Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thế Giới Trẻ Em

“Thế giới trẻ em” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Ibragimov, đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, lúc thì như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền đau thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh.   Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp.  *** Lấy bối cảnh vùng đất Bắc Kavkaz trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, tác giả Kanta Ibragimov kể câu chuyện bi thương của chiến tranh. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violin đồng thời là nhà vật lý người Nga; nữ y tá người Chechnya và cậu bé 8 tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên "Thế giới trẻ em". Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé sự hồn nhiên của thơ trẻ. Để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, cậu bé phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì cậu xử sự ngây thơ như mọi đứa trẻ, khi lại như người lớn. Câu chuyện về đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn ngẫm nghĩ về tương lai của dân tộc.  Bên cạnh kể chuyện của những nhân vật trong cuộc chiến, Thế giới trẻ em còn là bức tranh hiện thực về chiến tranh. Những cuộc chiến đã tàn phá vùng đất Kavkaz thanh bình và giàu đẹp. Bức tranh bi tráng đó được tác giả tái hiện từ góc nhìn của những người dân bình thường; đó cũng là lời cảnh báo về hậu quả tàn khốc mà chiến tranh gây ra cho con người. Dịch giả Đào Minh Hiệp - người chuyển ngữ Thế giới trẻ em - cho rằng đây là một câu chuyện thấm đẫm chất nhân văn: "Dẫu vậy, trên nền câu chuyện bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái và những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng nghìn năm qua, làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân - thiện - mỹ vì một tương lai tươi sáng". Bản thân tác giả Ibragimov từng trải qua các cuộc chiến ly khai ở Chechnya. Ông vốn là một nhà khoa học, Cục phó Tổng cục thuế Liên bang Nga. Sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương (thủ đô của vùng tự trị này). Tác phẩm đầu tay Cuộc chiến đi qua đưa tên tuổi Ibragimov nổi tiếng ở cả Liên bang Nga. Tổng thống Putin đã trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật cho Ibragimov. Từ đó, nhà văn liên tiếp cho ra đời nhiều tiểu thuyết được đánh giá cao. Hiện tại Ibragimov tiếp tục nghiên cứu khoa học và giảng dạy để nuôi sống gia đình và sáng tác văn chương để nuôi dưỡng tâm hồn.  Các nhà phê bình văn học Nga nhận xét, sự thành công trong lĩnh vực văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan về miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Điều quan trọng, như tác giả nói, ông "không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào". Lam Thu *** Kanta Khamzatovich Ibragimov sinh ngày 9 tháng 7 năm 1960 tại thành phố Grozny, thủ đô nước Cộng hòa Tự trị Chechnya thuộc Liên bang Nga, trong một gia đình trí thức có cha là tiến sĩ Hóa học, còn bản thân là tiến sĩ Kinh tế, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Cộng hòa Chechnya, phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thành phố Grozny, giáo sư Đại học Tổng hợp quốc gia Chechnya. Cho đến trước năm 1999, Ibragimov chỉ được biết đến với tư cách là một nhà khoa học với gần ba mươi công trình và đầu sách về kinh tế. Nhưng kể từ khi Ibragimov công bố tác phẩm văn học đầu tay - tiểu thuyết Cuộc chiến đi qua dày bảy trăm trang viết về vùng đất Chechnya quê hương từ khi chính quyền Xô viết được thành lập tại đây vào năm 1924 và tan vỡ hoàn toàn vào năm 1995, thì tên tuổi của Ibragimov không chỉ được thường xuyên nhắc tới trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Chechnya mà cả ở Liên bang Nga. Tác phẩm đã gây tiếng vang lớn, còn tác giả trở nên nổi tiếng và được đọc nhiều nhất ở nước Nga. Và cái gì đến phải đến, bốn năm sau, tác phẩm văn học đầu tay của một nhà khoa học đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về Văn học nghệ thuật năm 2003. Kể từ đó, Ibragimov liên tục cho ra mắt nhiều tiểu thuyết khác và cũng được bạn đọc đánh giá cao, như Kavkaz già nua (2001), Thầy giáo lịch sử (2003), Thế giới trẻ em (2005), Truyện cổ phương Đông (2007), Ngôi nhà hỗn tạp (2009), Avrora (2012), Viện sĩ Piotr Zakharov (2013)… Và theo thông báo của Cơ quan báo chí Tổng thống và Chính phủ Chechnya, nhà văn Ibragimov đã hai lần được đề cử vào danh sách Giải Nobel Văn học: Năm 2010 với Thế giới trẻ em và năm 2012 với Avrora. Sau khi Liên bang Xô viết tan rã vào năm 1991, nước Cộng hòa Chechnya nhỏ bé trong Liên bang Nga bỗng nhiên được nhiều người biết tới bởi các phong trào ly khai bùng phát dữ dội, biến thành các cuộc chiến đẫm máu. Nhà khoa học Ibragimov đã từng có một cuộc sống sung túc và một công việc ổn định ở Moskva (Phó tổng cục trưởng Tổng cục thuế Liên bang Nga), nhưng sau những gì xảy ra ở Chechnya, ông đã từ bỏ tất cả, đưa gia đình trở về thành phố Grozny quê hương, đồng thời trở về với quá khứ của dân tộc bằng các tác phẩm văn học của mình vì những lý do mà theo như lời ông nói là “để không bao giờ được quên những năm tháng đau thương đó và lặp lại những sai lầm khủng khiếp đó”. Thế giới trẻ em là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn đề cập đến những trang sử đau buồn của vùng đất Bắc Kavkaz vô cùng xinh đẹp và trù phú, đó là cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất (1994-1996) và lần thứ hai (1999-2000). Bản thân Ibragimov đã trực tiếp trải qua các cuộc chiến tranh này, và khi được hỏi về những năm tháng đó, ông đã thành thật chia sẻ: “Làm người Chechnya trong khoảng mười, mười lăm năm gần đây chẳng dễ dàng chút nào”. Tác phẩm xoay quanh số phận của ba nhân vật chính: nữ nghệ sĩ violon đồng thời là nhà vật lý người Nga, nữ y tá người Chechnya và cậu bé tám tuổi bị mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc chiến ly khai. Cả ba cùng tá túc trong tòa nhà đổ nát vì bom đạn, tầng một nguyên là cửa hàng bách hóa tổng hợp dành cho thiếu nhi mang tên “Thế giới trẻ em”. Số phận của ba con người được tác giả thể hiện trong khoảng thời gian từ Đại chiến thế giới lần thứ hai cho đến cuộc chiến Chechnya, trên nền của những biến động quan trọng diễn ra trong một đất nước vốn là thành trì hòa bình của thế giới. Chiến tranh đã cướp đi của đứa bé khả năng tư duy thơ trẻ, và để thích nghi với sự tàn khốc của chiến tranh, nó đã phải nghĩ ra một thế giới của riêng mình, trong đó, lúc thì nó xử sự thơ ngây như đứa bé, khi lại như người lớn để cố sống sót qua cuộc chiến. Câu chuyện về một đứa bé, nhưng tác phẩm lại dành cho người lớn và buộc người lớn phải ngẫm nghĩ về thế hệ tương lai của dân tộc. Các cuộc chiến tranh nổ ra trên vùng đất Bắc Kavkaz thanh bình và giàu đẹp đã tàn phá tất cả những gì mà chính quyền Xô viết đã dày công vun đắp hàng chục năm qua và làm thay đổi số phận của hàng vạn con người. Bức tranh bi tráng đó đã được tác giả tái hiện một cách sâu sắc và chân xác từ góc nhìn của những người dân bình thường, là lời cảnh báo về những hậu quả tàn khốc mà chiến tranh có thể gây ra cho con người dù với lý do gì. Có thể chính vì vậy mà dòng cuối của cuốn sách, chính tác giả đã phải cay đắng thốt lên “Xin hãy tha thứ cho tôi và cho tất cả chúng tôi!”. Dẫu vậy, trên cái nền bi thương ấy vẫn hiện lên những tấm lòng nhân ái với những phẩm chất tốt đẹp đã được vun đắp từ hàng ngàn năm qua làm nên một nước Nga hùng mạnh. Tác phẩm toát lên ý nghĩa nhân văn cao cả, hướng con người đến những giá trị chân-thiện-mỹ vì một tương lai tươi sáng cho vùng đất Bắc Kavkaz giàu đẹp. Theo nhận xét của các nhà phê bình văn học Nga, sự thành công trong lĩnh vực Văn học của Ibragimov là nhờ vốn hiểu biết phong phú và khách quan của tác giả về lịch sử miền đất quê hương, hòa quyện với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo mà không cần phải dùng đến những thủ pháp giả tạo. Và điều quan trọng nữa, như chính tác giả bộc bạch, là ông “không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức, hay phương pháp sáng tác nào cả, điều đó không chỉ cần thiết trong Văn học mà còn ở tất cả mọi lĩnh vực”. Với những thành tựu trong Văn học, Ibragimov được kết nạp vào Hội nhà văn Chechnya, Hội nhà văn Liên bang Nga và được bầu làm Chủ tịch Hội nhà văn Chechnya. Hiện tại, Ibragimov vẫn tiếp tục làm công tác khoa học và sáng tác văn học. Theo như ông nói, “Công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy là để nuôi sống bản thân cùng gia đình với năm đứa con, còn văn chương là để nuôi dưỡng tâm hồn”. Tác phẩm của Ibragimov đã nhanh chóng được dịch sang tiếng Anh, Đức, Tây Ban Nha và bây giờ là tiếng Việt. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Người dịch ĐÀO MINH HIỆP *** Lại một lần nữa, thêm một lần nữa tôi trở về chốn này. Tôi đứng đây, chỉ đứng mà chẳng nghĩ ngợi gì cả, đầu óc trống rỗng, thân thể bải hoải, cặp mắt đờ đẫn dõi theo dòng nước đục ngầu của dòng Sunzha. Còn dòng sông, như bao năm nay, vẫn chảy, nhưng tôi có cảm giác, trong đó không còn niềm khát vọng và nhiệt huyết như trước nữa. Tất cả, như mùa đông, đã đến lúc phải dịu lại. Bản thân tôi cũng đã đến lúc phải bình tâm trở lại, phải lùi lại và quên đi tất cả. Nhưng tôi không thể. Tôi cần phải, tôi buộc phải kể về những lỗi lầm của mình, về lỗi lầm chung và tấn bi kịch chung của tất cả chúng tôi… Không phải lần đầu, cũng chẳng phải lần thứ hai tôi đến nơi này, và tôi chờ cho đến khi đã nạp đủ năng lượng để có thể bắt tay vào thực hiện bức tranh tâm huyết của đời mình. Nhưng, than ôi!… Không hiểu tại sao, lúc nào tôi cũng nhớ lại một câu trong đoạn mở đầu tác phẩm Người thầy đầu tiên của Tsinghiz Aitmatov: “Tôi sợ không mang được đến nơi, tôi sợ làm sánh bát nước đầy”, thật đáng tiếc là tôi đã lặp lại điều đó. Tôi cảm thấy đầu óc trống rỗng, mất hết mọi cảm hứng, nhưng tôi vẫn hy vọng, tôi sống bằng niềm hy vọng, tôi rất muốn vẽ được bức tranh quan trọng của đời mình. Và không chỉ một lần tôi đã bắt tay vào việc, nhưng tôi không dám, tôi không thể, tôi không đủ sức, tôi sợ hãi. Mơ ước về bức tranh đó, tôi đã tốn không biết bao nhiêu màu sắc, mà không chỉ có vậy, còn bức tranh thì vẫn cứ ám ảnh tôi. Và để có thể bắt đầu từ một điểm nào đó, tôi lại quay về nơi ấy, đứng rất lâu, cảm nhận sự đau đớn cùng những lỗi lầm và ngẫm nghĩ về những mất mát. Song, tôi cũng chẳng thể nghĩ ra điều gì, chỉ còn lại ký ức, và tôi cũng chẳng nhìn thấy gì, tôi chỉ hướng cặp mắt về phía mặt sông ảm đạm gợn sóng như đang xem một bộ phim rực rỡ sắc màu với một kết thúc khủng khiếp. Dù không muốn xem bộ phim ấy, nhưng tôi không thể dứt ra được. Tôi đã bỏ đi nhưng có một cái gì đó cứ níu kéo tôi lại, vẫy gọi tôi, làm ngực tôi đau nhói, và thế là tôi lại đến cái hoang mạc này, nơi những đám cỏ dại bị khô úa vào mùa đông xuyên qua lớp nhựa đường và bê tông cũ, nhưng rồi lại đơ ra như từ thời xa xưa… Chỉ có dòng Sunzha là vẫn chảy, nó nhìn thấy hết, biết hết, nhớ hết… Và tôi cũng nhớ. Tôi nhớ, nơi đây từng là thành phố Grozny tươi đẹp và tràn đầy sinh lực. Nhiều người bảo, hiện giờ Grozny cũng vậy, nhưng là nói thế thôi, chứ ở đây, giờ trông như hoang mạc, xa một chút là những đống đổ nát, chỉ còn lại cái tên hung dữ của thành phố[1] với những tâm hồn thiếu bản sắc như bóng đen, tất cả đều khoác một màu đen dẫu là mùa đông tuyết phủ trắng, tất cả đều mang vẻ u ám, nặng nề và buồn bã. Nhưng dẫu có thế nào đi nữa, tôi chỉ nhớ đến một thành phố Grozny đẹp như mơ, nơi tôi đã sinh ra, lớn lên, học tập rồi làm việc. Chính tại chỗ này, dạo còn trẻ, tôi đã từng đứng rất lâu. Tại đây, bên bờ sông Sunzha từng có một công viên tráng lệ, quanh năm hoa lá xanh tươi, với đài phun nước cùng những con đường rợp bóng cây, và một cây cầu vắt ngang sông Sunzha. Sau đó, khi người ta xây cây cầu mới lớn hơn, cây cầu cũ này chỉ dành cho người đi bộ, hai bên thành cầu là những bồn hoa màu sắc sặc sỡ. Chính vì vậy mà cây cầu được gọi là Cầu hoa. Cây Cầu hoa này dẫn đến một tòa nhà cổ, đẹp đẽ, hình bán nguyệt. Một nửa tòa nhà dành cho các cơ quan nhà nước, nơi trước đây người bạn gái yêu quý của tôi đã làm việc và buổi chiều sau giờ làm tôi lại đến chống tay lên thành cầu đợi cô ấy. Một nửa tòa nhà còn lại dùng để ở, tầng một là những gian hàng lớn lắp kính với rất nhiều, rất nhiều đồ chơi - đó chính là cửa hàng bách hóa tổng hợp “Thế giới trẻ em”. Phải, tôi cũng có một thế giới trẻ em của mình, nói chung đó là một thế giới hoàn toàn khác cho tới khi trưởng thành. Và tôi là người rất may mắn! Những đứa trẻ hiện nay ở Grozny có một tuổi thơ và tuổi trẻ ra sao? Đó mới là điều đáng nói. Nhưng làm thế nào để cho mọi người biết? Xung quanh là một khoảng trống đáng sợ, thậm chí cũng chẳng còn lại gì từ những cây cầu, chỉ còn lại vài tấm bê tông bám vào trụ cầu phủ đầy tuyết, chắc là chờ cho đến một lúc nào đó người ta cẩu chúng lên để xây dựng lại. Và tôi cũng chờ, tôi mơ ước dựng lại cây cầu của mình, đúng ra là cây cầu nối về quá khứ, nhưng không phải là cái quá khứ sặc sỡ tỏa hương thơm ngát khi tôi còn nhỏ và trai trẻ. Tôi biết, chẳng thà không có cái thời ấy và đừng bao giờ có còn hơn… Phải, tôi muốn nói về quá khứ khác. Về tuổi thơ của người khác, về một thời kỳ khác mãi sau này mới diễn ra. Quả thật, những cây cầu vẫn còn đó, nhưng sự đổ vỡ đã diễn ra rồi. Chuyện xảy ra vào thời kỳ nổ ra cuộc chiến Chechnya lần thứ nhất[2], cuộc chiến của các phiến quân[3]. Chiến tranh ở Chechnya - chỉ diễn ra ở Chechnya, vì từ thời xa xưa, ở nơi rừng sâu núi thẳm, người ta đã quá quen với các cuộc chiến tranh. Còn các nhóm phiến quân lại rất cần đến chiến tranh, bởi lẽ đó là bối cảnh, là cột thu lôi dư luận, là tấm phông màn màu mè, mà đằng sau tấm bình phong đó là một cuộc chiến không kém phần khốc liệt để tranh cướp tài sản quốc gia, để những kẻ mạnh phân chia lại thế giới. Thôi, Thượng đế phù hộ cho họ… Mà chẳng lẽ Thượng đế lại đứng về phía họ hay sao? Ôi, sao tôi lại nói thế nhỉ! Thật là phạm Thánh?! Tôi đâu có muốn nói về chuyện đó, hoàn toàn không… Tóm lại, trong cuộc chiến lần thứ nhất ở Chechnya, tôi nhớ, cũng như bây giờ, dạo ấy là mùa đông, hình như trước Năm mới, năm 1996. Tôi bay từ Moskva về quê, về Chechnya thăm cha mẹ già mà tôi không thể thuyết phục được họ rời bỏ quê hương. Chuyến đi của tôi phải vòng qua thành phố Grozny, với nhiều “chặng chuyển tiếp”, qua rất nhiều trạm kiểm soát liên hợp với những hàng người nối nhau rồng rắn, bị kiểm tra, thu phí, chấp nhận sự nhẫn nhục và xúc phạm. Mặc dù vậy, tôi vẫn về được đến nhà, ở đấy có mái nhà thân yêu che chở. Tiếng đại bác và tiếng máy bay gào rú suốt ngày không ngớt, trở thành một đặc điểm không thể tránh khỏi của cuộc sống thường nhật, ít ra là người dân địa phương đã quen với tất cả những điều đó, chỉ có điều trái tim của một số người không chịu đựng nổi - vì chúng không được làm bằng sắt. Mặc dù vậy, cuộc sống ở một ngôi làng gần trận tuyến vẫn tiếp diễn, nơi đây vẫn có chợ, có chỗ để thư giãn (miễn là có tiền). Sau hai ngày thăm thú bà con họ hàng, tôi quyết định vào thành phố Grozny: Tôi có việc phải giải quyết, một con nợ cũ đã lâu của tôi, giờ là quan chức của chính quyền mới đang tham gia xây dựng lại thủ đô sau khi bị ném bom, chắc là có tiền. Những người thân khuyên tôi không nên đi vì rất nguy hiểm, khắp nơi vẫn còn bắn nhau loạn xạ, đối với những người không phải dân địa phương, bộ dạng có vẻ giàu có như tôi, chắc chắn sẽ toi mạng ngay tại các trạm kiểm soát liên hợp. Nhưng dẫu sao đi nữa, tiền bạc bao giờ cũng có sức mạnh, thế là người em họ nhận lời chở tôi vào thành phố, không đi đường thẳng mà đi đường vòng nhưng sẽ nhanh hơn vì tránh được những hàng người dài cả cây số bên các trạm kiểm soát. Tuy nhiên, đường này cũng có trạm kiểm soát, chỉ có điều yên tĩnh và vắng vẻ hơn, mặc dù đã là mùa đông nhưng đá vẫn lăn từ trên núi Argun xuống. Một quân nhân liếc vào chứng minh nhân dân của tôi, thấy nơi đăng ký cư trú ở Moskva, liền nhìn thẳng vào mặt tôi khá lâu, khệnh khạng bỏ tay ra khỏi xe, lẩm nhẩm điều gì đó, chăm chú quan sát tôi từ đầu đến chân, rồi hướng ánh mắt vào chiếc áo bành tô dài đắt tiền của tôi. Mời các bạn đón đọc Thế Giới Trẻ Em của tác giả Kanta Ibragimov & Đào Minh Hiệp (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cơn Cuồng Si
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Cơn Cuồng Si của tác giả Annie Ernaux & Thu Phương (dịch). Xuất bản tại Pháp năm 1991, CƠN CUỒNG SI đánh dấu sự đoạn tuyệt của tác giả so với năm tác phẩm trước đó bằng việc khai thác chủ đề đam mê tình dục, chủ đề mà bà chỉ có thể đề cập trực tiếp sau khi mẹ mình đã qua đời. Trong cuốn sách rất mỏng và khó xếp loại này, bà kể lại cuộc phiêu lưu tình ái ngắn ngủi của mình với một nhà ngoại giao nước ngoài đã có vợ, một cuộc tình vụng trộm, thoáng qua nhưng mãnh liệt, đầy đam mê và đã để lại cho bà nhiều khổ đau, nhung nhớ. “Hồi tôi còn bé, sự xa xỉ đối với tôi đó là áo choàng lông thú, các thứ váy dài cùng những biệt thự ven biển. Về sau, tôi đã tưởng ấy là sống một cuộc đời trí thức. Giờ đây, tôi thấy có thể sống trọn cơn cuồng si dành cho một người đàn ông hoặc một phụ nữ cũng chính là xa xỉ.” Tuy nhận về dư luận khá chia rẽ, nhưng CƠN CUỒNG SI đã bán được hơn 200.000 bản ở Pháp, nhiều lần được chuyển soạn thành kịch và gần đây nhất, năm 2020, được chuyển thể thành phim điện ảnh.   *** Độc giả Việt Nam từng biết đến Annie Ernaux qua hai tác phẩm Hồi ức thiếu nữ, Một chỗ trong đời. Dịp này, độc giả tiếp tục khám phá ba tác phẩm mới được chuyển ngữ. Một người phụ nữ kể lại hành trình Annie Ernaux tìm lại những gương mặt khác nhau của người mẹ, một người phụ nữ vốn rất khỏe, xông xáo, cởi mở, qua đời sau một thời gian mắc bệnh Alzheimer. “Annie xử lý chất liệu trong đời thật, coi cuộc đời mình như kiểu mẫu để nghiên cứu về dân tộc, giai cấp và không chỉ đơn thuần là những sự kiện hư cấu tự sự mà bà nghĩ ra để thu hút khán giả”, nhà văn Hiền Trang. Cơn cuồng si là cuốn sách kể lại chuyện tình đầy nhục dục và ám ảnh, khổ đau và thương nhớ của bà với một nhà ngoại giao nước ngoài đã có gia đình. Nữ văn sĩ luôn trung thực, thành thật với nỗi đau, không né tránh sự thật. Trong cuốn Nỗi nhục, câu văn mở đầu khiến bất kỳ độc giả nào cũng phải bất ngờ bởi nội dung lẫn tính trần thuật: "Bố tôi đã định giết mẹ tôi vào đầu buổi chiều một Chủ nhật tháng Sáu". Câu văn như sự tường thuật rất phẳng, không ẩn dụ. Đó cũng chính là nguồn cơn của nỗi nhục mà thiếu nữ Annie Ernaux cảm thấy về cha mẹ mình, về nghề nghiệp và môi trường sống của họ. “Annie xử lý chất liệu trong đời thật, coi cuộc đời mình như kiểu mẫu để nghiên cứu về dân tộc, giai cấp, không chỉ đơn thuần là những sự kiện hư cấu tự sự mà bà nghĩ ra để thu hút khán giả”, nhà văn Hiền Trang nói. Đấu tranh giai cấp, nữ quyền Nỗi mặc cảm về nguồn gốc là yếu tố cốt lõi của văn phong Annie. Annie luôn bị đày đọa bởi những nỗi mặc cảm, tự ti, ngượng ngùng khi xuất thân từ gia đình tầng lớp bình dân lao động chân tay - tầng lớp tiểu tư sản. Trong diễn từ nhận giải, Annie Ernaux thừa nhận bà viết văn để "trả thù" cho những người dân của mình, tạo ra thứ văn chương dành cho những người trong gia đình, bảo vệ những con người của tầng lớp mình. Nỗi mặc cảm về nguồn gốc là cốt lõi của văn phong của Annie Ernaux. Giai cấp tiểu tư sản luôn phải chắt chiu để trang trải qua ngày. “Bố cậu làm gì đây? Bán tạp hóa à? Thế thì cậu được ăn kẹo miễn phí nhỉ? Thật tuyệt!”, nhà văn bị bạn bè chế giễu. Ngôn ngữ như xoáy sâu vào nội tâm cô bé khiến cô vô cùng xấu hổ, tủi nhục. Annie dần nhận thức được rằng muốn thoát khỏi ngục tù của mình buộc phải "trả thù" trường học, chứng minh năng lực, tự giải phóng bản thân. Con đường duy nhất là học, nỗ lực không ngừng. Văn chương của Annie bình thường hóa những tâm tư, trải nghiệm khó nói của phái nữ. Ba cuốn sách đầu tiên Annie vẫn được coi là tiểu thuyết, tuy nhiên từ cuốn thứ tư trở đi bà theo đuổi thể loại tự truyện xã hội, thuật lại chính xác đời mình, đưa ra những lát cắt cuộc đời. “Annie viết theo thể thức tự truyện xã hội, coi tác phẩm là đại diện tầng lớp, viết cho giai cấp mình”, TS. Nguyễn Quyên nhận định. Ngòi bút dũng cảm, sắc lạnh Viết về nữ quyền, phong cách của Annie mang màu sắc, dấu ấn của văn học hiện thực. Văn chương của bà đã bình thường hóa những tâm tư, trải nghiệm khó nói của họ. Trong thời gian mang thai ngoài ý muốn, bà vẫn nghĩ đàn ông là người tốt. Ở Pháp, trước năm 1975, người dân vẫn chịu ảnh hưởng từ chủ nghĩa phụ quyền. Yếu tố thống trị của nam giới đã du nhập vào trong cơ thể nữ giới, trở thành “bộ phận không thể thiếu” trong cơ thể họ. Annie muốn dùng ngòi bút để giúp người phụ nữ tự giải phóng mình khỏi những quy ước xã hội gò bó. Ông Hervé Malagola - giáo viên văn học Pháp và La tinh, Trường Pháp Quốc tế Alexandre Yersin tại Hà Nội khẳng định nữ chủ nhân giải Nobel Văn học 2022 luôn là người muốn thăng tiến trong xã hội. Ông nhận định cách đây hơn 20 năm khi đọc Annie Ernaux, ông chưa hiểu thấu chủ đề đấu tranh cho nữ quyền trong tác phẩm của bà. Thông qua sáng tác, Annie Ernaux dẫn dắt độc giả vào những thăng trầm cuộc sống đời thường chân thực. Với văn phong tối giản, câu văn ngắn gọn, từng trang sách của nữ văn sĩ vừa là “liều thuốc chữa lành”, vừa là “vũ khí đấu tranh” cho cuộc đời chính mình. *** Annie Ernaux kể lại cuộc phiêu lưu tình ái ngắn ngủi của mình với một nhà ngoại giao nước ngoài đã có vợ. Một cuộc tình vụng trộm, thoáng qua nhưng mãnh liệt và đầy đam mê. Ba cuốn sách mới nhất của nhà văn Pháp Annie Ernaux được giới thiệu đến công chúng, gồm: Một người phụ nữ, Cơn cuồng si và Nỗi nhục. Các tác phẩm hé lộ những hồi ức sâu thẳm, từ kỷ niệm thơ ấu đến những bí mật thầm kín nhất của tác giả, là những điều mà có lẽ không phải ai cũng đủ dũng cảm để phơi bày. Một người phụ nữ kể về mẹ của Annie Ernaux. Cuốn sách mở đầu bằng thông báo về cái chết của bà và kết thúc bằng cảm giác của tác giả khi thực sự nhận ra mẹ không còn trên cõi đời. Xuyên suốt cuốn sách, Annie Ernaux tìm lại những gương mặt khác nhau của mẹ - vốn là một phụ nữ khỏe mạnh, xông xáo, cởi mở, qua đời sau thời gian mắc bệnh Alzheimer (suy giảm trí nhớ). Nữ nhà văn cũng cho thấy sự tiến triển, tính hai mặt của những tình cảm mà một người con gái dành cho mẹ: tình yêu, lòng thù ghét, sự âu yếm, cảm giác tội lỗi và cuối cùng là sự gắn bó máu thịt. Tác phẩm là tuyên ngôn tình yêu đầy tinh tế và sắc sảo của Annie Ernaux dành tặng người mẹ quá cố, qua ngòi bút tưởng như lạnh lùng (một cách có chủ đích) của bà.   Cuốn sách "Một người phụ nữ" kể về mẹ của tác giả Annie Ernaux Cơn cuồng si kể về mối tình bí mật bị chôn giấu của Annie Ernaux. Nữ nhà văn kể lại cuộc phiêu lưu tình ái ngắn ngủi của mình với một nhà ngoại giao nước ngoài đã có vợ. Một cuộc tình vụng trộm, thoáng qua nhưng mãnh liệt, đầy đam mê và đã để lại cho bà nhiều khổ đau, nhung nhớ. Vào thời điểm ra mắt tại Pháp, cuốn sách đã nhận về nhiều ý kiến trái chiều. Bởi thời đó, một nữ trí thức theo chủ nghĩa nữ quyền lại mô tả một mối tình nơi đàn ông là bên thống trị, là điều không thể chấp nhận. Tuy nhiên, Annie Ernaux viết về chủ đề ngoại tình nhưng không bào chữa, cũng không thuyết giảng. Bà không nói đúng hay sai mà chỉ kể về tình cảm đơn phương cùng những cung bậc cảm xúc của mình trong cuộc tình ấy. Một cuộc tình với cái kết được báo trước là không có hậu và "vô nghĩa" như chính tác giả đã thừa nhận. Tất cả mang đến cho câu chuyện một cái nhìn đầy thực tế và vượt qua mọi chuẩn mực. "Cơn cuồng si" là mối tình bí mật bị chôn giấu của Annie Ernaux Nỗi nhục bắt đầu bằng một câu văn lạnh lùng gây bất ngờ: "Bố tôi đã định giết mẹ tôi vào đầu buổi chiều một Chủ nhật tháng Sáu". Đây chính là nguồn cơn mà thiếu nữ Annie Ernaux cảm nhận về cha mẹ, về nghề nghiệp và môi trường sống của họ. Mỗi người đều có một nỗi nhục, một cảm giác xấu hổ thầm kín tuyệt đối không thể nói ra. Người ta thường chạy trốn, che giấu và cố quên nó, nhưng Annie Ernaux, bằng một sự dũng cảm phi thường, đã phơi bày tất cả. Cảnh tượng cha suýt giết mẹ là điều mà Annie Ernaux từng không dám viết, nhưng lại là cảnh không thể nào quên và liên tục xuất hiện trở lại trong đầu bà. Câu chuyện cứ thế tiếp tục, chen vào bằng những hồi ức khác về tuổi thơ, về thành phố, về ngôi trường Công giáo bà từng theo học… Nỗi nhục, nỗi xấu hổ càng nhân lên gấp bội khi cô thiếu nữ bước vào tuổi dậy thì trong một xã hội đang xuống cấp và vấn đề phân chia giai cấp ngày một sâu hơn. Mối tình bí mật gây chấn động của nữ nhà văn đoạt giải Nobel Văn học - 3 "Nỗi nhục" là nguồn cơn mà tác giả cảm nhận về cha mẹ, về nghề nghiệp và môi trường sống của họ (Ảnh: Nhã Nam). Trong suốt hành trình sáng tác của mình, Annie Ernaux có một góc nhìn khác biệt về cuộc sống, giới tính và giai cấp. Thay vì cuốn người đọc vào những thăng trầm cuộc đời hay những chủ đề to tát, bà chỉ tập trung những sự kiện nhỏ nhặt, đời thường mà chân thực. Lịch sử của bà là lịch sử nhỏ, nhưng lịch sử nhỏ gắn kết với lịch sử lớn. Câu văn ngắn gọn, rõ ràng, văn phong tối giản và không hoa mỹ, những tác phẩm của Annie Ernaux đôi lúc bị chê khô khan, nhưng sự lạnh lùng ấy mới chính là thứ tạo nên vẻ đẹp riêng. Những cuốn sách của bà chạm đến tâm hồn người đọc, truyền tải những cảm xúc thô sơ mà không cần bất cứ thứ gì tô điểm. Tháng 10/2022, Annie Ernaux được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel Văn học. Bà trở thành nữ nhà văn người Pháp đầu tiên giành giải thưởng văn học danh giá nhất thế giới. Hội đồng trao giải Nobel đã vinh danh Annie Ernaux "vì lòng dũng cảm và sự nhạy bén sắc lạnh bà sử dụng để khám phá ra gốc rễ, sự bất hòa và những hạn chế của ký ức cá nhân". Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã nhận xét: "Suốt 50 năm qua, Annie Ernaux viết cuốn tiểu thuyết về ký ức tập thể và riêng tư của đất nước chúng ta. Tiếng nói của bà là tiếng nói của tự do, của người phụ nữ và của những điều đã bị lãng quên trong thế kỷ qua".  Mời các bạn mượn đọc sách Cơn Cuồng Si của tác giả Annie Ernaux & Thu Phương (dịch).
Tý - Chiếc Lá Ổi Non, Cây Tre Triệu Đốt
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tý - Chiếc Lá Ổi Non, Cây Tre Triệu Đốt của tác giả Thích Nhất Hạnh. Phần 1: Cây Tre Triệu Đốt 1. Chó con trông thấy trời xanh lần đầu Hôm nay là ngày chủ nhật. Trời lại có nắng. Tý không thấy lạnh như mọi hôm. Trong buổi ăn sáng, Ba đề nghị cho thằng Chó Con đi chơi ngoài trời. Chó Con là em bé của Tý, mới được bốn tháng rưỡi. Suốt mấy tháng nay, Chó Con chưa được đi ra ngoài trời lần nào. Mẹ sợ Chó Con bị lạnh. Nghe Ba nói hôm nay cho Chó Con ra ngoài trời chơi, Mẹ nhìn Ba với nét mặt lo ngại. Ba cười: -  Không sao đâu, em mặc áo thật ấm cho nó, rồi bọc nó trong cái mền len nhỏ màu trắng. Qua cửa sổ nhà bếp, Tý nhìn ra ngoài trời. Nắng hôm nay đẹp thật. Trong khi Mẹ đi lo mặc áo cho Chó Con, Tý mang ủng, mặc thêm chiếc áo lông cừu màu vàng, rồi mở cửa đi ra ngoài. Ðúng rồi, hôm nay trời ấm thật. Nhìn lên, Tý không thấy một đám mây nào. Nó đi vào nhà kho tìm chiếc xe nôi của dì Marie Paule cho hồi tháng chạp năm ngoái. Mẹ sẽ đặt Chó Con vào xe này, rồi đẩy em bé đi chơi. Chó Con sinh ngày mồng năm tháng mười năm ngoái tại trại tạm cư Strasbourg, miền Ðông Bắc nước Pháp. Trên giấy tờ, nó tên là Nhật Tâm. Mẹ có mang bé Nhật Tâm hồi gia đình còn ở trong trại tỵ nạn Palawan bên nước Phi Luật Tân. Ba nói Nhật Tâm là trái tim mặt trời. Tý tự hỏi: mặt trời mà cũng có trái tim nữa sao? Hồi còn ở Việt Nam, Tý đã có lần nghe thầy giáo của Tý nói rằng mặt trời là một khối lửa rất lớn, lớn gấp mấy chục ngàn lần trái đất. Mặt trời như vậy là nóng lắm. Trái tim mặt trời chắc còn nóng hơn cả mặt trời nữa. Ðã có lần Tý định hỏi Ba xem tại sao mặt trời mà cũng có trái tim, nhưng Tý chưa bao giờ hỏi. Tý nghĩ: mình cứ để vậy, một ngày kia có thể là mình tự hiểu được, khỏi cần hỏi Ba. Khi Tý tìm được chiếc xe nôi và đem ra sân nắng đợi Chó Con thì thằng Miêu cũng vừa ra tới. Miêu là em của Tý, năm nay bảy tuổi. Nó đi đôi ủng màu đỏ, mặc cái áo ấm màu nâu và cái quần tây màu xanh dương. Thật ra nó tên là Miu bởi vì nó sinh vào năm Mão, nhưng ai cũng gọi nó là Miêu. Mặt mày thằng Miêu sáng sủa nhưng thân hình nó mảnh khảnh. Miêu chưa biết ẵm em, dù nó đã lớn. Mẹ không dám giao em cho Miêu giữ, bởi vì có lần giữ em, Miêu đã làm cho em ngã dập môi. Nhìn cái môi nhỏ xíu của Chó Con sưng vù lên, cả nhà ai cũng thương. Tý chạy vào nhà. Mẹ đã mặc áo, đi tất và đội mũ lên cho Chó Con xong rồi. Mẹ còn bọc Chó Con trong một cái mền len trắng nữa. Tý đưa hai tay ra đón lấy em bé. Nó ẵm em ra sân. Ra tới sân, Tý chưa kịp đặt em vào xe nôi thì Chó Con đã khóc lên. Tý lấy làm lạ. Chó Con ít khi khóc lên một cách vô cớ như vậy. Nó nhìn vào mặt em bé để tìm hiểu lý do tại sao em bé khóc. Và nó hiểu ngay. Ðây là lần đầu tiên Chó Con trông thấy bầu trời rộng mông mênh. Chó Con chưa bao giờ thấy một cái gì cao như thế và rộng như thế. Từ khi sinh ra đời, nó chỉ quen với không gian chật hẹp của căn phòng ngủ và căn phòng khách. Nó sợ. Nó khóc là phải. Năm ngoái, hồi tháng mười, lúc gia đình Tý rời trại tạm cư Strasbourg để về định cư tại đây, Chó Con mới sinh được mười hôm. Nó ngủ trong tay Mẹ suốt thời gian đi xe lửa. Ðó là lần đầu tiên Chó Con được ẵm đi ra ngoài trời. Suốt ngày hôm ấy trời đầy mây và thỉnh thoảng lại có mưa. Chó Con lúc ấy còn nhỏ quá; hai mắt của nó còn lờ đờ chưa phân biệt được sự vật bên ngoài. Suốt bốn tháng trời, ngày nào Tý cũng có ẵm Chó Con và nhìn vào mắt nó. Có một hôm Tý có cảm tưởng rằng Chó Con nhận ra được Tý. Tý không dám chắc, nhưng Tý biết rằng hai mắt của Chó Con càng ngày càng có tinh thần và càng ngày càng có khả năng phân biệt. Bốn tháng rưỡi rồi, bây giờ Chó Con đã lớn. Hôm nay nó được trông thấy bầu trời cao vút và xanh ngắt. Cuộc tiếp xúc này làm cho nó sợ. Nhưng Chó Con không khóc lâu. Nó làm quen với bầu trời rất mau chóng. Bầu trời hôm nay có vẻ dịu hiền, tươi sáng và ấm áp. Trông thấy khuôn mặt quen thuộc của Tý, Chó Con cười. Hôm nay Chó Con làm quen được với bầu trời; nó vừa có bầu trời vừa có anh Tý. Nó cười là phải. Tý đặt Chó Con vào xe nôi. Nó đẩy xe nhè nhẹ. Chó Con có vẻ bằng lòng lắm. Ba, Mẹ và chú Dũng vừa ra tới. Mẹ lên tiếng gọi Miêu. Rồi cả bốn người đi theo xe của Chó Con, do Tý đẩy. *** Tóm tắt Chương 1 của tiểu thuyết "Tý - Chiếc Lá Ổi Non, Cây Tre Triệu Đốt" kể về lần đầu tiên thằng Chó Con, em trai của Tý, được ra ngoài trời chơi. Hôm nay trời nắng đẹp, Ba đề nghị cho Chó Con ra ngoài chơi. Mẹ lo lắng Chó Con bị lạnh, nhưng Ba trấn an rằng sẽ mặc cho Chó Con thật ấm. Tý mang ủng, mặc thêm chiếc áo lông cừu màu vàng, rồi mở cửa đi ra ngoài. Nhìn lên, Tý không thấy một đám mây nào. Nó đi vào nhà kho tìm chiếc xe nôi của dì Marie Paule cho hồi tháng chạp năm ngoái. Mẹ sẽ đặt Chó Con vào xe này, rồi đẩy em bé đi chơi. Ra tới sân, Tý chưa kịp đặt em vào xe nôi thì Chó Con đã khóc lên. Tý lấy làm lạ. Chó Con ít khi khóc lên một cách vô cớ như vậy. Nó nhìn vào mặt em bé để tìm hiểu lý do tại sao em bé khóc. Và nó hiểu ngay. Ðây là lần đầu tiên Chó Con trông thấy bầu trời rộng mông mênh. Chó Con chưa bao giờ thấy một cái gì cao như thế và rộng như thế. Từ khi sinh ra đời, nó chỉ quen với không gian chật hẹp của căn phòng ngủ và căn phòng khách. Nó sợ. Nó khóc là phải. Năm ngoái, hồi tháng mười, lúc gia đình Tý rời trại tạm cư Strasbourg để về định cư tại đây, Chó Con mới sinh được mười hôm. Nó ngủ trong tay Mẹ suốt thời gian đi xe lửa. Ðó là lần đầu tiên Chó Con được ẵm đi ra ngoài trời. Suốt ngày hôm ấy trời đầy mây và thỉnh thoảng lại có mưa. Chó Con lúc ấy còn nhỏ quá; hai mắt của nó còn lờ đờ chưa phân biệt được sự vật bên ngoài. Suốt bốn tháng trời, ngày nào Tý cũng có ẵm Chó Con và nhìn vào mắt nó. Có một hôm Tý có cảm tưởng rằng Chó Con nhận ra được Tý. Tý không dám chắc, nhưng Tý biết rằng hai mắt của Chó Con càng ngày càng có tinh thần và càng ngày càng có khả năng phân biệt. Bốn tháng rưỡi rồi, bây giờ Chó Con đã lớn. Hôm nay nó được trông thấy bầu trời cao vút và xanh ngắt. Cuộc tiếp xúc này làm cho nó sợ. Nhưng Chó Con không khóc lâu. Nó làm quen với bầu trời rất mau chóng. Bầu trời hôm nay có vẻ dịu hiền, tươi sáng và ấm áp. Trông thấy khuôn mặt quen thuộc của Tý, Chó Con cười. Hôm nay Chó Con làm quen được với bầu trời; nó vừa có bầu trời vừa có anh Tý. Nó cười là phải. Tý đặt Chó Con vào xe nôi. Nó đẩy xe nhè nhẹ. Chó Con có vẻ bằng lòng lắm. Ba, Mẹ và chú Dũng vừa ra tới. Mẹ lên tiếng gọi Miêu. Rồi cả bốn người đi theo xe của Chó Con, do Tý đẩy. Review Chương 1 của tiểu thuyết "Tý - Chiếc Lá Ổi Non, Cây Tre Triệu Đốt" là một chương mở đầu nhẹ nhàng, trong sáng, mang đậm chất thơ. Chương truyện kể về một sự kiện nhỏ bé trong cuộc sống của gia đình Tý, nhưng lại mang nhiều ý nghĩa. Sự kiện Chó Con được ra ngoài trời chơi lần đầu tiên là một cột mốc quan trọng trong cuộc đời của em bé. Nó đánh dấu sự bắt đầu của một cuộc sống mới, một thế giới mới, rộng lớn và tươi đẹp hơn. Câu chuyện cũng thể hiện tình yêu thương của gia đình Tý dành cho Chó Con. Ba, Mẹ và Tý đều rất vui mừng khi Chó Con được ra ngoài chơi. Họ cùng nhau đưa Chó Con đi dạo, để em bé được khám phá thế giới xung quanh. Chương truyện được kể bằng giọng văn nhẹ nhàng, trong sáng, giàu chất thơ. Ngôn ngữ của tác giả Thích Nhất Hạnh giản dị, gần gũi, dễ hiểu. Một số điểm nổi bật của chương truyện: Câu chuyện kể về một sự kiện nhỏ bé trong cuộc sống của gia đình Tý, nhưng lại mang nhiều ý nghĩa. Câu chuyện thể hiện tình yêu thương của gia đình Tý dành cho Chó Con. Câu chuyện được kể bằng giọng văn nhẹ nhàng, trong sáng, giàu Mời các bạn mượn đọc sách Tý - Chiếc Lá Ổi Non, Cây Tre Triệu Đốt của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Kho Báu Núi Gấm
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Kho Báu Núi Gấm của tác giả Bùi Chí Vinh.  Trong tập Kho Báu Núi Gấm này, các bạn trẻ lại tiếp tục hành trình "trừ gian diệt ác" với hai "phi vụ" đầy thử thách - thử tài trí và thách thức sức bến của mỗi thành viên. Ngũ Quái Sài Gòn, không chỉ đối đầu với tội phạm thông thường, đôi khi còn đụng phải những nhận vật có tài năng phi thường nhưng chọn đi theo tà đạo, và, trong những trường hợp này, câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn hơn bao giờ hết. *** "Ngũ quái Sài Gòn" là bộ sách khá nổi tiếng của tác giả Bùi Chí Vinh đã ra đời cách đây 20 năm. Vào thời điểm ra mắt, bộ sách đã được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt và đã được chuyển thể thành phim truyền hình 15 tập. Sách và phim đều xoay quanh những vụ án và diễn biến phức tạp của bọn tội phạm đa phần là những thanh thiếu niên sống lang thang và thiếu sự giáo dục của xã hội và gia đình. Trước hiện thực đó, một nhóm 5 thiếu niên đã thành lập nhóm ngũ quái, và bằng những kĩ năng khác nhau, họ âm thầm giúp lực lượng cảnh sát chống phá những băng nhóm tội phạm nguy hiểm. Không sợ nguy hiểm, hành động với mục đích mang lại hòa bình và trật tự cho thành phố là phương châm của nhóm. Ngũ quái Sài Gòn gồm có: Cuộc Chơi Không Hẹn Trước Chuyện Của Thúy Bụi Và Quyên Tiểu Muội Chuyện Của Thạch Sầu Đời Và Hoàng Lãng Tử Đụng Độ Cá Mập Và Ninja Bí Mật Thung Lũng Tử Thần Truy Tìm Con Trăn Chúa Kho Báu Núi Gấm Khách Sạn Ma Hầu Vương Tái Thế Rùa Thiêng Gươm Báu Vườn Khủng Long Những Con Rối Quỷ Hải Tặc Hoàng Hậu Ăn Mày Người Rừng Kẻ Xuyên Tường Cọp Thần Lông Trắng Bí Mật Động Thiên Cung Thị Trấn Dịch Hạch Rửa Tay Gác Kiếm   *** Trong dòng sách thiếu nhi, bên cạnh cái tên Nguyễn Nhật Ánh vốn quá quen thuộc với bạn đọc thì còn một cái tên khác là nhà văn Bùi Chí Vinh với bộ truyện thiếu nhi nổi tiếng Năm Sài Gòn.  Sáng 23-8, bộ truyện này đã được NXB Trẻ chính thức tái bản với nhiều nét mới lạ trong đó nổi bật là việc đổi tên thành Ngũ quái Sài Gòn. Khoảng năm 1994-1996, NXB Kim Đồng đã đặt hàng nhà văn Bùi Chí Vinh “Việt hóa” bộ sách thiếu nhi nổi tiếng của Đức có nhan đề Tứ quái TKKG của nhà văn Rolf Kalmuczak, với bút danh Stefan Wolf. Đây là một hình thức làm sách quen thuộc thời đó khi dựa vào tác phẩm gốc của nước ngoài và chỉnh sửa lại cho phù hợp với bạn đọc trong nước. Nhà văn Bùi Chí Vinh đã “Việt hóa” TKKG bằng cách viết lại toàn bộ, chỉnh sửa, cắt xén cũng như thêm thắt nhiều chi tiết và nhân vật không có trong truyện và bộ sách đã rất thành công. Năm 2009, Công ty TNHH Văn hóa Vàng Anh mua bản quyền bộ truyện TKKG và đã ra mắt độc giả Việt Nam bản dịch chuẩn vào tháng 3-2010 nhưng không mấy thành công. Như chính nhà văn Bùi Chí Vinh thừa nhận, thành công của TKKG khi đó đã khiến ông nung nấu thực hiện một tác phẩm về những nhân vật thiếu nhi trừ gian diệt bạo “thuần Việt” và từ đó Năm Sài Gòn xuất bản lần đầu vào năm 1996. Tác giả cũng không phủ nhận sự ảnh hưởng của TKKG trong việc xây dựng tuyến nhân vật nhưng đó là điểm chung duy nhất. Toàn bộ bối cảnh, sự kiện, tâm lý… hoàn toàn mang đậm màu sắc đường phố Việt Nam khi đó. Vào những năm 90 của TK 20, bộ sách Năm Sài Gòn đã rất thành công khi đánh trúng tâm lý bạn đọc nhỏ tuổi khi đó đang thiếu môt tác phẩm mang chất hào hùng, mạnh mẽ, mang chất anh hùng. Bộ truyện tổng cộng gồm 40 tập đã được nhiều NXB như Kim Đồng, Thanh Niên… in đi in lại nhiều lần. Năm 2006, tác phẩm được dựng thành phim truyền hình và lấy tên là Ngũ quái Sài Gòn.  Trong lần tái bản mới nhất này, bộ truyện sẽ chính thức lấy tên là Ngũ quái Sài Gòn và được sắp xếp lại với 20 tập, mỗi 2 tuần sẽ ra mắt 1 tập.           Ngũ quái Sài Gòn gắn liền với những đam mê, khát vọng hành hiệp của tuổi trẻ những năm 90. Tác phẩm được ví von đã góp phần khơi dậy dòng máu anh hùng của tuổi trẻ Việt dù ở bất cứ đâu, sống thế nào và làm nghề gì. Văn phong mang đậm chất đời thường, chất đường phố và đặc biệt là với sự hiểu biết về thế giới bụi đời ngày đó từ cách thức sinh hoạt, tiếng lóng, lối sống… khiến bộ truyện tạo nên ấn tượng cho giới trẻ khi ấy. Với thế hệ trẻ hiện nay, bộ truyện có thể xem như là một hình thức tái hiện quá khứ, để giới trẻ hiện nay phần nào hiểu thêm những gì mà thế hệ đi trước cũng như chuyển tải giá trị xuyên suốt là tinh thần dũng mãnh, thẳng thắn và trọng nghĩa.   TƯỜNG VÂN *** Tóm tắt Ngũ quái Sài Gòn là một bộ truyện thiếu nhi nổi tiếng của nhà văn Bùi Chí Vinh, được xuất bản lần đầu vào năm 1996. Bộ truyện xoay quanh cuộc sống và hành trình trừ gian diệt bạo của một nhóm 5 thiếu niên: Sơn Đại ca: Lãnh đạo của nhóm, có tính cách mạnh mẽ, dũng cảm, luôn sẵn sàng đứng lên đấu tranh cho lẽ phải. Quyên Tiểu muội: Nữ chính của truyện, có tính cách thông minh, nhanh nhẹn, giỏi võ thuật. Hoàng Lãng tử: Có tính cách lém lỉnh, hài hước, nhưng cũng rất dũng cảm và nghĩa hiệp. Thúy Bụi: Có tính cách lạc quan, yêu đời, luôn mang đến tiếng cười cho mọi người. Thạch Sầu đời: Có tính cách trầm tính, ít nói, nhưng rất giỏi võ thuật và có nhiều tài năng khác. Nhóm Ngũ quái Sài Gòn đã cùng nhau giải quyết nhiều vụ án phức tạp, góp phần mang lại hòa bình và trật tự cho thành phố. Review Ngũ quái Sài Gòn là một bộ truyện hấp dẫn, lôi cuốn với những tình tiết gay cấn, hồi hộp. Các nhân vật trong truyện được xây dựng rất sinh động, chân thực, mang đậm tính cách của lứa tuổi thiếu niên. Bộ truyện đã thể hiện được tinh thần dũng cảm, nghĩa hiệp, sẵn sàng đứng lên đấu tranh cho lẽ phải của tuổi trẻ. Đồng thời, tác phẩm cũng mang đến cho người đọc những thông điệp ý nghĩa về cuộc sống, về tình bạn, tình yêu và gia đình. Đánh giá Ngũ quái Sài Gòn là một trong những bộ truyện thiếu nhi kinh điển của Việt Nam, đã gắn liền với tuổi thơ của nhiều thế hệ bạn đọc. Bộ truyện đã góp phần mang đến cho bạn đọc những giây phút giải trí thú vị, đồng thời bồi đắp cho các bạn trẻ những giá trị nhân văn tốt đẹp. Đối tượng phù hợp Bộ truyện Ngũ quái Sài Gòn phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi từ 10-15 tuổi. Mời các bạn mượn đọc sách Kho Báu Núi Gấm của tác giả Bùi Chí Vinh.