Reagan và George Bussh. Năm 1993, Dave được vinh danh là một trong mười Đại diện tiêu biểu nhất của Thanh niên Hoa Kỳ và năm 1994, Dave là công dân duy nhất của nước Mỹ vinh dự được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của thế giới. Dave còn được chọn làm người rước đuốc trong Thế Vận hội năm 1996. Dave đã cống hiến cả cuộc đời mình để giúp nhiều người khác thoát khỏi nghịch cảnh. Vượt qua một tuổi thơ u tối và nghiệt ngã, Dave trở thành một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ. Trước khi về hưu, ông từng đóng vai trò quan trọng trong một số hoạt động mang tên Just Cause, Desert Shield và Desert Storm. Trong thời gian phục vụ trong không quân, Dave còn hoạt động trong Hội Trẻ vị thành niên và những chương trình khác về “Tuổi trẻ với những nguy cơ” trên toàn bang California. Những thành tựu đáng kể của Dave đã được thừa nhận bằng nhiều giải thưởng cũng như những nhận xét cá nhân của các cựu Tổng thống Ronald Reagan, George Bush và Bill Clinton. Năm 1990, ông là người được nhận giải thưởng J.C. Penney Golden Rule. Tháng 1 năm 1993, Dave vinh dự được bầu chọn là một trong mười thanh niên xuất sắc của Hoa Kỳ. Tháng 11 năm 1994, Dave là công dân Mỹ duy nhất được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của Thế giới ở Kobe, Nhật, vì những cống hiến của anh trong lĩnh vực thông tin và ngăn ngừa nạn bạo hành trẻ em cũng như cổ vũ tinh thần và truyền cảm hứng để người khác có được ý chí kiên cường. Dave còn vinh dự được rước đuốc trong Thế vận hội năm 1996. Dave hiện sống một cuộc sống hạnh phúc ở Rancho Mirage, California, với vợ, con trai Stephen và chú rùa cưng tên Chuck. Những hoạt động vì thanh thiếu niên của Dave Pelzer có thể được tìm hiểu thêm tại website: www.davepelzer.com *** Ngày 4 tháng 3 năm 1973 Thành phố Daly, California Tôi sợ hãi. Chân tôi lạnh buốt và bụng kêu gào vì đói. Trong bóng tối của cái ga-ra, tôi chăm chú căng tai lắng nghe từng tiếng động nhỏ nhất từ phía phòng của mẹ ở trên lầu, từng tiếng cót két mỗi khi bà trở mình. Tôi thậm chí còn có thể biết được bà đang ngủ hay chuẩn bị tỉnh giấc qua những tiếng ho khan của bà. Tôi mong bà không bị tỉnh giấc bởi chính những tiếng ho của mình. Tôi ước mình có thêm một chút thời gian. Chỉ còn vài phút là một ngày tồi tệ nữa lại bắt đầu. Tôi nhắm mắt lại và lẩm bẩm nhanh một lời cầu nguyện, mặc dù tôi biết rõ Chúa chẳng mấy yêu quý mình. Bởi tôi chẳng xứng đáng làm một thành viên của “Gia đình”, nên tôi phải ngủ trên một cái cũi cũ kỹ, xấu xí và thậm chí chẳng có lấy một cái chăn. Tôi cuộn tròn như một quả bóng để cố giữ cho cơ thể càng ấm càng tốt. Tôi lấy áo sơ mi trùm kín đầu, hy vọng hơi thở của mình sẽ giúp mặt và tai ấm hơn một chút. Tôi kẹp hai tay vào giữa hai chân, có khi kẹp vào nách để bớt lạnh. Bất kỳ lúc nào đủ dũng khí và biết chắc rằng mẹ đã ngủ rất say, tôi mới dám trộm một cái giẻ rách từ đống đồ dơ quấn chặt quanh chân để giữ ấm. Tôi làm mọi thứ để có thể ấm hơn một chút. Giữ ấm được nghĩa là sống sót. Cả tinh thần lẫn thể chất của tôi đều rã rời. Phải mất hàng mấy tháng trời tôi mới có thể thoát khỏi những cơn ác mộng. Dù có cố thế nào đi chăng nữa, tôi vẫn không tài nào ngủ lại được. Toàn thân tôi tê cóng. Đầu gối tôi rung lên bần bật. Tôi khẽ cọ hai bàn chân vào nhau, lòng vẫn nơm nớp lo sợ nếu gây ra bất cứ tiếng động nào thì mẹ cũng sẽ nghe thấy. Tôi không được phép làm bất kỳ điều gì nếu không có lệnh trực tiếp của bà. Thậm chí ngay cả khi tôi biết bà đã chìm lại vào giấc ngủ, tôi vẫn có cảm giác bà đang kiểm soát tôi. Mẹ vẫn luôn như vậy. Đầu óc tôi bắt đầu quay cuồng khi cố nhớ lại quá khứ. Tôi biết rằng để sống sót, tôi phải tìm những lời giải đáp ngay trong quá khứ của mình. Ngoài giải pháp để có cái ăn, để được sưởi ấm, để được sống sót, việc tìm hiểu lý do vì sao mẹ lại đối xử với tôi như vậy cũng sẽ chi phối rất nhiều đến cuộc sống của tôi. Những ký ức đầu tiên của tôi về mẹ chỉ là những lời chửi mắng và nỗi khiếp đảm. Năm tôi lên bốn, chỉ cần nghe giọng nói của bà thế nào là tôi có thể biết ngày hôm ấy của tôi sẽ ra sao. Bất cứ khi nào bà tỏ ra kiên nhẫn và độ lượng, bà chính là “Người mẹ hiền”; nhưng mỗi khi bà nổi giận và điên tiết với mọi thứ, thì bà chính là “Mẹ” - một người mẹ lạnh lùng, vô cảm, sẵn sàng hành hạ tôi bằng những cách không ai có thể ngờ được. Tôi lúc nào cũng nơm nớp lo sợ sẽ làm bà phật lòng, thậm chí tôi còn chẳng dám vào nhà vệ sinh nếu không xin phép bà trước. Dù còn rất bé, nhưng tôi cũng nhận ra rằng càng uống rượu nhiều, mẹ càng thay đổi nhanh và để con người thứ hai kiểm soát mình hoàn toàn. Một buổi chiều Chủ nhật nọ, lúc đó tôi mới năm tuổi, trong lúc say khướt, bà đã tấn công và vô tình làm gãy tay tôi. Ngay khi nhận ra mọi chuyện, mắt bà mở thao láo như hai đồng đô-la bạc. Mẹ biết bà đã đi quá đà. Bà biết bản thân mình đã mất kiểm soát. Sự việc đó không còn đơn giản như những cái tát, những cú đấm hay những lần tôi bị ném xuống cầu thang trước đây. Mời các bạn đón đọc Đi Ra Từ Bóng Tối của tác giả Dave Pelzer....